Trang

Thứ Tư, 11 tháng 6, 2025

12.06.2025: THỨ NĂM TUẦN X THƯỜNG NIÊN

 

12/06/2025

 Thứ Năm tuần 10 thường niên


 

Bài Ðọc I: (Năm I) 2 Cr 3, 15 – 4, 1. 3-6

“Thiên Chúa chiếu sáng trong lòng chúng ta, hầu làm sáng tỏ sự hiểu biết về vinh quang của Người”.

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, cho đến nay, mỗi lần đọc sách Môsê, vẫn còn có cái màn che lòng con cái Israel. Nhưng khi người ta đã trở lại cùng Chúa, màn ấy mới được cất đi. Chúa là Thần linh, và ở đâu có Thần linh Chúa, thì ở đấy có tự do. Phần chúng ta hết thảy, không màn che mặt, chúng ta phản ảnh vinh quang của Chúa, được biến hoá giống hình ảnh Chúa, từ vinh quang này đến vinh quang khác, xứng với tác động của Thần Linh Chúa.

Bởi thế, đảm nhiệm việc phục vụ do lòng thương xót chúng tôi đã được hưởng, chúng tôi không ngã lòng. Nếu Phúc Âm chúng tôi còn ẩn khuất, thì cũng chỉ ẩn khuất cho những ai hư mất, cho những ai không tin, vì thần thế gian này đã làm cho tâm trí họ trở thành mù quáng, khiến họ không còn thấy sáng chói Phúc Âm của vinh quang Ðức Kitô, Người là hình ảnh của Thiên Chúa. Thật vậy, chúng tôi không rao giảng bản thân chúng tôi, nhưng rao giảng Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng tôi: chúng tôi chỉ là tôi tớ anh em vì Ðức Giêsu, bởi Thiên Chúa, Ðấng đã phán: “Sự sáng hãy từ bóng tối toả ra”, chính Người chiếu sáng trong lòng chúng ta, hầu làm sáng tỏ sự hiểu biết về vinh quang của Người trên tôn nhan của Ðức Giêsu Kitô.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 84, 9ab-10. 11-12. 13-14

Ðáp: Vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi

Xướng: Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi.

Xướng: Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống.

Xướng: Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Người.

 

Alleluia: Ga 14, 29

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Nếu ai yêu Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. – Alleluia.

(Hoặc đọcAlleluia, alleluia! Chúa nói: Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. Alleluia.)

 

Phúc Âm: Mt 5, 20-26

“Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu.

“Các con đã nghe dạy người xưa rằng: “Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án”. Còn Thầy, Thầy sẽ bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là “ngốc”, thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là “khùng”, thì sẽ bị vạ lửa địa ngục. Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan toà, quan toà lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho con biết: Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng!”

Ðó là lời Chúa.

 


Chú giải về 2 Cô-rinh-tô 3,15—4,1.3-6

Chúng ta tiếp tục quan điểm mà Phao-lô đã nêu ra ngày hôm qua. Chúng ta có một đoạn văn giàu ý nghĩa và đầy ẩn dụ về trải nghiệm tại Núi Si-nai. Ông tiếp tục nói với người Cô-rinh-tô rằng việc tuân thủ Luật pháp tự nó chỉ có thể mang lại sự chết, trong khi Đức Thánh Linh mang lại sự sống.

…cho đến tận ngày nay, mỗi khi đọc sách của Môi-se, một tấm màn che phủ tâm trí họ…

Bây giờ, Phao-lô chuyển từ thời giao ước tại Núi Si-nai sang thời điểm hiện tại. Ông đang nói rằng dân Ít-ra-en vào thời của Môi-se tượng trưng cho người Do Thái thời hiện tại, và ông cũng có thể đang ám chỉ đến một số Ki tô hữu gốc Do Thái, những người vẫn chưa nhận ra bản chất tạm thời của vinh quang được thấy nơi Môi-se. Kết quả là, khi các tác phẩm của Môi-se được đọc trong hội đường, một tấm màn vẫn ngăn cản họ nhận ra bản chất tạm thời của vinh quang của Môi-se. Có một tấm màn, giống như một tấm màn ngăn cản họ hiểu đầy đủ.

Khi Môi-se đọc Luật pháp cho dân chúng, ông phải che mặt vì dân chúng không thể chịu được sự sáng chói của nó. Nhưng bây giờ, Phao-lô nói, bức màn không ở trên mặt của Môi-se, mà ở trên tâm trí của những người nghe, những người không thể thấy rằng sứ điệp của Môi-se đã bị Lời của Đấng Ki-tô chiếm lấy. Tuy nhiên, Phao-lô nói:

…khi một người hướng về Chúa, bức màn được cất đi.

Trong Xuất Hành, Môi-se hiện ra trước mặt Chúa mà không có bức màn và nhìn vào mặt Chúa mà không được bảo vệ. Phao-lô áp dụng đoạn văn đó cho những người cải đạo sang Ki tô giáo: khi họ hướng về Chúa một cách trọn vẹn và chân thực, thì trở ngại cho sự hiểu biết của họ được cất đi. Họ có thể nhìn thẳng vào mặt Chúa:

…Chúa là Thánh Linh, và nơi nào có Thánh Linh của Chúa, nơi đó có sự tự do.

“Chúa” mà Ki tô hữu hướng đến là Thánh Linh mà Phao-lô đã nói đến, Thánh Linh ban sự sống của Đức Chúa Trời hằng sống, là Đấng khởi xướng giao ước và chức vụ mới. Ngài cũng là Thánh Linh của Đấng Ki-tô. Và Thánh Linh của Chúa Giê-xu là thần linh của sự tự do thực sự, cho phép một người theo lẽ thật của Chúa, yêu thương một cách sáng tạo và trở nên sống động hơn mỗi ngày. Điều này trái ngược với hiệu ứng ngột ngạt của ‘chức vụ của sự chết’ từ Luật cũ đã mang lại rất nhiều sự lên án:

Và tất cả chúng ta, với khuôn mặt không che phủ, nhìn thấy vinh quang của Chúa như thể phản chiếu trong một tấm gương, đang được biến đổi thành cùng một hình ảnh từ mức độ vinh quang này đến mức độ vinh quang khác, vì điều này đến từ Chúa, là Thánh Linh.

Ở đây chúng ta có hình ảnh tấm màn che được sử dụng lại. Các Ki tô hữu (người Israel mà tấm màn che đã được gỡ bỏ) giống như Môi-se, đứng trước sự hiện diện của Chúa, ngắm nhìn và phản chiếu vinh quang của Ngài. Qua việc ‘ngắm nhìn’ Chúa, chúng ta được biến đổi, ngày càng giống với Chúa Giêsu, chính Ngài là Hình ảnh của Chúa. Như Chúa Giêsu đã nói:

…bất kỳ ai thấy Ta là thấy Đấng đã sai Ta. (Gioan 12,45)

Thánh Linh ban sự sống của Đức Chúa Trời, cũng ở trong Chúa Giêsu, đã hiện diện trong cộng đồng nơi sự biến đổi đang diễn ra. Cộng đồng là Thân thể đầy dẫy Thánh Linh của Đấng Ki-tô.

Vì vậy, vì chúng ta tham gia vào chức vụ này là nhờ lòng thương xót của Đức Chúa Trời, nên chúng ta không nản lòng.

Một chức vụ như thế này tạo ra sự tự tin và thẳng thắn, ngay cả khi Phao-lô—như hiện tại—gặp phải sự chỉ trích và phản đối. Ông tin chắc rằng Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời ở cùng ông và công việc ông đang làm cho phúc âm.

Bây giờ Phao-lô sẽ giải quyết vắn tắt một số lời chỉ trích nhắm vào ông:

Và ngay cả khi phúc âm của chúng ta bị che khuất, thì nó cũng bị che khuất đối với những người đang hư mất.

Đây là ứng dụng cuối cùng của hình ảnh bức màn che. Có vẻ như Phao-lô đang bị chỉ trích vì sự mơ hồ trong lời rao giảng của mình, hoặc vì cách ông trình bày Phúc âm (có lẽ vì lời chỉ trích của ông đối với truyền thống Do Thái, điều này đặc biệt bị một số người coi chính Phao-lô là một người Do Thái từng nhiệt thành phản đối). Tuy nhiên, ông tự tin khẳng định rằng không có bức màn che phủ Phúc âm của ông. Nếu một số người không nhận ra ánh sáng của nó, thì đó là vì họ thiếu đức tin. Phao-lô nói:

…thần của thế gian này đã làm mù lòng những người không tin, để họ không thấy rõ ánh sáng của phúc âm về vinh quang của Đấng Ki-tô, là hình ảnh của Đức Chúa Trời.

Bức màn che phủ mắt họ, một sự mù quáng do Sa-tan, “thần của thế gian này”, gây ra và là dấu hiệu cho thấy họ đang hướng đến sự hủy diệt.

Lời chỉ trích của Phao-lô là sai hướng:

Vì chúng tôi không rao giảng về chính mình; chúng tôi rao giảng Chúa Giê-su Ki-tô là Chúa và chúng tôi là tôi tớ của anh em vì Chúa Giêsu.

Ánh sáng được tiết lộ trong bài giảng của Phao-lô không đến từ ông, mà đến từ vinh quang của Chúa Kitô mà ông là sứ giả. Thay vì tự mình rao giảng, người rao giảng phải luôn là phương tiện trong suốt để Chúa Giêsu được nhận thức. Người rao giảng là một 'nô lệ' của Chúa Giêsu chứ không phải là người chỉ sử dụng danh Chúa Giêsu để thu hút sự chú ý vào mình. Như Gioan Tẩy Giả đã nói về Chúa Giêsu:

Ngài phải lớn lên, còn tôi phải giảm đi. (Gioan 3,30)

Một lần nữa từ Phao-lô:

Vì chính Đức Chúa Trời đã phán rằng: "Ánh sáng sẽ chiếu ra từ bóng tối", đã chiếu sáng trong lòng chúng ta để ban ánh sáng cho sự hiểu biết về vinh quang của Đức Chúa Trời trên mặt Chúa Kitô.

Ở đây, Phao-lô ám chỉ đến lời kêu gọi đầy kịch tính của chính mình khi ánh sáng chiếu từ thiên đàng trên ông khi ông đến Damascus để tấn công các Ki tô hữu ở đó. Đó là khởi đầu cho lời kêu gọi của Phao-lô để phục vụ phúc âm của Chúa Giêsu. Có lẽ trích dẫn này cũng là tiếng vọng của sự sáng tạo ra ánh sáng ở phần đầu Sách Sáng thế (1,3), và Phao-lô đang trình bày chức vụ tông đồ của mình như một sự sáng tạo mới. Cũng có thể có một sự ám chỉ đến một đoạn trong sách I-sai-a:

Dân tộc bước đi trong bóng tối

đã thấy một ánh sáng lớn… (Is 9,2)

Ở đây, Phao-lô đang ám chỉ đến ơn gọi tiên tri của mình là tôi tớ của Chúa và là ánh sáng cho các quốc gia. Và mục đích của sứ mệnh của ông là tiết lộ cho người khác vinh quang của Chúa hiện rõ trên khuôn mặt của Chúa Giê-su Ki-tô qua cuộc đời, cái chết và sự phục sinh của Người.

Một mặt, chúng ta cũng giống như Môi-sePhao-lô, được kêu gọi phản ánh sự sáng của Chúa và đồng thời, bản thân chúng ta trở nên ngày càng sáng hơn khi chúng ta ngày càng trở nên giống hình ảnh của Chúa hơn. Và ánh sáng của chúng ta không phải, như Chúa Giêsu đã nói với chúng ta trong Bài giảng trên núi, có nghĩa là làm lóa mắt hay làm mọi người mất tập trung mà là giúp họ nhận ra sự sáng ngời của chính Chúa và dẫn họ đến với Người:

Cũng vậy, ánh sáng của các con phải chiếu sáng trước mặt mọi người, để họ thấy những việc tốt lành của các con và tôn vinh Cha các con trên trời. (Mát-thêu 5,16)

 




Chú giải về Mát-thêu 5,20-26

Trong bài đọc hôm nay tiếp nối Bài giảng trên núi, ý của Chúa Giê-su khi nói rằng Người đến không phải để bãi bỏ Luật cũ mà là để vượt qua nó đã được làm rõ. Người đưa ra sáu ví dụ khác nhau về cách hiểu một số câu nói trong Cựu Ước của những người theo Người. Trên thực tế, Người nói rằng nếu chúng ta muốn trở thành người theo Người và làm công việc của Người, chúng ta phải tiến tới mức độ hiểu biết sâu sắc hơn mà Người đề xuất:

Vì Ta bảo các ngươi, nếu sự công chính của các ngươi không trổi hơn sự công chính của các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì các ngươi sẽ không bao giờ vào được Nước Trời.

Rõ ràng từ những gì chúng ta thấy về các kinh sư và người Pha-ri-sêu trong Phúc âm, đối với họ, đức hạnh tôn giáo bao gồm việc tuân thủ bên ngoài chính xác nhất mọi chi tiết của Luật Do Thái. Việc tuân thủ chữ nghĩa của Luật càng hoàn hảo thì người ta càng gần gũi với Chúa. Chúa Giê-su đã thách thức sự hiểu biết đó và điều đó dẫn đến những cuộc đối đầu nghiêm trọng với giới lãnh đạo tôn giáo.

Tất nhiên, cách sống của các kinh sư và người Pha-ri-sêu cũng có những điểm hấp dẫn riêng. Đây là cách dễ hơn nhiều để đo lường sự vâng lời của một người đối với Chúa. Và người ta cũng thấy điều tương tự ở các tôn giáo khác ngày nay. Trong số những người theo đạo Thiên chúa (kể cả Công giáo), người ta thấy rằng có một số người rất muốn biết liệu một hành động nào đó có 'là tội lỗi' hay không. Cách tiếp cận như vậy trong nhiều trường hợp dẫn đến sự tỉ mỉ và sợ hãi, tìm thấy tội lỗi ngay cả trong những điều nhỏ nhặt. Chúa trở thành cái bóng đe dọa sẵn sàng tấn công vào những hành vi sai trái nhỏ nhất.

Khi nói về luật Do Thái, ví dụ đầu tiên mà Chúa Giêsu đưa ra là về điều răn:

Ngươi không được giết người [giết]. (Xuất Hành 20,13)

Sự hiểu biết của Chúa Giêsu về điều răn này vượt xa việc thực sự giết người khác. Ngài thậm chí còn mở rộng nó thành sự tức giận và lời lẽ lăng mạ. Và sự tức giận thường có thể hoàn toàn bị khóa bên trong và vô hình đối với người ngoài. Chúa Giêsu nói:

Nhưng Ta bảo các ngươi rằng nếu các ngươi giận anh em mình, thì đáng bị xét xử; nếu các ngươi mắng anh em mình, thì đáng bị công đồng xét xử; nếu các ngươi mắng anh em mình, ‘đồ  khùng’, thì đáng bị lửa địa ngục thiêu đốt.

Nói cách khác, Chúa Giêsu loại trừ mọi hành vi bạo lực đối với anh em mình, dù là hành động, lời nói hay thậm chí là suy nghĩ.

Ngài cũng liên kết hành vi giữa các cá nhân với mối quan hệ của chúng ta với Chúa. Vậy thì, thật vô ích khi chúng ta ngoan đạo mang lễ vật của mình đến bàn thờ trong Đền thờ và dâng lên Chúa trong khi chúng ta - do lỗi của chính mình - lại xung đột với anh em mình. Chúng ta không thể tách biệt mối quan hệ của mình với Chúa khỏi mối quan hệ của chúng ta với anh em mình. Điều này sẽ được nêu rõ trong các phần khác của Phúc âm. Trước khi dâng lễ vật, trước tiên chúng ta phải hòa giải với anh em mình đang bị xúc phạm và chỉ sau đó, sau khi vết thương đã lành, chúng ta mới dâng lễ vật. Chúa Giêsu cũng khuyên chúng ta nên sớm hòa giải để tránh những rắc rối lớn hơn sau này. Không đáng để vào tù chỉ vì lòng căm thù hoặc tức giận với người khác.

Tất cả những điều này đều rất liên quan đến chúng ta. Bất cứ khi nào chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể, chúng ta nên nhớ lại những gì Chúa Giêsu nói trong văn bản này và thực hành. Trước khi dâng bánh và rượu, chúng ta được mời gọi, vào đầu Bí tích Thánh Thể, hãy thú nhận tội lỗi của mình với Chúa và với cộng đồng đang tụ họp:

Tôi thú nhận với Thiên Chúa toàn năng và với anh chị em, anh chị em của tôi, rằng tôi đã phạm tội…

Chúng ta thực sự suy nghĩ về những gì chúng ta đang nói vào lúc này bao nhiêu lần?

Một lần nữa, trước khi chia sẻ với những người khác trong Mình và Máu Chúa, chúng ta cầu nguyện:

… xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng con…

Và chúng ta cũng được mời gọi làm dấu hiệu hòa bình với tất cả những người xung quanh chúng ta. Vì làm sao chúng ta có thể chia sẻ Mình và Máu Chúa nếu chúng ta thù địch với một người anh chị em là thành viên của cùng một Thân thể đó? Nhưng một lần nữa, rất thường xuyên đây chỉ là một cử chỉ trống rỗng, với rất ít ý nghĩa thực sự và, phần lớn, được thực hiện với một người mà chúng ta thậm chí không biết. Chúng ta hãy cùng nhau tìm cách đưa lại ý nghĩa cho những nghi lễ dễ dàng bị biến thành vô nghĩa.

 

https://livingspace.sacredspace.ie/o1105g/

 




Suy Niệm: Sự thánh thiện đích thực

Chân phước Marchello, một kỹ nghệ gia giàu có người Italia, đã bán hết tất cả gia sản và sang Châu Mỹ La tinh phục vụ những người phong cùi, có kể lại câu chuyện như sau: tại một viện bài phung giữa rừng già miền Amazone, có một người đàn bà thoạt nhìn qua ai cũng thấy đáng thương. Từ nhiều năm qua, vì phong cùi, bà bị chồng con bỏ rơi, bà sống đơn độc trong một túp lều gỗ, mặt mũi đã bị đục khoét đến độ không còn hình tượng con người nữa.

Mang đến cho bà vài món quà, chân phước Marchello hỏi bà:

- Bà làm gì suốt ngày? Có ai đến thăm bà không?

Người đàn bà trả lời:

- Tôi sống đơn độc một mình. Tôi không còn làm được gì nữa, tay chân bại liệt, mắt mũi lại chẳng còn trông thấy gì nữa.

Marchello tỏ ra cảm thông trước nỗi khổ của bà, ngài hỏi:

- Vậy chắc bà phải cô đơn buồn chán lắm phải không?

Người đàn bà liền nói:

- Thưa ngài, không. Tôi cô độc thì có, nhưng tôi không hề cảm thấy buồn hoặc bị bỏ rơi, bởi vì tôi cầu nguyện suốt ngày và tôi luôn cảm thấy có Chúa bên cạnh.

Ngạc nhiên về lòng tin của bà, chân phước Marchello hỏi tiếp:

- Thế bà cầu nguyện cho ai?

Người đàn bà như mở to được đôi mắt mù lòa, bà nói:

- Tôi cầu nguyện cho Ðức Giáo Hoàng, cho các Giám Mục, Linh mục, Tu sĩ. Tôi cầu nguyện cho những người phong cùi bị bỏ rơi, cho các trẻ em mồ côi, cho tất cả những ai giúp đỡ trung tâm này.

Chân phước Marchello ngắt lời bà:

- Bà không cầu nguyện cho bà sao?

Với một nụ cười rạng rỡ, người đàn bà quả quyết:

- Tôi chỉ cầu nguyện cho những người khác mà thôi, bởi vì khi người khác được hạnh phúc, thì tôi cũng được hạnh phúc.

Thái độ sống và cầu nguyện của người đàn bà phong cùi trên đây minh họa cho sự thánh thiện đích thực là người chỉ sống cho người khác, lấy hạnh phúc của người khác làm của mình. Ðể có được thái độ như thế, chắc chắn phải có một đức tin sâu xa, một đức tin luôn đòi hỏi con người nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa trong mọi người và yêu thương mọi người. Như vậy, thánh thiện và bác ái cũng là một: thánh thiện mà không có bác ái là thánh thiện giả hình.

Chúa Giêsu đã đến để đem lại cho sự thánh thiện một nội dung đích thực. Ngài đề ra một mẫu mực thánh thiện hoàn toàn khác với quan niệm và thực hành của người Biệt Phái và Luật Sĩ, tức là những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó. Theo họ, thánh thiện là chu toàn một cách chi li và máy móc những luật lệ đã được quy định mà không màng đến linh hồn của lề luật là lòng bác ái; họ có thể trung thành tuyệt đối với những qui luật về ăn chay và cầu nguyện, nhưng lại sẵn sàng khước từ và loại bỏ tha nhân.

Ðả phá quan niệm và cách thực hành của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, Chúa Giêsu đưa bác ái vào trọng tâm của lề luật; hay đúng hơn, Ngài tóm lại tất cả lề luật thành một luật duy nhất, đó là lòng bác ái. Ai muốn làm môn đệ Ngài, người đó phải vượt qua quan niệm và cách thực hành đạo của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, nghĩa là cần phải lấy bác ái làm linh hồn và động lực cho toàn cuộc sống: "Nếu các con không ăn ở công chính hơn những Biệt Phái và Luật Sĩ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời."

Quả thật, nếu an bình, hân hoan, hạnh phúc là thể hiện của Nước Trời ngay trong cuộc sống này, thì chúng ta chỉ được vào Nước Trời, nếu chúng ta biết sống cho tha nhân mà thôi. Sống vui và hạnh phúc, phải chăng không là mơ ước của mọi người, nhưng liệu mỗi người có ý thức rằng bí quyết của hạnh phúc và niềm vui ấy chính là sống cho tha nhân không? Kỳ thực, các thánh là những người đạt được niềm vui và hạnh phúc ấy ngay từ cuộc sống này. Người Tây phương đã chẳng nói: "Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn" đó sao?

Nguyện xin Chúa cho chúng ta luôn biết tìm kiếm và cảm mến được niềm vui và hạnh phúc đích thực trong yêu thương và phục vụ.

 

(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét