Ngày 9 tháng 12
Ðức Trinh Nữ Maria Vô
Nhiễm Nguyên Tội
Lễ Trọng
* Ngay từ
giây phút đầu tiên trong đời, Đức Maria đã được gìn giữ khỏi vương bất cứ tội
lỗi nào, nhờ ân sủng do cái chết của Con mình. Như vậy, tín điều Đức Maria vô
nhiễm nguyên tội được đặt căn bản trên đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa. Đức Maria vô
nhiễm nguyên tội, cũng như được cất lên trời là hình ảnh tiên báo Hội Thánh.
Thiên Chúa muốn cho Hội Thánh không tỳ ố, không vết nhăn, hoặc bất cứ một
khuyết điểm nào.
Ðức Maria Vô Nhiễm
Nguyên Tội
"Thánh Maria,
Mẹ Thiên Chúa". Ngay từ những thế kỷ đầu, Giáo Hội đã hân hoan chúc tụng
với niềm tin tưởng vào chức vị cao trọng của Mẹ. Nhưng Giáo Hội phải trải qua
một thời gian lâu dài, để dần dần khám phá ra những kỳ công của ân sủng gói
ghém qua lời Kinh hằng được van xin trên môi miệng của các tín hữu. Thánh Irênê
đã cảm thấy trước đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ khi ngài ca ngợi Mẹ là
"Evà mới". Mãi tới thế kỷ XV, chúng ta mới thấy Giáo Hội diễn tả
trong phụng vụ "Thiên Chúa đã dọn cho Con Ngài một chỗ ở xứng đáng nhờ đặc
ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Ðức Trinh Nữ. Mẹ được giữ sạch không vương chút tội
lỗi nhờ vào ân sủng do cuộc tử nạn của Chúa Giêsu", và Ðức Giáo Hoàng Piô
IX đã lập lại những ý tưởng đó khi long trọng công bố tín điều Mẹ Vô Nhiễm
(08/12/1854).
Với đắc ân Vô
Nhiễm, Mẹ không phải chỉ được giữ sạch, không chút tội lỗi, mà Mẹ còn được tràn
đầy ơn phước: Thiên Chúa đã đổ tràn muôn hồng ân cho Mẹ, đã phủ kín gấu áo Mẹ
bằng một vẻ trắng trong tinh tuyền. Cũng như đặc ân lên trời, sự Vô Nhiễm bắt
nguồn từ chức vụ Mẹ Thiên Chúa. Và cũng như đặc ân lên trời, với Sự Vô Nhiễm
Nguyên Tội, Mẹ chính là hình ảnh của Giáo Hội: Thiên Chúa đã gìn giữ Giáo Hội,
hiền thê của Ngài, không tì ố, rực sáng vẻ đẹp thánh thiện và Vô Nhiễm.
Bài
Ðọc I: St 3, 9-15. 20
"Ta
sẽ đặt mối thù nghịch giữa miêu duệ mi và miêu duệ người phụ nữ".
Trích
sách Sáng Thế.
Thiên
Chúa đã gọi Ađam và phán bảo ông rằng: "Ngươi đang ở đâu?" Ông đã
thưa: "Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn địa đàng, nhưng con sợ hãi, vì
con trần truồng và con đang ẩn núp".
Chúa
phán bảo ông rằng: "Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng
phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm ngươi không được ăn ư?" Ađam thưa
lại: "Người phụ nữ Chúa đã cho làm bạn với con, chính nàng đã cho con trái
cây và con đã ăn".
Và
Thiên Chúa phán bảo người phụ nữ rằng: "Tại sao ngươi đã làm điều
đó?" Người phụ nữ thưa: "Con rắn đã lừa dối con và con đã ăn".
Thiên
Chúa phán bảo con rắn: "Bởi mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi
sinh vật và mọi muông thú địa cầu; mi sẽ bò đi bằng bụng, và mi sẽ ăn bùn đất mọi
ngày trong đời mi. Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu
duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì sẽ
rình cắn gót chân người".
Và
Ađam đã gọi tên vợ mình là Evà: vì lẽ bà là mẹ của chúng sinh.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4
Ðáp: Hãy ca tụng
Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu (c. 1a).
Xướng:
1) Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu.
Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của
Người. - Ðáp.
2)
Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công
minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. -
Ðáp.
3)
Khắp cùng bờ cõi trái đất, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn
thể địa cầu, hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ mừng vui, và đàn ca. - Ðáp.
Bài
Ðọc II: Ep 1, 3-6. 11-12
"Từ
trước khi tạo thành vũ trụ, Thiên Chúa đã kén chọn chúng ta trong Ðức
Kitô".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh
em thân mến, chúc tụng Thiên Chúa và là Cha của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta:
Người đã chúc phúc cho chúng ta bằng mọi phúc lộc thiêng liêng ở trên trời
trong Ðức Kitô. Bởi Người đã kén chọn chúng ta trong Ðức Kitô từ trước khi tạo
thành vũ trụ, hầu cho chúng ta được thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Người.
Trong tình thương, Người đã tiền định cho chúng ta được làm dưỡng tử đối với
Người, qua Ðức Giêsu Kitô, theo như ý Người sở định, cho được ca ngợi vinh
quang ân sủng của Người, ân sủng mà Người ban tặng chúng ta trong Con yêu quý của
Người.
Cũng
trong Ðức Kitô, chúng ta đã được chọn trước làm phần gia nghiệp, chiếu theo
chương trình tiền định của Ðấng tác thành mọi sự theo như ý Mình sở định, hầu
cho chúng ta ca tụng vinh quang Người, chúng ta là những người đã đặt niềm hy vọng
trước trong Ðức Kitô.
Ðó
là lời Chúa.
Alleluia:
Alleluia,
alleluia! - Kính chào Trinh Nữ Maria đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ,
Trinh Nữ có phúc hơn các người nữ. - Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 1, 26-38
"Chào
Trinh Nữ đầy ân sủng, Chúa ở cùng Trinh Nữ".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét,
đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ
Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng:
"Kính chào trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ, trinh nữ có
phúc hơn các người nữ". Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào
đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn
nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một Con trai và đặt tên là
Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ
ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà
Giacóp và triều đại Người sẽ vô tận!" Nhưng Maria liền thưa với Thiên Thần:
"Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"
Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối
Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được
gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai
trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là
son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được". Maria liền thưa:
"Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và
Thiên Thần cáo biệt trinh nữ.
Ðó
là lời Chúa.
Suy niệm : Lễ Mẹ Vô Nhiễm
Nguyên Tội
Trong quyển "Tiểu Sử Ðời Sống
Của Thánh Don Boscô" có thuật lại một sự việc sau đây:
Hôm
ấy là ngày 8 tháng 12 năm 1841, ngày lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Cha Don Boscô vị
tân Linh Mục đang mặc áo sửa soạn dâng Thánh Lễ, bỗng từ trong phòng áo Cha
nghe tiếng ồn ào từ phía ngoài cửa. Cha bước ra và gặp thấy Ông Từ coi phòng áo
nhà thờ đang cầm chổi lông gà đánh đuổi một cậu bé nghèo ăn mặc rách rưới, chỉ
vì cậu dám bén mảng đến phòng áo và lại không biết giúp lễ. Cha Don Boscô tỏ vẻ
không bằng lòng và bảo Ông Từ phải đi tìm cậu bé đem trở lại phòng áo cho Cha.
Cha lại còn quả quyết rằng đó là bạn thân của Cha.
Vâng!
Tất cả các thanh thiếu niên nghèo bị bỏ rơi đều là bạn thân của Cha hết.
Một
lúc sau, Ông Từ trở lại phòng áo, dẫn theo cậu bé bị đánh đuổi. Cha bảo cậu ngồi
đợi một chút, sau lễ ngài sẽ nói với cậu về một điều mà cậu rất vui thích. Có lẽ
đó chỉ là cách Cha muốn bù đắp lại sự tàn nhẫn của Ông Từ hoặc xóa bỏ đi những
mặc cảm và ấn tượng xấu đã gây nên trong tâm hồn cậu.
Nhưng
đường lối của Chúa còn đi xa hơn nữa, vì chính trong ngày lễ Kính Mẹ Vô Nhiễm
Nguyên Tội đó, Thiên Chúa muốn ngài khởi công một sứ mệnh Tông Ðồ cao cả mà vẫn
còn hiện hữu cho tới ngày nay tại mọi dân tộc, mọi nền văn hóa. Ðiều gì đã xảy
ra trong cuộc gặp gỡ đó? Như lời đã hứa, sau lễ Cha bắt đầu cuộc đối thoại thân
mật với cậu bé, đó là cậu Bartolômêo Galendy. Don Boscô bắt đầu bằng những câu
hỏi thân mật từ gia đình cậu, cha mẹ cậu.
Cậu
đáp lại là cả hai đều đã qua đời.
Cha
hỏi tiếp về tuổi của cậu, về công ăn việc làm và nơi ăn chốn ở của cậu.
Tuy
nhiên câu hỏi đó, cậu chỉ đáp lại bằng tiếng "không" hơi cọc cằn.
Tuy
nhiên, Cha vẫn không nản lòng. Sau cùng Cha hỏi: Con có biết huýt sáo không? Mắt
cậu sáng lên và cậu bắt đầu mỉm cười gật đầu. Ðó là điều duy nhất Cha mong ước.
Cậu đã bị chinh phục và đã trở nên bẹn thân của Cha. Từ đó, cha bắt đầu đối thoại
bằng những câu hỏi về đời sống người công giáo của cậu. Ðáng thương thay, tuy cậu
đã lên 16 tuổi nhưng chỉ được xưng tội lần đầu mà thôi. Còn về giáo lý thật
không biết gì hết, vì không được ai chỉ bảo cho. Ngay cả đến việc làm dấu Thánh
Giá và đọc một kinh Kính Mừng cậu cũng không biết. Và cha Don Boscô quì gối đọc
kinh Kính Mừng phó thác cho Mẹ Maria và nhân danh Mẹ bắt đầu sứ mệnh Tông Ðồ của
Cha, cầu xin Mẹ giúp Cha cứu rỗi linh hồn cậu bé này.
Trước
khi cho cậu ra về, Cha tặng cậu một mẩu ảnh Ðức Mẹ và cậu hứa sẽ trở lại tuần tới
đem theo chúng bạn của cậu để cùng được học giáo lý nữa.
Nhân
dịp toàn thể Dòng Con Cái Don Boscô mừng kỷ niệm một trăm năm mươi năm cuộc gặp
gỡ đầu tiên giữa Don Boscô và cậu bé Bartolômêo Galendy, ngày khởi đầu sinh hoạt
Khánh Lễ Viện mà Don Boscô là Vị Sáng Lập và cậu bé Bartolômêo là viên đá đầu
tiên. Nơi cậu Bartolômêo, Don Boscô đã nhìn thấy trước hàng ngàn thanh thiếu
niên bị bỏ rơi cần được nhận biết tình thương của Chúa và ngài đã hiến trọn đời
mình để giáo dục niềm tin trong tâm hồn các em. Hơn nữa, ngài còn đào luyện các
em trở thành tông đồ giữa chúng bạn, dẫn đưa chúng bạn về với Chúa qua đời sống
bí tích và việc học hỏi giáo lý. Một trăm năm mươi năm đã qua và sứ mệnh tông đồ
của Don Boscô đã được các con thiêng liêng của ngài tiếp tục tới ngày nay trên
khắp Năm Châu. Hàng ngàn hàng triệu thanh thiếu niên qua nhiều năm đã nhận biết,
yêu mến Chúa và dấn thân để Chúa cũng được nhận biết, yêu mến và tôn thờ.
Lạy
Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội,
một tấm gương tinh tuyền và tràn đầy ơn thánh Chúa. Cám ơn Chúa đã làm phong
phú Giáo Hội Chúa với ơn đặc sủng của Tu Hội Salésien. Xin Chúa chúc lành cho sứ
mệnh tông đồ mà ngài đã hiến thân phục vụ đến hơi thở cuối cùng, để giới trẻ
qua mọi thời đại và trong mọi môi trường văn hóa tìm được thầy chỉ dẫn, nhận được
sự hiểu biết tình thương của Chúa và trở nên vị tông đồ khác giữa giới trẻ, dẫn
đưa chúng bạn gặp gỡ Chúa, xa tránh tội lỗi và gìn giữ luôn mãi vẻ đẹp trong
sáng của tâm hồn là bí quyết niềm an vui và hạnh phúc thật. Amen.
(Veritas Asia)
Lectio: Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (A)
Thứ Hai, 9 Tháng 12, 2013
Truyền Tin cho Đức
Maria
Lc 1:26-38
1. Bài Đọc
a) Lời nguyện mở đầu
Vui mừng lên, hỡi Đức Trinh Nữ Maria,
Ngôi sao của nhà Giacóp đã xuất hiện,
Hôm nay lời Kinh Thánh được hoàn thành;
Chúa đến như đám mây đầy hứa hẹn.
Thiên Chúa của chúng ta đang đến, Người không
ở trong im lặng;
Hãy chú ý đến lời chào mừng của Người.
Lời từ môi Người thật ngọt ngào,
Cao quý thay trái tim Người.
Nó tỏa sáng như đôi cánh bồ câu
Lễ phục của sứ giả Ngài,
Như làn gió nhẹ mùa hè ngự xuống trên Chúa,
Đầy hứa hẹn, là điều an ủi.
Thiên Chúa của chúng con hiển thị dũng lực của
Ngài,
Trong thân xác anh em, Người tìm thấy nghỉ
ngơi;
Trong anh em, Người tìm thấy sự tôn nghiêm,
Hãy ca tụng Người và yêu mến Người mãi mãi.
Này kìa, đoàn tùy tùng của Người xuất hiện,
Trước nhan Ngài, công lý tuần hành.
Người sẽ chinh phục niềm tự hào của người dũng
mãnh,
Và ban khí lực cho kẻ khiêm nhu.
Người sẽ lan tỏa lòng thương xót của mình
Trên những kẻ kính sợ danh Người;
Người tôi tớ khiêm hạ của Thiên Chúa,
Đan dệt những lời ca ngợi Tình Yêu của Chúa.
b) Tin Mừng:
Lc 1:26-38
26 Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ
Galilêa, tên là Nagiarét, 27 đến với một trinh nữ đã đính
hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy tên là Maria. 28 Thiên
thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “KÍnh chào trinh nữ đầy ơn phúc,
Thiên Chúa ở cùng trinh nữ!” 29 Nghe lời đó, trinh nữ bối
rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. 30 Thiên
thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. 31 Này
trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. 32 Người
sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban
cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. 33 Người sẽ cai trị
đời đời trong nhà Giacóp và triều đại Người sẽ vô tận.” 34 Nhưng
Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi
không biết đến người nam?” 35 Thiên thần thưa: “Chúa
Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh
nữ. Vì thế Đấng trinh nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con
Thiên Chúa. 36 Và này, Isave, chị họ trinh nữ cũng đã thụ
thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà
thiên hạ gọi là son sẻ; 37 vì không có việc gì mà Chúa
không làm được.” 38 Maria liền thưa: “Này tôi
là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.” Và thiên
thần cáo biệt trinh nữ.
c) Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Để Lời Chúa có thể thấm nhập vào lòng và soi
sáng đời sống chúng ta.
2. Suy Niệm
a) Chìa
khóa để hướng dẫn bài đọc:
Dù rằng chúng ta lại chọn các chủ đề của
Mátthêu và Máccô, Tin Mừng theo Thánh Luca là tác phẩm nguyên bản dưới nhiều
khía cạnh. Thánh sử đã chèn vào lời tường thuật của ông các tài liệu
mới liên quan đến các câu chuyện Tin Mừng khác. Trong hai chương đầu
tiên nói về thời thơ ấu của Chúa Giêsu, thánh Luca theo truyền thống của người
Do Thái, với nhiều dẫn đoạn tham khảo trực tiếp và gián tiếp về các sách Cựu
Ước. Thần học, thuyết biểu tượng và toàn bộ câu chuyện về thời thơ
ấu của Chúa Giêsu đặt căn bản trong thế giới người Do Thái, khác với nhiều câu
Kinh Thánh của thế gian và tư tưởng Hy Lạp. Tác giả Phúc Âm đặt khởi
đầu câu chuyện của mình trong môi trường của “anawim”, người nghèo
khó của Chúa, đó là những người chịu quy phục với lòng vị tha cho Thánh Ý của
Thiên Chúa, vững chãi trong đức tin rằng Chúa sẽ ban ơn cứu rỗi cho họ trong
thời gian thích hợp. Đối với những kẻ nghèo khó, Chúa
hứa sẽ sai Đấng Cứu Thế đến để mang lại tin vui cho những kẻ đau buồn, băng bó
những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, phóng thích cho
những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Giavê và một ngày báo phục của
Thiên Chúa chúng ta; yên ủi mọi kẻ khóc than, tặng cho những kẻ khóc than ở
Xi-on…” (Is 61:1 và các câu tiếp theo). Lời hứa này của Thiên Chúa
được thực hiên nơi Đức Giêsu thành Nagiarét là người đang bước vào “Hội Đường
như Người vẫn quen làm trong ngày Sabbát” (Lc 4:16) công bố rằng lời hứa của
Thiên Chúa được loan báo bởi tiên tri Isaia “hôm nay đã được ứng nghiệm” (Lc
4:21) trong Người. Chỉ có “những người nghèo hèn” có
thể chấp nhận Tin Mừng về ơn cứu độ từ Con của ông thợ mộc Giuse và bà Maria
(Lc 4:22; Mt 13:53-58; Mc 6:1-5; Ga 1:45), những người khác thì rất tiếc là lại
cảm thấy chướng tai gai mắt bởi vì Người. Đấng Cứu Thế thì khiêm nhu
và tử tế, “miệng Người” thốt ra “những lời ân sủng” (Lc 4:22), và đây là lý do
tại sao để tiếp nhận Người, người ta cần phải chuẩn bị bản thân, đi vào chính
mình để tiếp nhận Đấng Được Hứa của nhà Israel. Đây là lý do tại sao
Thiên Chúa nhắc nhở bằng các phương tiện của vị Tiên Tri: “Hãy tìm
kiếm Đức Chúa, hỡi tất cả các bạn khiêm tốn của trái đất, là Đấng chấp hành các
mệnh lệnh. Hãy tìm kiếm sự công chính, hãy tìm kiếm sự khiêm
nhường: may ra bạn sẽ tìm được nơi trú ẩn, trong Ngày thịnh nộ của
Đấng Giavê” (Xp 1:3).
Trong bối cảnh này, “Khi bà Isave có thai được
sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilê, gọi là
Nagiarét, gặp một Trinh Nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng
dõi Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria” (Lc 1:26-27). Đức
Trinh Nữ này là một trong những “người nghèo hèn” mà Chúa mặc
khải ơn cứu độ của mình. Cùng với bà cũng có hai “người nghèo hèn khác
đã luống tuổi” (Lc 1:7), “một thày tư tế tên là Giacaria” và “bà Isave là người
hiếm hoi” và vì thế đã không có con (Lc 1:5-7). Cũng với hai kẻ bị
hổ nhục này (St 30:33; 1Sm1:5-8; 1Sm 6:23; Hs 9:11) ơn cứu rỗi của Chúa được
công bố. Thật không may tại Giêrusalem, trong đền thờ, đang khi lo
việc tế tự, nơi của sự mặc khải, của quyền năng và vinh hiển của Thiên Chúa,
Tin Mừng này đã không được chấp nhận bởi người tư tế (Lc 1:8-23). Nhưng
Lời Chúa không bị ràng buộc và không thể bị giới hạn. Trên thực tế,
Đấng Thánh của nhà Israel phán: “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ
trời, không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và
đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì Lời
Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt
kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó” (Is
55:10-11). Đây là lý do tại sao bà Isave “tuy đã già rồi, mà cũng
đang cưu mang một người con trai và, bà ấy là người vẫn bị mang tiếng là hiếm
hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không
có gì là không thể làm được” (Lc 1:36-37). Đây cũng sẽ là sự kiện
dành cho Đức Maria như một dấu chỉ “quyền năng của Đấng Tối Cao” (Lc 1:35) sẽ
ngự xuống và rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là
Con Thiên Chúa qua quyền năng của Chúa Thánh Thần sẽ “ngự” xuống trên bà (Lc
1:34-35). Con Trẻ sẽ được đặt tên là Giêsu, “Người sẽ nên cao trọng
và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao; Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người
ngôi báu của vua Đavít, tổ tiên Người; Người sẽ cai trị Nhà Giacóp đến muôn đời
và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1:31-33). Những lời này
của thiên thần lặp lại hoặc gợi lại lời Chúa phán với vua A-khát: “Chính
Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây, người trinh nữ sẽ
mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuen (Is 7:14).
Đó là lý do tại sao khi Gioan Tẩy Giả còn là
bào thai, đó là “trong tháng thứ sáu” (Lc 1:26) Tin Mừng đã được nhận “tại một
thành miền Galilê, gọi là Nagiarét” (Lc 1:26) bởi một thiếu nữ, một “trinh nữ
đã được hứa hôn” (Lc 1:27). “Nagiarét” và “Đức Maria” thì đối lại
với “Giêrusalem” và “thày tư tế”; cũng giống như câu: “ông đi vào trong” với
chữ “đền thờ”. Chúa tỏ mình ra ở những nơi khiêm tốn và được chấp
nhận bỏi những kẻ khiêm nhu mà từ nơi đó, theo sự đánh giá của người ta, “làm
sao có cái gì mà hay được” (Ga 1:45). Đức Maria được kêu mời vui
mừng: “Hãy vui mừng lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà”
(Lc 1:28). Sự hiện diện của Chúa ở giữa dân của Người là dịp để vui
mừng vì sự hiện diện của Chúa mang đến ơn cứu rỗi và ân sủng. Lời
mời gọi của thiên thần được gửi đến toàn thể Dân của Thiên Chúa trong con người
của Đức Maria. Đó là lý do tai sao, toàn thể Dân Chúa được mời gọi
vui mừng, hân hoan trong Chúa, Đấng Cứu Độ của họ. Đó là niềm vui
Đấng Thiên Sai được công bố cho tất cả mọi người: “Dân Xi-on, hãy
reo hò mừng rỡ, vì giữa ngươi, Đức Thánh của Israel quả thật là vĩ đại” (Is
12:6); “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào, nhà Israel
hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi. Án
lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi
xa. Đức Vua của Israel đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa. Sẽ
chẳng còn tai ương nào khiến ngươi phải sợ…” (Xp 3:14-15); “Hỡi con gái Xi-on,
hãy vui sướng reo hò, vì này Ta đang đến để ở lại giữa ngươi” (Dcr 2:14).
Việc thụ thai của Chúa Giêsu là một sự kiện
mới mẻ, tính ưu việt của sự tạo dựng tương lai mới đã mang lại bởi quyền năng
tác tạo của Thiên Chúa, Đấng đến để gặp gỡ với việc bất khả thụ thai của Đức
Maria bởi vì bà không biết đến việc vợ chồng (Lc 1:34). Uy quyền của
Đấng Tối Cao bao phủ trên Đức Maria gợi nhớ lại cột mây đi theo với đoàn lũ dân
chúng trong sa mạc vào ban ngày (Xh 13:22), cũng bao phủ Núi Sinai tỏ lộ Vinh
Quang của Chúa trong sáu ngày (Xh 19:16; 24:17). Và cũng là dấu hiệu
sự che chở của Thiên Chúa, được mở rộng đến người công chính là kẻ kêu cầu đến
Danh Thánh Chúa và đặt mình trong bàn tay Thiên Chúa trong lúc bị thử thách (Tv
17:8; 57:2; 140:8). Trong thời gian tạo dựng, Thần Khí Chúa thổi
trên mặt nước, là dấu hiệu quyền năng tác tạo của Lời Thiên Chúa (St 1:2).
Thiên Chúa vượt trội mọi khả năng của con
người, không có điều gì là không thể làm được đối với Thiên Chúa (Lc 1:47; St
18:14; Gr 32:27). Trước mặt Chúa của hân hoan, của sự sống và ơn cứu
rỗi, Đức Maria chấp nhận lời sáng tạo và phát sinh của Chúa: “Vâng,
tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc
1:38).
b) Một vài
câu hỏi để hướng dẫn cho sự suy niệm và thực hành của chúng ta:
- Chúa tỏ mình ra cho “những kẻ
nghèo hèn (anawim)” của dân Người. Theo bạn,
ai là những người nghèo hèn đương thời ở giữa chúng ta?
- Nhiều lần, chúng ta cảm thấy rằng
mình đang ở trong một thế giới thù địch với sự mặc khải của Thiên Chúa. Cũng
có vẻ như Chúa đã trở nên im lặng, rằng Người không còn mặc khải Lời Chúa ban
sự sống nữa. Điều này có đúng không? Nếu Người vẫn nói
với chúng ta, tôi có thể tìm thấy Lời hằng sống của Người ở đâu? Làm
thế nào để tôi có thể chấp nhận nó?
- Quyền năng của sự dữ dường như
bao phủ thế giới không ngừng nghỉ của chúng ta. Các phương thức đa
dạng của áp bức dường như cũng chính là để đàn áp Thiên Chúa của sự hân hoan,
của sự tự do, của lòng thương xót. Đâu là thái độ của bạn trước thực
tế này? Bạn có cảm thấy rằng đoạn Tin Mừng hôm nay linh ứng cho bạn
một thái độ công chính trước một tình huống không thể được không?
- Đặc tính thái độ của Đức Maria là
gì? Điều này có cho thấy một việc gì đó trong chính đời sống của bạn
không?
3. Cầu
nguyện:
a) Bài Ca
Ngợi Khen của Đức Maria:
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
Thần trí tôi hớn hở
vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng
cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn
tới;
Từ nay, hết mọi đời
Sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng toàn năng đã làm
cho tôi
Biết bao điều cao cả,
Danh Người thật chí
thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót
những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu
dương sức mạnh,
Dẹp tan phường lòng
trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai
quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ
khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban
của đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi
về tay trắng.
Chúa độ trì Israel,
tôi tớ của Người,
- Như đã hứa cùng cha
ông chúng ta -
Vì Người nhớ lại lòng
thương xót
Dành cho tổ phụ
Abraham
Và cho con cháu đến
muôn đời.
b) Giây
phút thinh lặng cầu nguyện
4. Chiêm
Niệm:
[Trong chiêm niệm],
trên thực tế, đối với những người mạnh khỏe nó ban cho người ta nhớ lại khi họ
ước muốn được ở lại với chính mình, để cần mẫn nuôi dưỡng những mầm đức hạnh và
trau dồi bản thân, một cách hạnh phúc, từ những hoa trái của Thiên Đàng. Ở
đây con mắt của cái nhìn thanh thản, được chuộc lại, nó tạo thành những vết
thương cho người phối ngẫu với tình yêu, và qua đó sự trong sáng và tinh tuyền
của Thiên Chúa được nhìn thấy. Ở đây là sự thực hành thời gian nghỉ
ngơi khó nhọc và việc nghỉ ngơi trong hoạt động yên tĩnh. Tại đây,
bởi vì những mệt mỏi của sự dấu tranh, Thiên Chúa ban cho các vận động viên của
Người phần thưởng mong ước, đó là, sự bình an mà thế gian thờ ơ, và
niềm hân hoan trong Chúa Thánh Thần.
Đây là bà Ra-khen
người đang đi đến, một khía cạnh đẹp, mà ông Giacóp, mặc dù hiếm muộn, được yêu
mến nhiều hơn Lia, chắc chắn rằng dồi dào hơn nhưng qua đôi mắt mờ. Thật
ra, những người con của chiêm niệm ít hơn liên quan đến những người của hành
động; tuy nhiên, Giuse và Bengiamin, được cha yêu nhiều hơn các anh em khác.
Đây là phần
tốt nhất mà Đức Maria đã chọn và không ai có thể lấy đi được.
(Trích thư của Thánh Bruno gửi Rudolph il
Verde).
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, Năm ABC
Bài đọc: Gen 3:9-15, 20;
Eph 1:3-6, 11-12; Lc 1:26-38.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Khiêm nhường và
vâng phục Thiên Chúa là hai chìa khóa chiến thắng tội lỗi và sự chết.
Nhiều
tác giả đã ví cuộc đời con người như một giao tranh giữa sự thiện và sự ác, giữa
sự thật và sự gian manh, giữa ánh sáng và bóng tối, và giữa sự sống và sự chết.
Điều quan trọng nhất là làm sao con người có thể chiến thắng trong cuộc chiến tại
thế gian này?
Các
Bài Đọc hôm nay muốn chúng ta học hỏi cẩn thận hai mẫu gương chiến bại và chiến
thắng của các tiền nhân. Trong Bài Đọc I, ông Adong và bà Evà đã bị thảm bại vì
những lời cám dỗ điêu ngoa của con rắn. Nó khơi dậy tính kiêu ngạo để ông bà bất
tuân lệnh của Thiên Chúa. Hậu quả là ông bà phải xa cách và lẩn trốn Thiên
Chúa. Trong Bài Đọc II, nhờ sự khiêm nhường và vâng phục Thiên Chúa của Đức
Kitô qua biến cố Nhập Thể, con người đã nhận được hết ơn này đến ơn khác: được
tha tội, được trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa, và được hưởng đầy tràn ơn phúc
của Thánh Thần. Trong Phúc Âm, nhờ sự khiêm cung và vâng phục Thiên Chúa của Đức
Trinh Nữ Maria, Mẹ được Vô Nhiễm Nguyên Tội, được làm Mẹ Thiên Chúa, và qua Mẹ,
lời hứa ban Đấng Cứu Độ của Thiên Chúa được thành tựu.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.
1.1/
Tội của Adam và Eve làm con người xa cách Thiên Chúa: Khi con người chưa
phạm tội, con người có mối liên hệ tốt đẹp với Thiên Chúa, với tha nhân, và với
các tạo vật của Thiên Chúa. Khi con người phạm tội, các mối liên hệ này đều bị
thiệt hại.
(1)
Con người sợ hãi và lẩn tránh Thiên Chúa: Khi Ngài đi tìm con người sau khi họ đã phạm tội,
Ngài hỏi họ: "Ngươi ở đâu?" Con người thưa: "Con nghe thấy tiếng
Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn." Sự trần
truồng làm cho con người bị xấu hổ và lẩn tránh Thiên Chúa; điều này đã không xảy
ra trước khi con người phạm tội. Tội lỗi làm cho con người xấu hổ và sợ hãi khi
phải đối diện với Thiên Chúa. Đức Chúa tiếp tục hỏi con người: "Ai đã cho
ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm
ngươi ăn không?" Tội nguyên tổ là tội kiêu ngạo và không vâng phục Thiên
Chúa. Con người muốn được như Thiên Chúa để khỏi phải vâng phục những lệnh truyền
của Ngài.
(2)
Tội lỗi làm tổn thương đến mối liên hệ giữa con người với tha nhân: Trước khi phạm tội,
con người yêu thương và tin tưởng lẫn nhau; nhưng sau khi phạm tội, con người
nghi ngờ và đổ lỗi cho nhau. Con người thưa với Thiên Chúa lý do của sa ngã:
"Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con
ăn." Điều này cũng bao gồm việc con người đổ lỗi cho Thiên Chúa: vì Ngài
cho con người đàn bà, con đã nghe theo và phạm tội.
(3)
Tội lỗi làm rạn nứt mối liên hệ giữa con người với các tạo vật của Thiên Chúa: Theo thánh Thomas
Aquinas, trình thuật hôm nay giả định sự sa ngã của các thiên thần. Tác giả muốn
dùng hình ảnh của rắn để tượng trưng cho Satan, vì những gian manh và lừa đảo của
nó. Ngay từ đầu chương, tác giả đã nói lên điều này: "Rắn là loài xảo quyệt
nhất trong mọi giống vật ngoài đồng'' (Gen 3:1). Sự gian manh này cũng được tỏ
bày hai lần trong việc con rắn bẻ cong sự thật trong mẩu đối thoại với bà Evà:
Lần thứ nhất, rắn hỏi thử người đàn bà: "Có thật Thiên Chúa bảo: Các ngươi
không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không'' (Gen 3:2)? Tội lỗi bắt đầu bằng
việc bẻ cong sự thật. Lần thứ hai, rắn thuyết phục người đàn bà bằng hai ngụy
thuyết: thứ nhất, không có sự chết chóc; thứ hai, phần thưởng khi ăn được là sẽ
trở nên như những vị thần biết điều thiện, ác, mà không cần tùy thuộc vào Thiên
Chúa.
Đây
là cám dỗ muôn đời của nhiều người, họ không muốn nghe ai giảng về luân lý hay
bắt họ phải làm gì, tránh gì; nhưng muốn tự họ có quyền xác định điều thiện ác,
theo tiêu chuẩn và lề lối suy nghĩ của họ. Bà Evà bị xiêu lòng vì dáng vẻ bên
ngoài hấp dẫn của trái cây và ước mong được biết thiện ác như Thiên Chúa, nên
đã ăn và đưa cho ông Adong cùng ăn. Khi ông bà nhận ra đã bị rắn lừa dối thì đã
quá muộn màng (Gen 3:4-7). Khi Đức Chúa là Thiên Chúa hỏi người đàn bà:
"Ngươi đã làm gì thế?" Người đàn bà đổ lỗi cho rắn: "Con rắn đã
lừa dối con, nên con ăn."
1.2/
Mối thù giữa Satan và con người: Trước tiên, Thiên Chúa tuyên án phạt cho con rắn, vì
nó là nguyên nhân của tội: "Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa
nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi
đất mọi ngày trong đời mi.'' Sau đó, là án phạt cho con người, qua sự giao chiến
liên tục giữa rắn và con người. Sự giao chiến này được xảy ra trong hai lãnh vực:
(1)
Giữa rắn và Người Phụ Nữ: Trình thuật hôm nay có liên quan đến con Mãng Xà và Người Phụ Nữ
trong Sách Khải Huyền (Rev 12:1-18). Các học giả dễ đồng ý con Mãng Xà là hiện
thân của Satan; nhưng bất đồng trong việc nhận diện Người Phụ Nữ, khi phân tích
đoạn văn của Sách Khải Huyền. Một số cho Người Phụ Nữ là Đức Mẹ Maria, số khác
cho là Mẹ Giáo Hội. Chúng tôi không thấy có gì mâu thuẫn cả, vì cả hai đều có
thể chấp nhận được: Mẹ Maria luôn đồng hành với Giáo Hội trong việc giao chiến
với quyền lực của Satan.
(2)
Giữa dòng giống của rắn và dòng giống người ấy: "Ta sẽ gây mối thù giữa mi
và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ
đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó." Tuy luôn phải giao chiến; nhưng
Thiên Chúa đã ngụ ý phần chiến thắng sẽ về phía miêu duệ của Người Phụ Nữ qua
việc ám chỉ "dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi;" và sự vô vọng của rắn
"và mi sẽ cắn vào gót nó." Miêu duệ của Người Phụ Nữ trước tiên ám chỉ
Đức Kitô, và sau đó, những ai thuộc về Ngài.
2/
Bài đọc II:
Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô.
2.1/
Đức Giêsu Kitô là Adam mới.
(1)
Nguồn gốc của ơn thánh: Tác
giả Thư Ephêsô cho chúng ta biết nguồn gốc và ý nghĩa của ơn thánh, khi ông
tuyên xưng: "Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng
ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn
vàn ơn phúc của Thánh Thần." Ơn thánh phát xuất từ Thiên Chúa, được ban
qua Đức Kitô, nhờ công nghiệp của Người. Ơn thánh cũng chính là muôn vàn ơn
phúc của Thánh Thần: ơn bảy nguồn là nguyên nhân sinh ra mười hai hoa quả của
Thánh Thần.
(2)
Những đặc quyền con người được thừa hưởng: Vì công nghiệp của Đức Kitô qua biến cố Nhập Thể,
Thương Khó và Phục Sinh của Người, con người được thừa hưởng những đặc ân như
sau:
+
Được trở nên tinh tuyền, thánh thiện: "Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta
trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền
thánh thiện, nhờ tình thương của Người."
+
Được trở nên các nghĩa tử của Thiên Chúa: "Theo ý muốn và lòng nhân ái của
Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô."
+
Được ngợi khen Thiên Chúa: "Để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng
Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu."
2.2/
Đức Kitô mang lại vinh quang cho con người: Vì sự sa ngã của ông Adong, con người bị luận phạt
và bị chết; nhưng nhờ sự tuân phục của Đức Kitô vào Thiên Chúa, con người được
tha thứ mọi tội, được hưởng tràn đầy ơn thánh, và được sống muôn đời. Đây là Kế
Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa có từ trước muôn đời, chỉ được mặc khải cho con người
khi Đức Kitô xuống thế. Tác giả Thư Ephêsô diễn giải như sau: "Thiên Chúa
là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho
chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những
người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người."
3/
Phúc Âm:
Đức Kitô nhập thể nhờ lời thưa "Xin Vâng" của Đức Trinh Nữ Maria.
3.1/
Thiên Chúa chọn Maria làm Mẹ Đấng Cứu Thế: Trước tiên, chúng ta cần xác định câu 26 trong trình
thuật hôm nay là Lời Giới Thiệu tổng quát của Luca trước khi đi vào chi tiết của
biến cố Truyền Tin. Điều này giúp chúng ta tránh được việc thắc mắc: Tại sao Mẹ
trả lời "không biết đến chuyện vợ chồng" trong câu 34, lại còn
"đã thành hôn với một người tên là Giuse" trong câu 26.
Có
thể nói hầu hết các danh hiệu của Đức Mẹ mà Giáo Hội tuyên xưng qua các thời đại,
có nguồn gốc trong các chi tiết của biến cố Truyền Tin:
(1)
Mẹ Maria là Đấng đầy tràn ân sủng và Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ, như lời sứ thần
Gabriel chào Đức Mẹ: "Mừng
vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà."
(2)
Mẹ Maria luôn đẹp lòng Thiên Chúa: Sứ thần nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà
đẹp lòng Thiên Chúa." Điều này chứng tỏ Mẹ luôn sạch tội.
(3)
Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa: "Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt
tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao." Hiển
nhiên Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu là Con Đấng Tối Cao.
(4)
Mẹ là người đem lời Thiên Chúa hứa với các tổ phụ tới chỗ thành tựu: "Đức Chúa là
Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua David, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì
nhà Jacob đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận."
3.2/
Xung đột giữa ý của Thiên Chúa và của Maria: Khi được biết ý của Thiên Chúa
qua sứ thần Gabriel, Mẹ Maria cũng trình bày cho sứ thần ý muốn của Mẹ là muốn
sống cuộc đời thánh hiến: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến
việc vợ chồng!" Sứ thần mặc khải cho Mẹ Maria biết cuộc thụ thai kỳ diệu,
không giống như bất cứ cuộc thụ thai nào trong lịch sử nhân loại: "Thánh
Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì
thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.''
Điều
này có nghĩa Mẹ mang thai mà vẫn còn đồng trinh, như đã được tiên báo trước bởi
tiên tri Isaiah 7:14, và được nhắc lại bởi Matthew 1:23. Thánh Luca xác định điều
này bằng chứng từ của sứ thần Gabriel: "Vì đối với Thiên Chúa, không có gì
là không thể làm được." Nếu Thiên Chúa có thể cho một người sinh con trong
lúc tuổi gìa như Abraham và Sarah, như mẹ của Thủ-lãnh Sampson, như mẹ của
Tiên-tri Samuel, hay như Zachariah và Elisabeth trong trình thuật hôm nay, Ngài
cũng có thể làm cho Mẹ Maria mang thai con của Ngài và vẫn đồng trinh.
3.3/
Lời thưa "Xin Vâng" của Đức Maria: Câu trả lời của Mẹ dạy chúng ta
hai điều: Thứ nhất là thái độ khiêm nhường của Mẹ Maria khi nói với sứ thần:
"Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa!'' Thứ hai là thái độ vâng lời làm theo ý
Chúa của Mẹ Maria: "xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Với
hai thái độ thích đáng này, Mẹ đã cưu mang Đức Kitô và khai mào kỷ nguyên cứu độ
cho nhân loại.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Hậu quả của tội lỗi là do lòng kiêu ngạo và sự bất tuân lệnh Thiên Chúa của ông
Adong và bà Evà. Chúng ta phải cố gắng hết sức khử trừ hai tội nguy hiểm này.
-
Hiệu quả của ơn phúc tuôn tràn trên con người là do tình thương của Thiên Chúa,
sự khiêm nhường và làm theo thánh ý Thiên Chúa của Đức Kitô và Mẹ Maria.
-
Chúng ta vẫn còn đang phải chiến đấu với Satan và đồng bọn của hắn, vì đó là mối
thù truyền kiếp; nhưng chúng ta được hứa sẽ chiến thắng, nếu chúng ta khiêm nhường
và làm theo thánh ý Thiên Chúa như Đức Kitô và Mẹ Maria.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
09/12/13 THỨ HAI TUẦN 2 MV
Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội
Lc 1,26-38
Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội
Lc 1,26-38
LẰN RANH GIỮA DIỄM PHÚC VÀ VÔ
PHÚC
Sứ thần vào nhà trinh nữ và
nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” (Lc 1,28)
Suy niệm: Nguyên tội là tội do tổ tông
loài người gây ra khiến tất cả mọi người đều phải mang tội. Đó không phải là thứ tội Thiên Chúa ‘gắp’ bỏ lên đầu mỗi người để rồi ai cũng mang
nó; mà đó là tình trạng mất ơn nghĩa với Chúa và vì thế con người sống “không
Thiên Chúa,” là nguồn mạch sự sống, như bóng điện bị tắt nguồn, như chiếc điện
thoại di động nằm ngoài vùng phủ sóng. Nếu nguyên tội gây nên tình trạng mất ân
sủng, thì vô nhiễm nguyên tội là được “đầy ân sủng” vì có “Chúa ở
cùng”. Vô nhiễm nguyên tội là đặc ân dành riêng, là cuộc sáng tạo mới, để từ đó
phát sinh một dòng giống đầy ân sủng. Dòng giống này đã khởi đi từ Đức Maria,
có khả năng đạp nát đầu Tên Cám Dỗ (St 3,15) và sẽ tồn tại đến muôn đời (Lc
1,33).
Mời Bạn: Đức Maria được ơn “vô nhiễm tội” còn Evà được khởi đầu bằng tình trạng “không
có tội;” nhưng một bên chấp nhận mọi sự theo như ý Chúa, còn bên kia muốn qua mặt
Chúa theo con đường ma quỉ mách cho; từ đó kết quả cũng khác nhau: một bên được
kể là “có phúc”, còn bên kia trở nên vô phúc. Diễm phúc hay vô phúc là do ta
chấp nhận theo ý Chúa hay làm theo sự cám dỗ của Satan! Mặc dù không được ơn vô
nhiễm nguyên tội, nhưng mỗi người đều có cơ hội thoát khỏi nguyên tội để thuộc
vềdòng giống đầy ân sủng nhờ tin vào Đức Kitô và thanh tẩy trong máu của Ngài.
Sống Lời Chúa: Chấp nhận bỏ ý riêng trong
những việc rất nhỏ để sống khiêm nhường “xin vâng” theo ý Chúa.
Cầu nguyện: Hát bài “Xin Vâng”.
Đấng
đầy ân sủng
Sống Mùa Vọng là để cho Con Thiên Chúa đi vào đời
mình. Như Đức Maria, chúng ta được mời gọi cưu mang Con Thiên Chúa, làm cho
Ngài lớn lên mỗi ngày và sinh Ngài ra cho thế giới.
Suy
niệm:
Ngày
25-3-1858 tại Lộ Đức, Đức Mẹ lại hiện ra cho Bernadette,
một
cô bé mười bốn tuổi, nhà nghèo, quê mùa.
Vào
lần hiện ra thứ mười sáu, khi cô gặng hỏi tên của Bà đẹp,
Bà
đã trả lời: Que soy era Immaculada Conception,
Ta
là sự Thụ thai vô nhiễm.
Một
câu trả lời khó hiểu và khó nhớ đối với một cô bé ít học.
Dĩ
nhiên cô không hề biết rằng bốn năm trước đó,
Đức
Piô IX đã công bố tín điều Đức Maria Vô Nhiễm nguyên tội.
Mừng
lễ Đức Maria Vô nhiễm là mừng lễ một con người, một phụ nữ.
Thiên
Chúa muốn Con Một của mình làm người trăm phần trăm,
nên
cần tuyển một phụ nữ để sinh ra người Con ấy.
Maria
chính là người được chọn, hoàn toàn như một ân huệ.
Khi
chọn Maria, Thiên Chúa đã ban cho Mẹ mọi sự tốt đẹp nhất có thể,
vì
ơn gọi quá vĩ đại là làm Mẹ Con Thiên Chúa.
Maria
được Thiên Chúa bao bọc và bảo vệ bằng ân sủng tuyệt vời.
Ngài
cho Mẹ được hưởng trước công nghiệp của Người Con,
nên
gìn giữ Mẹ khỏi vết nhơ của nguyên tội.
Mừng
lễ Vô nhiễm là mừng lễ một con người, một phụ nữ,
ngay
từ giây phút đầu tiên được thụ thai,
đã
trọn vẹn và tuyệt đối nằm trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.
Khi
nói Mẹ không nhiễm vết nhơ của nguyên tội
là
chỉ mới nêu lên một khía cạnh có phần tiêu cực.
Theo
Công Đồng Vaticanô II, từ giây phút hiện diện đầu tiên của cuộc sống,
Mẹ
đã được rạng ngời một sự thánh thiện hoàn toàn độc nhất vô nhị.
Giáo
Hội Đông Phương gọi Mẹ là Đấng toàn thánh (panagia).
Sự
thánh thiện của Mẹ đã được sứ thần Gabrien diễn tả qua lời chào :
“Mừng
vui lên, hỡi Đấng được đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà.”
Maria
được Thiên Chúa ban đầy tràn ân sủng,
nghĩa
là được Thiên Chúa yêu thương, và được đẹp lòng Thiên Chúa,
từ
trước khi Mẹ nói tiếng Xin Vâng.
Nhưng
ân sủng không bóp chết tự do và trách nhiệm.
Mẹ
đã đáp lại tình yêu đó với sự mở ra không ai sánh bằng.
Tiếng
Xin Vâng trên môi của cô thiếu nữ Maria
là
cử chỉ đón lấy Đấng Cứu Độ vào đời mình, vào lòng dạ mình.
Maria
đã suốt đời trung tín với tiếng Xin Vâng đầu tiên
bằng
việc nói muôn tiếng Xin Vâng khác cho đến tận thập giá.
Những
gì Mẹ Maria được hưởng, chúng ta cũng được chung phần.
Chúng
ta cũng được chọn, được tẩy xóa tội nguyên tổ, được ban ơn.
Chúng
ta cũng được mời gọi đáp lại bằng những tiếng Xin Vâng nho nhỏ.
Sống
Mùa Vọng là để cho Con Thiên Chúa đi vào đời mình.
Như
Đức Maria, chúng ta được mời gọi cưu mang Con Thiên Chúa,
làm
cho Ngài lớn lên mỗi ngày và sinh Ngài ra cho thế giới.
Chúng
ta cũng muốn cưu mang Giêsu với trái tim và cuộc đời vô nhiễm.
Xin
Chúa cho chúng ta được chia sẻ ơn Vô Nhiễm giữa cuộc đời ô nhơ.
Cầu
nguyện:
Lạy
Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
xin
gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ
tinh
tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin
ban cho con quả tim đơn sơ,
mau
quên những nỗi buồn phiền.
Một
quả tim hào hiệp dám hiến thân,
dịu
dàng để cảm thông.
Một
quả tim trung thành và quảng đại,
không
quên ơn, không báo oán.
Xin
tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn,
yêu
mà không mong được yêu lại,
hân
hoan xóa mình đi
để
Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một
quả tim vĩ đại và bất khuất,
không
khép lại trước những kẻ vô ơn,
không
chán nản trước người lạnh nhạt.
Một
quả tim khắc khoải
lo
tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả
tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết
thương chỉ lành
khi
được sống với Ngài trên trời. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Đặc Ân Vô Nhiễm
Sau khi Adong Eva
phản bội, Thiên Chúa đã phán với con rắn, tượng trưng cho uy quyền của ma quỷ rằng:
Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa ngươi và người phụ nữ, giữa dòng dõi ngươi và
dòng dõi người phụ nữ. Dòng dõi người phụ nữ sẽ đạp dập đầu ngươi, còn ngươi
thì chỉ rình cắn trộm gót chân Người.
Lời tiên tri này
trước hết muốn nói tới Đấng Cứu Thế, Ngài sẽ đến đập tan uy quyền hoả ngục để
cứu độ chúng ta. Nhưng đồng thời cũng giới thiệu với chúng ta, khuôn mặt Đức
Trinh Nữ Maria.
Thực vậy, sứ thần
Gabriel đã đến viếng thăm Mẹ với lời chào kính lạ lùng: Kính chào Bà đầy ơn
phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà. Trước lời chào kính lạ lùng ấy, Mẹ đã cảm thấy bối
rối. Sứ thần Gabriel đã cắt nghĩa, nhưng đồng thời lại đề nghị một tin vui lạ
lùng khác nữa: Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên lá Giê
su. Ngài sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là con Đấng Tối Cao. Tin vui này khiến
cho Mẹ không khỏi băn khoăn nêu lên câu hỏi: Việc đó xảy đến thế nào được vì
tôi không biết tới người nam. Thiên thần liền trả lời: Chúa Thánh Thần sẽ ngự
xuống trên bà và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao phủ bà. Vì thế con trẻ được sinh ra
sẽ là Đấng Thánh và được gọi là con Thiên Chúa. Sau khi biết được thánh ý Thiên
Chúa là như thế, Mẹ đã trả lời một cách đơn sơ: Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin
vâng như lời sứ thần truyền.
Qua hình ảnh của
sách Sáng Thế Ký cũng như qua câu chuyện của Phúc Âm thánh Luca chúng ta thấy
được vai trò của Mẹ Maria đối với nhân loại, đồng thời cũng thấy được đặc ân vô
nhiễm nguyên tội của Mẹ, ít nữa là một cách gián tiếp.
Jean Guitton trong
cuốn “Vie de la Vierge Marie”, cuộc đời Đức Trinh Nữ Maria, đã viết: Mẹ như một
thửa vườn khép kín, đến nỗi ma quỷ và tội lỗi không thể nào ảnh hưởng và để lại
những dấu vết. Cho dù bầu khí tội lỗi đã bao trùm nhân loại ngay từ thuở ban
đầu, thì vẫn còn có một nơi không hề bị ô nhiễm. Nơi đó được dành cho Chúa
Giêsu và Mẹ Maria. Phúc Âm cũng cho thấy: Gioan Tiền Hô mà còn được thánh hoá
từ trong lòng mẹ, huống chi nữa Đấng cưu mang Ngôi Lời, Đấng cưu mang chính
Thiên Chúa.
Từ những suy tư như
thế, người tín hữu đã tin chắc đặc ân vô nhiễm của Mẹ Maria, để rồi cuối cùng
Đức Thánh Cha Piô IX, vào năm 1854 đã long trọng công bố và ấn định thành một
tín điều phải tin. Sau đó bốn năm tức là vào ngày 25.3.1858, chính Mẹ đã hiện
ra tại Lộ Đức và xác quyết với chị Bernadette: Ta là Đấng vô nhiễm nguyên tội.
Mừng lễ Vô Nhiễm, chúng ta hãy mang lấy tâm tình vui mừng và hy vọng, bởi vì
hiện giờ ở trên trời, chúng ta có được một người mẹ vừa thánh thiện lại vừa
quyền năng để bầu cử cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Nhất là chúng ta hãy ra
sức khử trừ tội lỗi, để nhờ đó tâm hồn chúng ta được trở nên giống Mẹ, là một
cánh sen vô nhiễm, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Suy niệm
Mỗi khi đọc lại đọc
đoạn Tin Mừng này, con vẫn thấy sự mới mẽ, phong phú của lời Chúa.
Hôm nay con thấy được nơi Đức Maria mẫu gương của đời sống cầu nguyện.
Không giống như hoạt
cảnh Giáng Sinh năm nào con cũng được xem. Trong khi Đức Maria đang ngồi
may vá, hoặc có khi đang quét nhà, làm việc nội trợ… thì bỗng từ
trời có thiên thần bay đến để báo tin cho Mẹ… Nhưng biến cố này Mẹ
chỉ nhận ra trong cầu nguyện. Sở dĩ có cảnh Tổng lãnh Thiên thần
Raphael hiện ra đàm đạo với Mẹ là vì chúng con muốn diễn lại cho
người khác, nhất là anh chị em lương dân dễ hiểu.
Trong cầu nguyện Mẹ hết
sức chân thành, đơn sơ. Khi không hiểu điều thiên thần loan báo, Mẹ
mạnh dạn hỏi lại, trình bày hoàn cảnh của mình: “Việc ấy xảy
đến thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc 1, 34).
Trong cầu nguyện Mẹ
hết sức tin tưởng. Mặc dù không hiểu việc “thụ thai bởi phép Chúa
Thánh Thần” là gì, nhưng khi biết đó là điều Chúa muốn thực
hiện nơi cuộc đời Mẹ, thì Mẹ sẵn sàng đón nhận và nói tiếng “xin
vâng”.
Trong cầu nguyện Mẹ
hết sức phó thác. Không phải câu chuyện truyền tin chỉ diễn ra trong
chốc lát. Khi nghe thiên thần loan báo điều lạ lùng, Mẹ suy nghĩ một
chút là nói tiếng xin vâng ngay đâu, mà chắc chắn phải có một tiến
trình. Mẹ suy nghĩ, xem xét những gì có thể xảy ra cho mình… Nhưng
rồi Mẹ không thể tìm được câu trả lời cho mọi vấn đề. Không phải khi
không có câu trả lời là làm thinh, là nín lặng, nhưng Mẹ biết phó
thác là trông cậy vào lời hứa của Chúa nên Mẹ hoàn toàn vâng theo.
Sự đơn sơ, chân thành,
tin tưởng, phó thác được gói gọn trong một tình mến. Vì yêu mến
Chúa nên Mẹ sẵn sàng làm những điều đó.
Từ mẫu gương cầu
nguyện của Mẹ, con nhìn lại đời sống cầu nguyện của con.
Con đã biết cầu
nguyện trong đời sống chưa, hay giữ đạo đối với con chỉ là việc dự
lễ Chúa Nhật, không kêu tên Chúa vô cớ, không trộm cắp, không nói tục
chửi thề, không làm chứng dối…? Giữ đạo không phải là việc tuân giữ
một mớ lề luật, mà là việc sống mối tương quan thân tình với Thiên
Chúa, từ đó mới tuân giữ những gì Chúa chỉ dạy.
Trong cầu nguyện con
có đơn sơ, chân thành đặt mình trong vòng tay Chúa như một trẻ nhỏ
chưa, hay con còn tìm kiếm những lời hay ý đẹp để độc thoại với
Chúa? Trong cầu nguyện con có biết trình bày với Chúa hoàn cảnh của
mình chưa hay cứ xin Chúa làm cho con việc này, việc nọ?
Trong cầu nguyện con
có dám tin tưởng để mạnh dạn thực hiện những gì Chúa muốn chưa? Hay
những khi thấy có những điều Chúa muốn buộc con phải hy sinh, từ bỏ
thì con lại thoái thác, chối từ?
Trong cầu nguyện con
đã biết phó thác chưa hay chỉ những gì hợp với suy nghĩ của con thì
con mới đón nhận?
Trong tất cả mọi sự
con đã dành trọn con tim, dành trọn tình mến của con cho Chúa chưa?
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là
mẫu gương tuyệt vời của đời sống cầu nguyện. Mẹ đã biết tin tưởng,
phó thác và yêu mến Chúa một cách trọn hảo.
Với Mẹ con tin tưởng
vào Chúa. Qua Mẹ con phó thác cho Chúa. Trong Mẹ con yêu mến Chúa.
Xin cho con biết bắt
chước Mẹ để cùng với Mẹ dâng lên Chúa tất cả tâm tình của một đứa
con.
Xin cho con biết học
nơi Mẹ để sẵn sàng đón nhận thánh ý Chúa.
Xin cho con biết noi
gương Mẹ để nói tiếng xin vâng, không phải một lần, mà là trọn cả
đời con.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
9
THÁNG MƯỜI HAI
Linh Hồn Tôi Nhảy Mừng
Trong Chúa
Nỗi
chờ mong của Đức Nữ Trinh, Đấng “được sủng ái giữa các người phụ nữ” (Lc 1,42),
đúc kết tất cả niềm hy vọng mà Dân Thiên Chúa đã đặt vào các lời hứa được trao
cho các tổ phụ. Và xuyên qua dân Israel, niềm hy vọng của toàn thể nhân loại được
kết đọng lại trong nỗi chờ mong vĩ đại này.
Chúng
ta cũng hãy trân trọng thái độ chờ mong trong đức tin của Đức Maria, một đức
tin cắm rễ sâu trong lịch sử dân tộc và trong niềm hy vọng của toàn thể loài
người. Chúng ta hãy nắm vững ý nghĩa của nó khi chúng ta hành trình qua các thế
kỷ. Đó là một con đường được thiết lập vững chắc trên niềm hy vọng cứu độ đến từ
chỉ một mình Thiên Chúa.
Đức
Maria được chúc phúc bởi vì Mẹ tin vào sự hoàn thành những lời Chúa nói cùng Mẹ
(Lc 1,45). Mẹ biết rằng Thiên Chúa sẽ không bỏ lời hứa của Người. Mẹ ‘vui mừng’
và đồng thời Mẹ ‘được chúc phúc’ bởi Thiên Chúa. Hai tình trạng hiện hữu ấy
không thể tách rời – vì cái trước là hệ quả của cái sau.
Lời
chúc phúc, được Thiên Chúa nói lên, luôn luôn là nguồn sự sống và do đó cũng là
nguồn đem lại niềm vui. Trong toàn bộ Thánh Kinh, niềm vui đến xuyên qua việc
trao ban và thông truyền sự sống, cả thể lý lẫn thiêng liêng. Hễ ai được Thiên
Chúa ‘chúc phúc’ bằng sự sống của Ngài, thì người ấy cũng ‘mừng vui’.
Đức
Maria vui mừng chờ mong món quà sự sống. Nhưng chính sự sống ấy cứu độ Mẹ và
làm cho Mẹ mừng vui. Vì sự sống ấy là chính Con Thiên Chúa.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 09-12
ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
St 3, 9-15.20; Ep 1, 3-6.11-12; Lc 1,
26-38.
LỜI SUY NIỆM: “Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: mừng vui lên; hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức
Chúa ở cùng bà”.
Trước mặt Thiên Chúa và mọi loài thụ tạo. Đức Maria là
người duy nhất được diễm phúc Vô Nhiễm Nguyên Tội, là Đấng đầy ân sủng và được
Thiên Chúa ở cùng một cách đặc biệt. Trong mọi thử thách,Đức Mẹ luôn tin vào
quyền năng yêu thương, bảo vệ của Thiên Chúa: “Vì đối với Thiên Chúa, không có
gì là không thể làm được”.
Lạy Chúa Giêsu. Trong gia đình của chúng con, có rất
nhiều chuyện đang xãy ra, đối với chúng con như là vô phương cứu chữa. Xin Chúa
ban thêm đức tin cho chúng con trong cầu nguyện và biết phó thác vào tình yêu
thương của Chúa: Vì đối với Chúa không có gì là không thể làm được.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 08-12: ĐỨC MARIA VÔ NHIỄM
NGUYÊN TỘI
Một trong những lễ đẹp lòng trái tim Mẹ Maria nhất,
chắc chắn là lễ vô nhiễm nguyên tội. Thánh lễ này nhằm tôn kính đặc ân riêng
cho mẹ là đã được thụ thai trong lòng thánh Anna một cách tinh tuyền không
vương tì ố. Thiên Chúa đã giữ gìn Mẹ khỏi tội tổ tông, tội mà vì mọi người
chúng ta khi sinh ra đều vướng mắc vì thuộc dòng giống Adam. Đức Maria, do một
đặc ân duy nhất, từ lúc hình thai, vẫn luôn tinh tuyền xinh đẹp trước mặt Chúa.
Bởi vậy, do ơn thánh và do cuộc sống, Mẹ luôn là đối tượng đẹp mắt Chúa, theo
như lời thánh kinh đã được quy về Mẹ: - Mẹ tuyệt mỹ, không hề vương vấn tội
tình.
Người ta có thể tự hỏi, làm sao lại có đặc ân này ?
Để trả lời cho trường hợp đặc biệt này, chúng ta chạy đến ơn phúc của Chúa
Giêsu Kitô. Ơn cứu chuộc của Chúa Kitô đã có sức mạnh toàn năng để cứu nhân loại
khỏi tội nguyên tổ, cũng đã giữ gìn cho Mẹ khỏi tội tổ tông. Chắc chắn đây là một
phép lạ, nhưng phép lạ này không lạ lùng hơn các điều kỳ diệu trong cuộc đời Đức
Mẹ. Hơn nữa, các dặc ân khác Đức Mẹ thụ hưởng mà chúng ta chấp nhận sễ dàng, đều
là hiệu quả của ơn vô nhiễm nguyên tội và giả thuyết ơn huệ này, nếu chối bỏ ơn
Vô Nhiễm nguyên tội, mỗi biến cố trong cuộc đời Đức Maria đều giả thiết một
phép lạ mới, nhưng với ơn vô nhiễm nguyên tội, mọi điều đều có thể giải thích
được dễ dàng, vì không vương mắc tội nguyên, Mẹ Maria vượt qua tất cả những gì
là hiệu quả và hình phạt do tội gây nên, như tình tư dục, thống khổ và tan rữa
sau khi chết. Con người không mắc tội nguyên tổ là một bí ẩn không thể giải
thích nổi. Đức Maria, nếu mắc tội nguyên tổ lại còn là một bí ẩn khó giải thích
hơn nữa.
Niềm tin vào sự vô nhiễm nguyên tội của Mẹ Maria là
một niềm tin không thễ thay đổi. Các nhà thần học đã chứng minh điều đó, các
giáo phụ giảng dạy, các nhà giảng thuyết phổ biến... nhưng thời đại của chúng
ta được thấy sự vinh quang cao cả này trở thành tín điều trong đức tin Kitô
giáo, ngày 8 tháng 12 năm 1854, trước sự hiện diện của 54 hồng y, 42 Đức Tổng
giám mục và 92 Đức Giám mục cùng đoàn người đông đảo, vị đại diện Chúa Kitô đã
tuyên bố tín điều từ bao thế kỷ đợi trông. Chúng ta kể ra một vài lý do khiến
Giáo hội công bố tín điều: Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội.
1. Chúa Giêsu Kitô, vì sự thánh thiện của Ngài, phải
được sinh ra bởi người mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội. Đấng thấy cả tì vết nơi các
thiên thần, lại chịu sinh ra từ một thân thể bị nhơ nhớp vì tội lỗi được sao ?
Thân xác của Chúa Kitô là xác thân bởi Mẹ Maria. Vậy nếu Mẹ Maria thụ thai
trong tội, hẳn Ngài đã thông truyền cho Chúa Giêsu một xác thể bị nhơ uế vì tội
lỗi. Quả là một điều ô nhục cho Chúa Giêsu một xác thể bị nhơ uế vì tội lỗi. Quả
là một điều ô nhục cho Chúa !
2. Vinh quang của Chúa Giêsu phải giữ cho Mẹ Người
khỏi vết nhơ tội nguyên. Mục đích của Chúa Con khi xuống trần gian này là để hủy
diệt sự uy quyền của quỉ dữ và tội lỗi. Người đã thắng ma quỉ khi nhờ phép rửa
tội, đưa các Kitô hữu ra hỏi vòng tội lỗi, thanh tẩy các tội nhân nhờ phép giải
tội. Người đã thắng ma quỉ cả trước khi Người sinh ra, như khi thánh hóa từ
lòng mẹ tiên tri Giêrêmia, thánh Gioan tẩy giả, thánh Giuse bạn Đức Trinh Nữ.
Nhưng những chiến thắng này chưa hoàn toàn. Còn một
lúc mà quyền lực hỏa ngục khoe khoang rằng: có thể làm cho ơn thánh bị vô hiệu,
đó là lúc thụ thai. Vậy sự chiến thắng sẽ hoàn hảo nếu Mẹ Maria được ơn vô nhiễm
nguyên tội, đặc ân này thể hiện lời hứa đã được loan báo từ trước: - Ta sẽ đặt
hận thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa giòng giống ngươi và dòng giống nó.
Dòng giống nó sẽ đạp nát đầu ngươi, còn ngươi sẽ táp lại gót chân" (St
3,15).
Niềm tin vào ơn vô nhiễm nguyên tội của Đức Maria
đã được chính Đức Mẹ chứng thực. Năm 1858, nghĩa là chỉ bốn năm sau ngày tuyên
bố tín điều, Mẹ đã hiện ra tại Lộ Đức và tuyên bố: - Ta là Đấng vô nhiễm nguyên
tội ngay từ buổi đầu thai.
Việc mừng trọng thể lễ Đức Trinh nữ Maria Vô nhiễm
nguyên tội vào mùa vọng có một ý nghĩa đặc biệt, như mừng "cuộc chuẩn bị
căn bản cho Đấng Cứu thế xuất hiện, vầng đông sáng tươi của một Hội Thánh không
tì vết" (Marialis Cultus 3)
(daminhvn.net)
09 Tháng Mười
Hai
Thế
Nào Là Cầu Nguyện?
Một
chàng thanh niên nọ khao khát sống đời tận hiến và cầu nguyện, đến nỗi anh đã
xa lánh tất cả mọi người và mọi sự, để đến gõ cửa một đan viện nọ... Anh được vị
tu viện trưởng chấp nhận tức khắc.
Trong
những ngày đầu, anh quan sát cách sống của các tu sĩ: Sau những giờ cầu nguyện
lâu dài, tất cả mọi người đều bắt tay vào công việc: người thì cày cuốc, người
thì gặt hái, người thì miệt mài trong công tác dịch thuật. Thấy thế, chàng
thanh niên đâm ra thất vọng. Anh đến trình bày ý nghĩ của mình với đan viện phụ
như sau: "Thưa cha bề trên, con cứ tưởng ở đây chúng ta chỉ có một sinh hoạt
duy nhất đó là cầu nguyện. Ðằng này, con lại thấy các thầy phải vất vả lo cho
những nhu cầu vật chất quá nhiều". Vị tu viện trưởng mỉm cười gật đầu và
nói với anh: "Có lẽ con có lý... Nếu con cảm thấy việc làm tay chân không
cần thiết, thì con cứ vào phòng đóng cửa lại và tiếp tục cầu nguyện".
Nghe
thế, chàng thanh niên hớn hở trở về phòng đóng cửa lại và cầu nguyện. Chỉ sau
vài giờ cầu nguyện, anh cảm thấy mệt mỏi, bụng anh cũng cảm thấy cồn cào vì đã
đến giờ ăn trưa. Nhưng chờ mãi mà vẫn không thấy ai đến gọi anh vào nhà cơm,
người thanh niên mới đến hỏi vị đan viện phụ: "Thưa bề trên, hình như hôm
nay các thầy không dùng bữa?". Cha bề trên mỉm cười đáp: "Các thầy đã
ăn cả rồi". "Thế sao không ai đến gọi con đi ăn cả?", người
thanh niên hỏi. Cha bề trên mới trả lời: "Sáng nay con đã chẳng đến nói với
cha là chúng ta chỉ có một sinh hoạt duy nhất là cầu nguyện đó sao? Cha nghĩ rằng
các thầy khác lao động nhiều cho nên cần phải có ăn uống, ngủ nghỉ. Còn con,
con muốn sống như các thiên thần, nghĩa là không làm việc, không ăn uống mà chỉ
biết suốt ngày cầu nguyện, cho nên cha đã dặn các thầy là đừng đến gọi con dùng
bữa".
Nghe
thế, người thanh niên chợt hiểu được thế nào là sống tận hiến, thế nào là cầu
nguyện. Con người không chỉ cầu nguyện bằng nhữg giây phút ưu biệt dành cho
Chúa, mà còn bằng cả những sinh hoạt từng ngày như làm việc, ăn uống, ngủ nghỉ,
giải trí... Cầu nguyện chính là tìm thấy Thánh ý Chúa và Nước Ngài trong cuộc sống
mỗi ngày.
Mùa
Vọng là mùa thức tỉnh.
Chúng
ta cảm thấy được thôi thúc để dành nhiều thì giờ cho việc cầu nguyện hơn. Thánh
Kinh nói: Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày, ngày thứ 7, Ngài nghỉ
ngơi: đó cũng là hình ảnh của đời người. Cuộc sống là một chuỗi làm việc xen lẫn
với nghỉ ngơi. Có một thì giờ cho tất cả mọi sự, có một thì giờ để ngủ nghỉ...
Có những giây phút ưu biệt trong ngày dành cho việc cầu nguyện, có những thời
gian ưu biệt trong năm dành cho việc cầu nguyện. Thời gian ưu biệt ấy không có
mục đích nào khác hơn là để giúp cho con người được tỉnh thức hơn, được sẵn
sàng hơn, được tươi mát hơn để gặp gỡ Chúa trong từng phút giây của cuộc sống,
trong mọi sinh hoạt hằng ngày.
Cuộc
sống cần có tổ chức, cần có những ngăn kéo, nhưng những ngăn kéo ấy phải được
thông thương với nhau. Ngăn kéo của sự cầu nguyện phải được liên kết với ngăn
kéo của những sinh hoạt hằng ngày. Ngăn kéo của những sinh hoạt hằng ngày phải
được nối liền với ngăn kéo của sự cầu nguyện.
Tổ
chức cuộc sống như thế tức là biến tất cả cuộc sống thành một lời cầu nguyện. Lời
cầu nguyện triền miên ấy có những phách mạnh dành cho những giây phút thân mật
chuyện vãn với Chúa, nhưng những phách mạnh ấy chỉ được làm nổi bật nhờ những
âm thầm gặp gỡ Ngài trong từng sinh hoạt, trong từng biến cố của cuộc sống.
(Lẽ
Sống)
Lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội
V
|
ào thế kỷ thứ bảy, trong
Giáo Hội Ðông Phương có một ngày lễ được gọi là Sự Thụ Thai Ðức Maria. Lễ này
được cử hành trong Giáo Hội Tây Phương vào thế kỷ thứ tám. Ðến thế kỷ 11, ngày
lễ này có tên như hiện nay, Vô Nhiễm Nguyên Tội. Và vào thế kỷ thứ 18, lễ này
trở thành ngày lễ chính thức của Giáo Hội hoàn vũ.
Năm 1854, Ðức Giáo Hoàng
Piô IX công bố điều bất khả ngộ: "Ðức Trinh Nữ Maria rất thánh, trong
giây phút đầu tiên khi thụ thai trong lòng mẹ, bởi một ơn huệ phi thường và đặc
biệt do Thiên Chúa toàn năng ban cho, vì công nghiêäp của Ðức Giêsu Kitô, Ðấng
cứu chuộc nhân loại, nên ngài được gìn giữ khỏi mọi tì ố của tội nguyên tổ."
Phải mất một thời gian
khá lâu mới hình thành tín điều này. Trong khi nhiều Giáo Phụ và Tiến Sĩ Hội
Thánh coi Ðức Maria như vị thánh cao trọng và thánh thiện nhất trong các thánh,
nhưng họ vẫn ngại ngùng để cho rằng Ðức Maria là một người không có tội -- hoặc
từ lúc thụ thai hoặc trong cuộc sống. Ðây là một tín điều của Giáo Hội phát
sinh từ lòng đạo đức của tín hữu hơn là sự hiểu biết của các thần học gia sáng
giá. Ngay cả các vị lão luyện hiểu biết về Ðức Maria như Thánh Bernard và Tôma
Aquinas cũng không thấy được lý do về phương diện thần học của tín điều này.
Hai tu sĩ dòng Phanxicô
là William ở Ware và John Duns Scotus, đã giúp chúng ta hiểu biết hơn về ý
nghĩa thần học. Họ cho rằng sự Vô Nhiễm Nguyên Tội của Ðức Maria nâng cao giá
trị công trình cứu chuộc của Ðức Giêsu. Các phần tử khác của gia đình nhân loại
chỉ được sạch tội nguyên tổ sau khi sinh. Với Ðức Maria, tội nguyên tổ đã bị
ngăn chặn ngay từ lúc ban đầu nhờ quyền lực mạnh mẽ của công trình cứu chuộc
của Ðức Giêsu.
Lời Bàn
Trong Phúc Âm theo Thánh
Luca 1:28, thiên thần Gabrien, sứ giả của Thiên Chúa, đã xưng tụng Ðức Maria là
"đầy ơn phúc" (hay "hết sức sủng ái"). Trong khung cảnh đó,
lời chào này có nghĩa Ðức Maria được mọi sự trợ giúp đặc biệt thánh thiêng để
thi hành nhiệm vụ được giao phó. Tuy nhiên, Giáo Hội chỉ có thể lớn lên trong
sự hiểu biết nhờ sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần. Chính Thần Khí đã hướng dẫn
Giáo Hội hiểu biết rằng Ðức Maria phải là một công trình tuyệt hảo của Thiên
Chúa, chỉ sau công trình Nhập Thể. Nói khác đi, sự liên hệ mật thiết giữa Ðức
Maria và sự Nhập Thể đòi hỏi sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa trong toàn
thể cuộc đời của Ðức Maria. Lòng đạo đức giúp cộng đồng dân Chúa tin rằng Ðức
Maria là người đầy ơn phúc, và sạch mọi tội lỗi từ lúc thụ thai trong lòng mẹ.
Hơn thế nữa, đặc ân cao trọng này của Ðức Maria là cao điểm của tất cả những gì
Thiên Chúa đã thể hiện nơi Ðức Giêsu. Hiểu một cách đúng đắn, sự thánh thiện
không thể so sánh của Ðức Maria cho thấy sự thiện hảo không thêå so sánh của Thiên
Chúa.
Lời Trích
"[Ðức Maria] đã
cho thế giới Sự Sống để canh tân tất cả mọi sự, và ngài được Thiên Chúa phong
phú hóa với mọi ơn sủng thích hợp cho vai trò đặc biệt đó.
"Bởi thế, không
ngạc nhiên khi các Giáo Phụ thường coi người mẹ Thiên Chúa hoàn toàn thánh
thiện và không một tì ố tội lỗi, được Chúa Thánh Thần khuôn đúc trong một thực
thể mới để trở nên một tạo vật mới. Ngay từ lúc thụ thai đã được tô điểm bằng
sự thánh thiện cực kỳ độc đáo và diễm lệ, Ðức Trinh Nữ của Nagiarét được sứ
thần, theo mệnh lệnh của Thiên Chúa, chào mừng là 'đầy ơn phúc'. Với vị sứ giả
ấy, ngài đã trả lời: 'Này tôi là tôi tớ của Thiên Chúa, hãy thể hiện nơi tôi
những gì ngài vừa nói' (Luca 1:38)" (Hiến Chương về Giáo Hội,
56).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét