Trang

Thứ Sáu, 12 tháng 6, 2015

13-06-2015 : THỨ BẢY TUẦN X MÙA THƯỜNG NIÊN - LỄ KÍNH KHIẾT TÂM MẸ MARIA

13/06/2015 – Thứ Bảy
Lễ Kính Khiết Tâm Mẹ


Bài Ðọc I: Hc 24, 1-2. 5-7. 12-16. 26-30
"Ðức Maria là toà sự khôn ngoan".
Trích sách Huấn Ca.
Ðức Khôn ngoan ngợi khen chính mình, được ca tụng trong Thiên Chúa, được ngợi khen giữa dân mình. Ðức Khôn ngoan mở miệng trong cộng đoàn Ðấng Tối Cao, được ngợi khen trước mặt uy quyền Người: "Ta phát xuất từ miệng Ðấng Tối Cao, ta được sinh ra trước mọi loài thụ tạo. Ta hoạt động trên trời để ánh sáng được chiếu toả khắp nơi; và như mây trời, ta bao trùm cả vũ trụ. Ta cư ngụ trên trời cao, và ngai toà của ta được đặt trên tầng mây.
"Bấy giờ Ðấng Tạo thành muôn vật phán dạy ta, Ðấng dựng nên ta nghỉ ngơi trong nhà ta, và bảo ta rằng: "Hãy ở trong nhà Giacóp; hãy hưởng cơ nghiệp trong Israel; hãy đâm rễ trong những người ta chọn!"
"Ta được tạo dựng từ nguyên thuỷ, trước muôn đời. Ðến muôn đời ta vẫn chẳng giảm suy. Ta phục vụ trong đền thánh trước mặt Người. Và như thế, ta đứng vững ở Sion, ta cũng nghỉ ngơi trong thành thánh và uy quyền ta ở trong Giêrusalem. Ta ở mãi trong một dân được trọng vì, trong lãnh địa, trong cơ nghiệp của Thiên Chúa. Ta ở lại trong đại đoàn các Thánh.
"Tất cả những ai yêu thích ta, hãy đến cùng ta, và các người sẽ được no đầy hoa quả của ta. Vì tinh thần của ta thì ngọt hơn mật ong, và gia nghiệp của ta thì ngọt hơn cả tàng ong. Người ta sẽ nhớ đến ta muôn đời. Những ai ăn ta sẽ còn đói, và những ai uống ta sẽ còn khát. Ai nghe ta sẽ không phải hổ ngươi, và những ai thi hành các việc của ta sẽ không mắc tội".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: 1 Sm 2, 1. 4-5. 6-7. 8
Ðáp: Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, Ðấng Cứu độ tôi (c. 1a).
Xướng: 1) Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, và sức mạnh tôi được gia tăng trong Thiên Chúa tôi; miệng tôi mở rộng ra trước quân thù, vì tôi reo mừng việc Chúa cứu độ tôi. - Ðáp.
2) Chiếc cung những người chiến sĩ đã bị bẻ gãy, và người yếu đuối được mạnh khoẻ thêm. Những kẻ no nê phải làm thuê độ nhật, và những người đói khát khỏi phải làm thuê; người son sẻ thì sinh năm đẻ bảy, còn kẻ đông con nay phải héo tàn. - Ðáp.
3) Chúa làm cho chết và Chúa làm cho sống, Chúa đày xuống Âm phủ và Chúa dẫn ra. Chúa làm cho nghèo và làm cho giàu có, Chúa hạ xuống thấp và Chúa nâng lên cao. - Ðáp.
4) Từ nơi cát bụi, Chúa nâng người yếu đuối; từ chỗ phân nhơ, Chúa nhắc kẻ khó nghèo, để cho họ ngồi chung với các vương giả, và cho họ dự phần ngôi báu vinh quang. - Ðáp.

Bài Ðọc II: Ep 1, 3-6. 11-12
"Thiên Chúa đã chọn chúng ta trong Chúa Kitô trước khi tạo dựng thế gian".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, chúc tụng Thiên Chúa là Cha Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Ðấng đã chúc lành cho chúng ta bằng mọi phúc lành thiêng liêng trên trời, trong Ðức Kitô. Như Chúa đã chọn chúng ta trong Người trước khi tạo dựng thế gian, để chúng ta được nên thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Chúa trong tình yêu thương. Chiếu theo thánh ý của Ngài, Ngài đã tiền định cho chúng ta được phúc làm con nhờ Ðức Giêsu Kitô, để chúng ta ca tụng vinh quang ân sủng của Ngài mà Ngài đã ban cho chúng ta trong Con yêu dấu của Ngài. Trong Ðức Kitô, chúng tôi được kêu gọi làm thừa tự, và anh em (là con cái Israel) cũng được tiền định theo ý định của Ngài là Ðấng tác thành mọi sự theo thánh ý Ngài, để chúng tôi trở thành lời ca vinh quang của Ngài, chúng tôi là những kẻ trước kia đã trông cậy vào Ðức Kitô.
Ðó là lời Chúa.

ALLELUIA:  x. Lc 2, 19
Alleluia, alleluia! - Đức Trinh Nữ Maria hiển vinh đã ghi nhớ lời Chúa và suy niệm trong lòng. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 2, 41-52
"Cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết. Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrsalem để tìm Người.
Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói, đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại. Nhìn thấy Người, hai ông bà đã ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: "Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con".
Người thưa với hai ông bà rằng: "Mà tại sao cha mẹ tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con ư?" Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói. Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà. Maria mẹ Người ghi nhớ tất cả những việc đó trong lòng.
Còn Chúa Giêsu thì tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người ta.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm :  Mẫu mực trong đời sống đức tin
Một người đàn bà Nigiêria bị tòa án Hồi Giáo kết án tử hình bằng cách ném đá về tội ngoại hôn đã được hoãn hành quyết hai năm để bà có thể cai sữa cho đứa con.
Hôm thứ Hai ngày 17/6/2002, tòa phá án thành phố Pontuar ở miền tây bắc Nigiêria vẫn duy trì cuộc hành quyết này sau khi xét đơn kháng cáo của bà Amila Nawanrami. Người phụ nữ này bị kết án tử hình hồi tháng 3/2002, sau khi bị tố cáo có thai với một người đàn ông không chính thức là chồng của chị. Kurami là người đàn bà thứ hai bị kết án tử hình vì có con ngoại hôn tại Nigiêria. Án tử hình của chị sẽ được thi hành vào năm 2004 sau khi đứa con của chị dứt sữa mẹ. Bản án thật bất công, nó ngược lại với mọi chuẩn mực văn minh của loài người. Tuy nhiên, vẫn còn thấy ở đây một giá trị mà cho dù có độc ác tới đâu loài người vẫn còn trân quí, đó là tình mẫu tử. Người mẹ Nawanrami sẽ chết đi nhưng ít ra đứa con của chị vẫn còn có được những giọt sữa mẹ nuôi dưỡng cho đến khi thôi bú.
Cho con bú mớm, đó là hình ảnh đẹp nhất mà người ta có thể nhìn thấy nơi bất cứ người mẹ nào. Hôm nay Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria, có lẽ chúng ta cũng được mời gọi để suy niệm về tình mẫu tử của Mẹ. Mẹ đã sinh dưỡng Chúa Giêsu, Mẹ đã từng cho Ngài bú mớm. Một hôm, vào giữa lúc Chúa Giêsu đang giảng dạy, có một người trong đám đông đã lên tiếng ca ngợi Mẹ: "Phúc cho kẻ đã cho Ngài bú mớm". Quả thật, cũng như bất cứ bà mẹ nào, Mẹ đã cho Chúa Giêsu bú mớm, Mẹ đã nhìn Ngài lớn lên từng ngày, Mẹ theo dõi và hân hoan với từng bước chân chập chững của Ngài, Mẹ vui với sự khôn lớn của Ngài, Mẹ buồn lo vì sự bất chấp xảy ra cho Ngài.
Câu chuyện Chúa Giêsu lạc mất trong đền thờ được thánh sử Luca ghi lại trong Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy được trái tim hiền mẫu của Mẹ: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con?" Lời trách móc này bộc lộ tất cả trái tim con người của Mẹ. Mẹ đối xử với Chúa Giêsu với tất cả tình cảm của một con người và chính vì là một con người cho nên Mẹ trở thành mẫu mực cho chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin. Nơi Mẹ, chúng ta nhận ra được một người tín hữu tiến bước trong mò mẫm, trong chiến đấu, trong tin yêu và vâng phục. Nhưng Mẹ không chỉ là mẫu mực cho chúng ta trong đời sống đức tin. Mẹ là Mẹ của chúng ta. Mẹ đã yêu thương Chúa Giêsu với tất cả trái tim nhân loại của Mẹ. Ngày nay, Mẹ cũng tiếp tục dõi theo mỗi người chúng ta với trái tim hiền mẫu ấy. Mẹ đã trải qua thử thách, Mẹ hiểu được thế nào là khổ đau. Hơn ai hết, Mẹ đồng cảm với bao nỗi lo lắng và khổ đau của chúng ta. Mẹ hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Mẹ đã từng dõi theo từng bước trong tiến trình trưởng thành của Chúa Giêsu Con Mẹ. Mẹ suy niệm từng biến cố của cuộc sống.
Ngày nay cũng thế, không có giây phút nào trong cuộc sống của mỗi người chúng ta mà không được Mẹ ôm ấp trong lòng. Với niềm tin tưởng ấy, chúng ta phó thác cuộc sống cho Mẹ.


Lễ nhớ Trái Tim Ðức Maria trong phụng vụ hiện nay
Vatican (Vat. 21-05-2015) - Tông huấn "Marialis cultus" về lòng sùng kính Ðức Mẹ của Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI canh tân việc kính nhớ Trái Tim vô nhiễm nguyên tội của Ðức Trinh Nữ diễm phúc Maria giữa các lễ nhớ hay lễ kính, diễn tả các hướng đi nổi bật trong lòng đạo đức hiện đại.
Trong nguồn gốc lịch sử của ngày lễ chúng ta thấy người đã thăng tiến việc cử hành phụng vụ Trái Tim Mẹ Maria là thánh Jean Eudes (1610-1680), cũng như kết quả các lời tuyên bố tỏ tường của Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII năm 1903 và Ðức Giáo Hoàng Piô X năm 1909. Hai vị gọi thánh nhân là "cha, tiến sĩ và tông đồ đầu tiên" của lòng tôn sùng và đặc biệt của việc sùng kính phụng vụ đối với Thánh Tâm Chúa Giêsu và Trái Tim Mẹ Maria. Và thánh nhân đã muốn thánh hiến các tu sĩ của dòng do ngài thành lập cho hai Trái Tim Thánh này. Ngay khoảng năm 1643, nghĩa là chừng 20 năm trước việc cử hành lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, thánh nhân và các người theo ngài đã bắt đầu cử hành lễ Trái Tim Ðức Mẹ. Năm năm sau đó, ngày mùng 8 tháng 2 năm 1648, lễ này cũng được cử hành công khai trong thành phố Autun, với thánh lễ và kinh thần vụ do thánh nhân biên soạn và được Ðức Giám Mục sở tại chấp thuận. Các văn bản phụng vụ này của thánh Eudes cũng được nhiều Giám Mục chấp thuận, mặc dù có sự chống đối của nhiều người theo phái giangsênít. Ngày mùng 2 tháng 6 năm 1668 lễ và các văn bản phụng vụ được sự đồng ý của ÐHY sứ giả của Ðức Giáo Hoàng bên Pháp. Nhưng năm sau khi xin Tòa Thánh xác nhận, thì Thánh Bộ Phụng Tự từ chối.
Vào năm 1726 linh mục Gallifet, dòng Tên, đã tái xin phép Tòa Thánh chấp nhận lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Vấn đề được cứu xét bởi ÐHY Prospero Lambertini, sau này sẽ trở thành Ðức Giáo Hoàng Biển Ðức XIV, lúc đó là Tổng trưởng Bộ phụng tự. Câu trả lời lần đầu tiên của bộ năm 1727 là đừng nài nỉ, vì các khó khăn đạo lý lời xin có thể bị từ chối. Nhưng cha Gallifet không chịu thua, cứ viết đơn xin, và ngày 30 tháng 7 năm 1729 Bộ trả lời không chấp nhận.
Như đã biết, năm 1765 Tòa Thánh cho phép chính thức cử hành lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, nhưng trong dịp đó người ta không nghĩ tới việc lôi cuốn cả Trái Tim Ðức Mẹ vào. Năm 1799 Ðúc Giáo Hoàng Pio VI cho phép giáo phận Palermo, trên đảo Sicilia nam Italia, cử hành một lễ kính Trái tim rất thánh của Ðức Trinh Nữ Maria. Năm 1805 Ðức Giáo Hoàng Pio VII quyết định ban phép cử hành lễ cho tất cả những ai làm đơn xin, nhưng phải dùng các văn bản của lễ Ðức Bà xuống tuyết mùng 5 tháng 8. Dưới thời Ðức Giáo Hoàng Pio IX năm 1855 Thánh Bộ Phụng Tự chấp nhận các văn bản mới một phần lấy lại của thánh Jean Eudes cho lễ kính Trái tim rất vẹn sạch Mẹ Maria, nhưng chỉ dành cho các giáo phận và dòng tu làm đơn xin phép. Năm 1914 nhân dịp cải tổ sách lễ Roma, lễ kính Trái Tim Ðức Mẹ bị chuyển vào phần phụ giữa các lễ ngoại lịch.
Tiếp theo đó đã có rất nhiều đơn xin Tòa Thánh cho phép cử hành lễ này trong toàn Giáo Hội. Một đàng nó được thăng tiến bởi lòng nhiệt thành đặc biệt của các Thừa sai con cái của Trái tim vô nhiễm nguyên tội Mẹ Maria là các Tu sĩ Claretiani, và đàng khác bởi việc phổ biến lòng sùng kính này đặc biệt sau các vụ Ðức Mẹ hiện ra tại Fatima. Và lần này thì Tòa Thánh chấp thuận. Ngày 31 tháng 10 năm 1942, và rồi ngày mùng 8 tháng 12 năm 1942 trong Ðền Thờ thánh Phêrô, nhân kỷ niệm 25 năm Ðức Mẹ hiện ra tại Fatima, Ðức Giáo Hoàng Pio XII thánh hiến nhà thờ và nhân loại cho Trái tim vô nhiễm nguyên tội Mẹ Maria. Ðể muôn đời ghi nhớ cử chỉ này ngày mùng 4 tháng 3 năm 1944 với sắc lệnh "Cultus liturgicus" Ðức Pio XII ban phép cử hành lễ Trái tim vô nhiễm nguyên tội Ðức Mẹ trong toàn Giáo Hội Latinh vào ngày 22 tháng 8, trong Tuần Bát Nhật Lễ Ðức Mẹ hồn xác lên Trời và nâng lên thành lễ bậc nhì. Lịch phụng vụ hiện nay đã để việc cử hành vào lễ nhớ tùy ý, và đặt sau lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Việc đặt hai lễ gần nhau khiến chúng ta trở về nguồn gốc lịch sử của lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu và Trái Tim Ðức Mẹ. Thật thế, trong các bút tích của mình thánh Jean Eudes đã không bao giờ tách rời hai Trái Tim Thánh ấy. Ngoài ra trong 9 tháng sự sống của mình Con Thiên Chúa nhập thể đã đập nhịp cùng với trái tim của Mẹ Maria.
Các văn bản phụng vụ riêng của lễ ban ngày nêu bật công việc tinh thần của con tim nữ môn đệ đầu tiên của Chúa Kitô. Ca Tin Mừng và lời nguyện hiệp lễ dùng văn bản Phúc Âm thánh Luca chương 2 câu 19 và bài Phúc Âm thánh Luca chương 2 câu 1 đến 51 với kết thúc giới thiệu với chúng ta Mẹ Maria trong thái độ nội tâm hướng tới việc lắng nghe và đào sâu lời Chúa. Trong văn bản thứ nhất thánh Luca cho thấy Ðức Maria yêu thương chú ý tới những gì Mẹ trông thấy và lắng nghe các biến cố của Thiên Chúa liên lụy tới mình. Cả thánh Giuse và những người khác, đặc biệt là chứng tá của các mục đồng, nhưng theo thánh Luca trình bầy chỉ có Mẹ Maria là suy gẫm trong tim và tìm bước vào trong mầu nhiệm Mẹ đang sống. Thế rồi, trong văn bản thứ hai thánh sử Luca ghi nhận rằng Ðức Maria và thánh Giuse đã không hiểu lời Chúa Giêsu nói trong Ðền Thờ, nhưng vừa nhắc tới việc trở về Nagiarét thánh sử lôi kéo sự chú ý trên thái độ thường hằng của Ðức Maria và viết: "Và Mẹ Người gìn giữ tất cả những điều này và suy gẫm trong tim" Như thế, Mẹ Maria, Ðấng đã trở thành Mẹ của Con Thiên Chúa, khi gắn bó với Lời của Thiên Chúa Cha trong ngày truyền tin, giờ đây thực hiện từ từ sự trưởng thành hiền mẫu của mình, bằng cách lắng nghe và gìn giữ trong tim các lời của Con mình. Ðây đã là mối dây sâu đậm nhất kết hiệp hai mẹ con, vì các mối dây của thịt xác và máu huyết cũng đã không đủ nữa (x. Lc 8,12; 11,28; Mt 12,49-50; Mc 3,34-35). Mẹ đã thật sự mang Chúa Giêsu trong tim hơn là trong cung lòng; Mẹ đã sinh ra Chúa với dức tin hơn là với thịt xác.
Giải thích dụ ngôn người gieo giống Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Hạt giống là lời Thiên Chúa. Những kẻ ở bên vệ đường là những kẻ đã nghe nhưng rồi qủy đến cất Lời ra khỏi lòng họ" (Lc 8,12). Ở dây Mẹ Maria giữ gìn lời Chúa và nghiền gẫm, suy đi nghĩ lại trong lòng. Thánh sử Luca cũng kể: Một lần kia trong khi Chúa Giêsu đang giảng thì có một phụ nữ lớn tiếng ca tụng rằng: "Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!" Nhưng người đáp lại: "Ðúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa" (Lc 11, 28). Chúa Giêsu cũng đang ca tụng Mẹ Maria, vì trong gia đình nhân loại đã không có ai biết lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa hơn Mẹ. Phúc Âm thánh Mátthêu và Phúc Âm thánh Marcô cũng kể rằng: "Chúa Giêsu còn đang nói với đám đông, thì có mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài, tìm cách nói chuyện với Người. Có kẻ thưa Người rằng: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy." Người bảo kẻ ấy rằng: "Ai là mẹ và là anh em tôi?" Rồi Người đưa tay chỉ các môn đệ và nói: "Ðây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Ðấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em và là mẹ tôi" (Mt 12,46-50; Mc 3,31-35). Ở đây Chúa Giêsu cũng gián tiếp ca ngợi Mẹ Maria. Vì Mẹ là người đã luôn thưa lên hai tiếng "xin vâng" với Thiên Chúa và để cho Chúa hoàn thành nơi Mẹ tất cả những gì Chúa muốn trong chương trình tình yêu cứu rỗi của Người.
Như thế, Mẹ Maria đã lắng nghe và suy niệm trong tim lời Chúa, như là bánh dưỡng nuôi Mẹ trong tâm hồn, như là nước vọt lên tưới gội một mảnh đất phong phú. Dọc dài toàn thời cựu ước người ta đã thường bắt buộc dân được tuyển chọn nhớ lại và suy gẫm trong tim tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho họ, để có thể vững tin và luôn mãi đào sâu hơn đức tin của họ nơi Chúa. Giờ đây Ðức Trinh Nữ cho thấy đã xứng đáng thừa hưởng gia tài đó của cha ông. Mẹ cũng có hai thái độ trước các biến cố và các lời của Chúa Giêsu: một đàng Mẹ giữ gìn kỷ niệm, đàng khác Mẹ học đào sâu việc hiểu biết nó, bằng cách suy tư trong tim, hay theo nghĩa gốc của động từ "symbállein" mà thánh sử Luca dùng trong văn bản chương 2 câu 19, đặt để so sánh chúng trong con tim. Ðây là câu năng động trong đức tin của Mẹ Maria: nhớ lại để đào sâu, đối chiếu để nhập thể, suy tư để thời sự hóa.
Và đây là điều Mẹ dậy chúng ta. Với việc suy đi nghĩ lại lời Chúa trong tim Mẹ Maria dậy cho chúng ta biết đón tiếp Chúa trong lòng như thế nào, dưỡng nuôi mình bằng Ngôi Lời của Mẹ ra sao, làm thế nào để ăn và uống Ngài để được no thỏa. Nhất là lời nguyện trong thánh lễ chứa đựng việc quy chiếu này: "Lậy Chúa, Chúa đã chuẩn bị một nơi ở xứng đáng của Chúa Thánh Thần trong tim của Trinh Nữ diễm phúc Maria, nhờ lời bầu cử của Người, xin cũng ban cho chúng con là các tín hữu Chúa, được là đền thờ sống động của vinh quang Chúa". Như thế, Mẹ Maria trở thành mẫu gương của những kẻ lắng nghe lời Thiên Chúa và lấy đó làm kho tàng. Mẹ là mẫu gương toàn vẹn của những người mà trong Giáo Hội phải khám phá ra cái hôm nay của sứ điệp này của Chúa với việc suy niệm. Noi gương Mẹ Maria trong thái độ sống này có nghĩa là luôn luôn chú ý tới các dấu chỉ thời đại, nghĩa là chú ý tới điều lạ lùng và mới mẻ Thiên Chúa làm trong các dáng vẻ bề ngoài của sự tầm thường. Tắt một lời, nó có nghĩa là suy tư với trái tim của Mẹ Maria các biến cố thường ngày, và như Mẹ rút tỉa ra từ đó các kết luận của đức tin.
(Mẹ Maria 453)

Linh Tiến Khải
(Radio Vatican)


Thứ Bảy sau Chúa Nhật 10 Quanh Năm
Thánh Antôn Pađôva, linh mục. Lễ nhớ.

* Chào đời khoảng cuối thế kỷ 12, tại Lít-bon, Bồ-đào-Nha, nhập hội kinh sĩ thánh Augustinô, nhưng sau khi làm linh mục được ít lâu, thánh Antôn hâm mộ lý tưởng sống Tin Mừng của thánh Phanxicô. Người đã đến Át-xi-di, sống bên cạnh thánh Phanxicô (năm 1221). Với tài năng giảng thuyết ngoại thường, người được phái qua Pháp là nơi các giáo thuyết của phái Ca-tha đang hoành hành. Người lập một tu viện ở Bơ-ri-vơ La Gai-ác. Thánh nhân là người đầu tiên trong dòng dạy thần học cho anh em. Người qua đời tại Pađôva sau khi giảng tĩnh tâm mùa Chay tại đó (năm 1231).

Bài Ðọc I: (Năm I) 2Cor 5, 14-21
"Ðấng không hề biết tội lỗi, Thiên Chúa đã làm thành tội vì chúng ta".
Bài trích thơ thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, lòng mến Ðức Kitô thôi thúc chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết cho mọi người, tức là mọi người đã chết; và Ðức Kitô đã chết cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho mình.
Bởi thế, từ nay chúng tôi không còn biết ai theo huyết nhục nữa, cho dầu có một thời chúng tôi đã biết Ðức Kitô theo phương diện huyết nhục, thì bây giờ chúng tôi không biết Người như vậy nữa.
Ai ở trong Ðức Kitô là một thọ sinh mới: những gì cũ đã biến đi: này mọi sự đã được đổi mới.
Và mọi sự đều do Thiên Chúa là Ðấng giải hòa chúng ta với Người nhờ Ðức Kitô, và đã trao chức vụ giải hòa cho chúng tôi.
Chính Thiên Chúa ở trong Ðức Kitô đã giải hòa thế gian với Người, không còn qui trách tội lỗi cho họ nữa và đã đặt lời giải hòa trên môi miệng chúng tôi.
Vậy chúng tôi là sứ giả thay mặt Ðức Kitô, như là Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên bảo vậy.
Nhân danh Ðức Kitô, chúng tôi van nài anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa.
Ðấng không hề biết tội lỗi, Thiên Chúa đã làm thành tội vì chúng ta, để trong Ðức Kitô, chúng ta được trở thành sự công chính của Thiên Chúa.
Ðó là Lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 102, 1-2, 3-4, 9-10, 11-12
Ðáp: Chúa là Ðấng thương xót và nhân ái. (8a)
Xướng 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá bao giờ quên mọi ân huệ của Người. - Ðáp.
2) Người đã tha thứ mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân, Người đội lên đầu ngươi mão từ bi, và ân sủng. - Ðáp.
3) Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi. - Ðáp.
4) Nhưng cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, Lòng nhân hậu Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. - Ðáp.

Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến; bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 5, 33-37
"Thầy bảo các con: đừng thề chi cả".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con lại còn nghe dạy người xưa rằng: "Ðừng bội thề, nhưng hãy giữ lời ngươi đã thề với Chúa". Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ðừng thề chi cả, đừng lấy trời mà thề, vì là ngai của Thiên Chúa; đừng lấy đất mà thề, vì là bệ đặt chân của Người; đừng lấy Giêrusalem mà thề, vì là thành của Vua cao cả; cũng đừng chỉ đầu mà thề, vì con không thể làm cho một sợi tóc ra trắng hoặc ra đen được. Nhưng lời các con phải: có thì nói có, không thì nói không; nói thêm thắt là do sự dữ mà ra".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Có thì nói có
Trong một xã hội mà sự dối trá lừa đảo đã trở thành luật sống, thì sự trung thực quả là vàng. Phải chăng nhiều người Kitô hữu chúng ta lại không cho rằng trong hoàn cảnh hiện nay, giới răn thứ tám không còn ràng buộc nữa? Người người dối trá, tại sao tôi không dối trá, miễn là tôi không vi phạm đến quyền lợi người khác thì thôi!
Chúa Giêsu không chấp nhận bất cứ một luật trừ trong giới răn này: "Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt điều gì là do ma quỉ mà ra". Nền tảng của giới răn này chính là phẩm giá của con người. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Ðấng chân thật, cho nên thuộc tính cơ bản nhất của con người cũng phải là chân thật. Thiên Chúa phán một lời liền có trời đất muôn vật, không có quãng cách giữa lời và hành động của Thiên Chúa. Người tôn trọng phẩm giá cao cả của minh đương nhiên cũng là người tôn trọng lời nói của mình, đó là đòi hỏi của bất cứ nền luân lý đạo đức nào.
Ðón nhận chân lý mạc khải của Thiên Chúa về con người, người Kitô hữu phải ý thức hơn ai hết về phẩm giá cao trọng của mình. Phẩm giá ấy được thể hiện hay không là tùy ở mức độ trung thực của họ. Bản sắc của người Kitô hữu có được thể hiện hay không là tùy ở mức độ trong suốt của cuộc sống của họ. Niềm tin của người Kitô hữu có khả tín hay không là tùy họ có can đảm để lội ngược dòng giữa một xã hội mà dối trá đã trở thành luật sống.
Những vần thơ sau đây của thi sĩ Phùng Quán quả thật đáng cho chúng ta suy nghĩ:
Yêu ai cứ bảo rằng yêu
Ghét ai cứ bảo rằng ghét.
Dù ai ngon ngọt nuông chiều,
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết,
Cũng không nói ghét thành yêu.
Chúa Giêsu đã sống cho đến cùng những lời Ngài rao giảng. Dù cái chết cũng không khóa được những lời sự thật của Ngài và cái chết của Ngài trên Thập giá cuối cùng cũng trở thành lời. Biết bao người đang chờ được nghe những lời chân thật của các Kitô hữu, không chỉ những lời thốt ra từ môi miệng, mà còn là những lời từ một cuộc sống ngay thẳng, thanh liêm.
Nguyện xin Chúa gìn giữ và ban cho chúng ta can đảm để làm chứng cho lời chân lý của Ngài.

Veritas Asia


LỜI CHÚA MỖI NGÀY

Thứ Bảy Tuần 10 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: 2 Cor 5:14-21; Mt 5:33-37.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Yêu thương thành thật

            Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên mà con người đang bị khủng hoảng trầm trọng trong các mối liên hệ: con người không ngừng vi phạm những điều họ đã hứa với Thiên Chúa và với tha nhân. Nhìn vào những nhà lãnh đạo của các quốc gia, trước khi đắc cử, họ hứa hẹn với dân chúng rất nhiều; nhưng sau khi nhậm chức, chẳng thực hành được bao nhiêu. Trong lãnh vực kinh tế và tài chánh cũng thế, sự khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang xảy ra là vì quá nhiều chủ tịch các công ty đã gian lận tiền của chính phủ và của dân chúng để làm của riêng mình. Trong đời sống gia đình cũng chẳng khá hơn: bao nhiêu cặp vợ chồng ăn ở với nhau mà chẳng cần làm hôn thú hay lễ cưới; dẫu có thề hứa trước Thiên Chúa cũng chẳng giữ lời (hơn 50% đã chia tay). Trong đời sống linh mục và tu trì cũng thế, bao nhiêu người đã giũ áo ra đi và không trung thành với những gì mình đã thề hứa! Lời thề hứa hôm nay còn có giá trị hay không? Thiên Chúa còn có thể tin những gì con người thề hứa?
            Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc con người phải mến Chúa yêu người cách thành thật. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô khuyên các tín hữu phải thấu hiểu và ở lại trong tình thương Thiên Chúa, trước khi họ có thể loan truyền tình thương này và chinh phục con người về cho Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy các môn đệ không cần phải thề thốt; nhưng phải luôn biết tập luyện để nói, sống, và làm chứng cho sự thật. Một cách đơn giản: hễ "có" thì phải nói "có;" "không" thì phải nói "không." Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới.

1.1/ Tình yêu Thiên Chúa phải biến đổi con người: Khi yêu nhau, con người yêu tất cả những gì thuộc về người yêu của mình; ngay cả những gì trước đây mình ghét hay không quan tâm tới, giờ cũng trở thành đáng yêu. Ca dao Việt-nam tuy có khuếch đại, nhưng nói lên được điểm này trong bài tả những thói xấu của người phụ nữ: "Đi chợ thì hay ăn quà; chồng thương chồng bảo về nhà đỡ cơm ... Đêm ngủ thì gáy ó o; chồng thương chồng bảo gáy cho vui nhà."
Một cách tương tự, khi con người cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa và của Đức Kitô, con người sẽ nhìn tất cả theo lăng kính tình yêu này.
            (1) Đối với Thiên Chúa: Thánh Phaolô khuyên các tín hữu: "Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình." Trong cuộc đời, ơn cứu tử là ơn không bao giờ quên được; phương chi là ơn cứu tử từ một người phải chết thay để con người được sống và sống đời đời. Thánh Phaolô đã cảm nghiệm rõ điều này, khi Ngài thốt lên: "Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi" (Gal 2:20).
            (2) Đối với tha nhân: Nếu nhìn tha nhân dưới lăng kính loài người, một người sẽ không thấy nhu cầu cần phải hy sinh và yêu thương họ; nhưng nếu nhìn tha nhân dưới lăng kính của tình yêu Thiên Chúa, người đó sẽ dễ dàng yêu thương và hy sinh cho tha nhân; vì tất cả đều là anh/chị/em với nhau và đã được cứu chuộc bằng Máu Cực Thánh của Đức Kitô. Khi một người phải hư đi, Thiên Chúa sẽ buồn; và vì cùng cảm nhận nỗi buồn của Thiên Chúa, chúng ta sẽ sẵn sàng hy sinh để cứu linh hồn đó về cho Thiên Chúa. Chính vì quan điểm này, mà thánh Phaolô đã thốt lên: "Vì thế, từ đây chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Kitô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa. Cho nên, phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi."

1.2/ Sứ vụ hoà giải: Khi đã được thấm nhuần tình yêu Thiên Chúa, người môn đệ được sai đi để làm chứng cho tình yêu này. Trước tiên, họ phải dùng Tin Mừng để nói cho mọi người biết về tình yêu Thiên Chúa. Thứ đến, họ phải biết cách diễn tả tình yêu này bằng chính cuộc sống chứng nhân của mình bằng cách yêu thương và giúp đỡ tha nhân. Tiến trình hòa giải luôn có hai chiều:
            (1) Con người hòa giải với Thiên Chúa: Nhờ Đức Kitô mà con người được hoà giải với Thiên Chúa, và chính Đức Kitô đã trao cho môn đệ của Ngài sứ vụ hoà giải, như thánh Phaolô nói: ''Thật vậy, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải.'' Bổn phận của các môn đệ là phải rao giảng và sống làm sao để con người nhận ra: tình thương Thiên Chúa dành cho họ và tội lỗi họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa. Hai điều này sẽ giúp con người tìm vào tòa cáo giải để giao hòa với Thiên Chúa.
            (2) Con người hòa giải với tha nhân: Tôi con người phạm không chỉ xúc phạm đến Thiên Chúa, mà còn xúc phạm đến tha nhân. Vì thế, con người cần giao hòa và tha thứ với tha nhân sau khi đã được giao hòa và tha thứ với Thiên Chúa.

2/ Phúc Âm: Hễ "có" thì phải nói "có;" "không" thì phải nói "không."

2.1/ Đừng thề thốt chi cả: Đây là những lời dạy lý tưởng trong chương 5 của Tin Mừng Matthew để trở thành môn đệ của Chúa: Lề Luật chỉ là những điều kiện tối thiểu để ngăn cản con người đừng phạm tội; nhưng trở thành môn đệ của Đức Kitô đòi con người phải tiến xa hơn là việc đơn giản giữ các luật lệ. Trong trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu dạy dỗ các môn đệ về việc phải luôn trung tín trong lời nói và việc làm: Để hiểu những lời này, chúng ta cần phân biệt ít nhất 3 lý do tại sao con người dùng tên Chúa để thề:
            (1) Có những người quen kêu tên Chúa, Đức Mẹ, và các thánh, cách vô cớ như "Giêsu Maria Giuse." Họ kêu mà chẳng nghĩ gì đến các ngài cả. Đây là tội phạm đến điều răn thứ hai, vì Danh Chúa là danh cực trọng. Người Do-thái không dám gọi đích danh Thiên Chúa, mà chỉ dám lướt qua (Yahweh) hay gọi một chữ khác.
            (2) Có những người quen lấy danh Chúa mà thề, mặc dù chẳng có gì quan trọng hay chẳng ai bắt phải thề thốt chi cả.
            (3) Có những người thề nhưng lại tránh dùng đích danh Chúa, vì họ biết Lề Luật buộc họ phải thi hành khi lấy danh Chúa thề; nên khi họ thề, họ chỉ trời, chỉ đất, chỉ Đền Thờ, chỉ lên đầu như Chúa Giêsu liệt kê hôm nay, để khỏi phải giữ lời thề. Họ quên đi Chúa ở khắp mọi nơi và thấu hiểu mọi ý nghĩ trong lòng họ; chẳng thể nào họ có thể chỉ bất cứ gì để thề mà không phải giữ, vì mọi sự trong trời đất này đều thuộc về Thiên Chúa.

2.2/ Sống theo sự thật: Chúa tiếp tục dạy các môn đệ: "Nhưng hễ "có" thì phải nói "có;" "không" thì phải nói "không." Thêm thắt điều gì là do ác quỷ." Người môn đệ của Đức Kitô phải luôn biết nói, sống và làm chứng cho sự thật. Nếu một người luôn trung tín, những gì người ấy nói ra đủ cho người khác tin tưởng mà không cần phải thề thốt chi cả; nhưng nếu một người bất trung, bao nhiêu lời thề hứa của họ cũng chẳng có giá trị chi cả. Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh cho các môn đệ biết tập luyện để có nhân đức trung thành, hơn là những lời hứa hẹn ngoài miệng.
           
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG: 

            - Tình yêu Thiên Chúa là điều chúng ta cần có trước tiên, trước khi có thể yêu thương chân thành những người khác; nếu không có tình yêu này, chúng ta sẽ dễ dàng phản bội nhau.
            - Chúng ta là những môn đệ của Đức Kitô, chúng ta phải tập luyện làm sao để luôn biết nói, sống, và làm chứng cho sự thật. Nếu chúng ta luôn làm như thế, thề thốt là điều dư thừa.
Lm.Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.


13/06/15 THỨ BẢY TUẦN 10 TN
Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ
Lc 2,41-51

Suy niệm: Câu chuyện Ma-ri-a và Giu-se lạc mất Chúa ở Giê-ru-sa-lem cho phép chúng ta cảm nhận hai nhân vật vĩ đại này rất gần gũi với mình, cách riêng trong sự kiện rằng “ông bà không hiểu lời Người vừa nói”. Hành trình đức tin của Ma-ri-a và Giu-se không phải luôn luôn hoàn toàn dễ dàng, hoàn toàn sáng sủa. Lạc mất Chúa đã là một thử thách, nhưng gặp Chúa mà lại không hiểu được Ngài, càng là một thử thách nặng nề hơn. Trong hành trình đức tin, chúng ta dù có lặn lội vất vả để tìm Chúa nhưng nếu như chúng ta chưa hiểu được ý Chúa trong biến cố này, trong sự kiện kia… thì chúng ta cũng chưa thực sự gặp Ngài. Chính những lúc đó, ta cần đặc biệt nhìn ngắm Đức Ma-ri-a và học lấy thái độ của người tiếp tục tìm kiếm ý Chúa bằng cách “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” và suy niệm.
Mời Bạn: Nhìn lại cuộc sống mình với biết bao biến cố, sự kiện đã xảy ra trong quá khứ mà ngay lúc đó bạn không hiểu. Phải chăng với thời gian, bạn dần dần được soi sáng? Và bạn nhận ra mình đã từng có những cách giải thích và những thái độ không đúng đắn? Phải chăng bạn càng xác tín hơn rằng mình cần học nơi Đức Ma-ri-a tinh thần cởi mở lắng nghe và chiêm niệm sâu sắc để đời sống đức tin của mình được phong phú hơn?
Chia sẻ: Cần có điều kiện nào để bạn có thể lang nghe và hiểu ý Chúa hơn?
Sống Lời Chúa: Tập thói quen cuối mỗi ngày có những phút hồi tâm cầu nguyện.
Cầu nguyện: Hát kinh Magnificat, lời kinh ca ngợi việc Chúa làm trong cuộc đời mình.

« Đức Maria hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng » (13.6.2015 – Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ)

Hôm nay thứ bảy, ngay sau Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su, Giáo Hội mời gọi chúng ta cử hành Thánh Lễ kính nhớ Trái Tim vô nhiễm của Đức Maria, Mẹ của chúng ta. Và Lời Chúa trong Thánh Lễ sẽ giúp chúng ta hiểu Trái Tim Vô Nhiễm của Đức Mẹ là trái tim như thế nào: đó là một trái tim hoàn toàn hướng về Đức Giê-su, tìm kiếm Đức Giê-su, ghi nhớ và suy đi nghĩ lại tất cả những gì liên quan đến Đức Giê-su, vui khi có sự hiện diện của Đức Giê-su, lo buồn và cực lòng khi thiếu vắng Đức Giê-su. Có thể nói, trái tim của Mẹ không “nhiễm” điều gì khác ngoài Đức Giê-su và những gì thuộc về Người.
Vậy, chúng ta hãy xin Mẹ đồng hành, cầu bầu và dạy dỗ chúng ta với tình hiền mẫu, để chúng ta cũng có được một trái tim hết tình và hết đời gắn bó với Đức Giê-su, như Đức Mẹ, trong hành trình đi theo Đức Ki-tô trong ơn gọi gia đình hay dâng hiến của chúng ta.
  1. Mầu nhiệm Vượt Qua (c. 41)
Lễ Vượt Qua là thời gian người Do Thái tưởng nhớ ơn huệ được giải phóng khỏi nơi tù đày và chết chóc và trở thành Dân Riêng của Đức Chúa ; ơn được ban cho thế hệ đầu tiên, nhưng những thế hệ sau này là người thụ hưởng : « không có biến cố Xuất Hành, thì đã không có tôi, không có thế hệ của tôi hôm nay ». Trong đời sống Ki-tô hữu cũng vậy, chúng ta luôn phải tưởng nhớ Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô khi cử hành bí tích Thánh Thể, bởi vì không có mầu nhiệm Vượt Qua, thì sẽ không có Giáo Hội, không có các Ki-tô hữu là chúng ta. Và cũng thế trong đời sống dâng hiến, chúng ta cũng luôn phải tưởng nhớ các vị sáng lập Hội Dòng, vì không có vị sáng lập, thì không có các tu sĩ, là chúng ta hôm nay.
Đặt vào bối cảnh của đời sống ẩn dật, biến cố lạc mất Đức Giê-su là một biến cố nhỏ bé của đời thường ; nhỏ bé của đời thường, nhưng lại liên quan đến những mầu nhiệm lớn nhất của lịch sử cứu độ :
  • Trước hết, đó là biến cố Xuất Hành, bởi vì đó là bầu khí lễ Vượt Qua của người Do Thái.
  • Và việc tìm lại được Đức Giê-su sống động, sau ba ngày bị lạc mất, loan báo mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giê-su, nghĩa là biến cố chết và phục sinh của Người.
Xin cho chúng ta, nhờ lời cầu bầu của Đức Maria, nhận ra những biến cố đã xẩy ra trong cuộc đời chúng ta đều qui về mầu nhiệm Vượt Qua, và xin cho chúng ta cũng biết khởi đi từ mầu nhiệm Vượt Qua và hướng về mầu nhiệm Vượt Qua khi phải sống những biến cố nhỏ bé và đời thường trong tương lai. Sống Mầu nhiệm Vượt Qua :
  • Là xác tín rằng Chúa sẽ mở đường cho chúng ta đi, ở nơi mà chúng ta tưởng là ngọt cụt, giống như biến cố vượt qua Biển Đỏ.
  • Là Chúa có thể làm phát sinh sự sống, ở nơi mà chúng tưởng là thất bại, là chấm hết, là không thể, là không còn hi vọng gì, như trường hợp của bà Elizabeth.
  • Là Chúa có thể làm phát sinh sự sống tuyệt hảo, ở nơi không thể, như trường hợp cung lòng trinh nguyên của Đức Mẹ.
  • Là chuyển điều xấu, tội lỗi thậm chí sự dữ thành điều tốt cho chúng ta, như trường hợp điều xấu mà các anh làm cho em Giuse, trong gia đình tổ phụ Gia-cóp (x. St 50, 19-20).
  1. Cả gia đình cùng lên đền (c. 42-47)
Chúng ta hãy hình dung ra khung cảnh và bầu khí rộng lớn của lễ Vượt Qua. Đi vào tâm tình của Thánh Gia. Nhất là Đức Maria và thánh Giuse, nhớ lại kỉ niệm cách nay 12 năm. Nếu muốn, chúng ta có thể hình dung ra cuộc sống của Thánh Gia trong 12 năm qua. Xong kỳ lễ, đi về một ngày đường, thì cha mẹ nhận ra mình bị lạc mất Đức Giê-su. Chúng ta nên hình dung ra những chặng đường mà các ngài phải trải qua trong ba ngày tìm kiếm: đi một ngày, nhưng phải mất ba ngày trở lại tìm kiếm; nhất là hiểu thấu và cảm thông điều mà chính Đức Maria sẽ nói với Đức Giêsu về sự “cực lòng” của cha mẹ. Đâu là ý nghĩa của biến cố lạc mất Đức Giê-su đối với thánh Giuse và Đức Maria ? Chúng ta hãy tự mình khám phá ra. Sau đây là một vài gợi ý :
  • Đó là sống lời « xin vâng », mà các ngài đã thưa với Thiên Chúa trong biến cố truyền tin. Cũng tương tự như khi chúng ta được mời sống giao ước của chúng ta mỗi ngày, giao ước hôn nhân hay dâng hiến.
  • Và khi sống lời “xin vâng”, các ngài đã học để cho Đức Giêsu vượt khỏi tay mình từ từ, để sống cho một kế hoạch khác, một ơn gọi khác, một Đấng Khác. Tương tự như các bậc cha mẹ, như chính chúng ta đối với những người thân yêu và những điều thiết thân.
  • Ba ngày mất Đức Giê-su, rồi tìm lại được Ngài ở trong Nhà Thiên Chúa Cha, đã loan báo mầu nhiệm Vượt Qua mà Đức Maria sẽ trải qua, và mỗi người chúng ta cũng phải trải qua.
Đức Giê-su ở lại đền thờ, chúng ta có thể tự hỏi: tại sao Ngài lại quyết định ở lại Đền Thờ? Có thể là, một cách hồn nhiên, Ngài đã để cho Đền Thờ và những gì thuộc về Đền Thờ cuốn hút Ngài, giữ chân Ngài lại, khiến Ngài bỗng chốc quên đi tất cả, quên cả cha cả mẹ, để hướng tới Vô Biên. Đền Thờ là nơi, Ngài đã được bố mẹ tiến dâng cho Đức Chúa, khi mới sinh ra. Sau này Đức Giêsu sẽ phải đối diện nhiều với các thầy dạy (luật sĩ, tư tế, thượng tế, rộng hơn là các trưởng lão, những người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, Sa-đốc…), và lúc nào Ngài cũng tỏ ra khôn ngoan, không phải khôn ngoan của người đời, nhưng là của Thiên Chúa. Ngài đã chuẩn bị và được chuẩn bị ngay lúc này rồi. Hình ảnh này nói lên điều mà thánh Phao-lô sau này sẽ suy tư vừa rộng vừa sâu về mối tương quan giữa Tin Mừng (Đức Giêsu) và Lề Luật (các thầy dậy), đặc biệt là về luật sa-bát, Mười Điều Răn, luật rửa tay, ăn chay, cầu nguyện, bố thí…
  1. Lắng nghe Đức Maria và Đức Giê-su (c. 48-52)
Sau ba ngày tìm kiếm trong vất vả và nhất là trong lo âu, thánh Giuse và Đức Maria tìm lại được Đức Giê-su trong Đền Thờ, lúc đó mới 12 tuổi. Đức Maria nói với Đức Giêsu:
Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!
Lời của Đức Maria thật là hay, vì vừa dịu dàng và nói lên tình thương, nhưng vừa nghiêm khắc. Chúng ta cần đặt mình vào hoàn cảnh của thánh Giuse và Đức Maria để hiểu và cảm được hết sự “cực lòng” của các ngài: đi một ngày, nhưng phải tìm kiếm tới ba ngày! Sự “cực lòng” không chỉ của người cha và người mẹ, như bất cứ người cha và người mẹ nào, khi để lạc mất người con yêu dấu, nhưng còn sự “cực lòng” của người tôi tớ và của người nữ tì trong tương quan với Thiên Chúa, khi để lạc mất Con Đấng Tối Cao. Chúng ta hãy hình dung ra tâm trạng lo âu của thánh Giuse và Đức Maria lớn đến mức nào, khi các ngài thầm nghĩ: “Thiên Chúa trao phó cho mình Con của Ngài, để thực hiện kế hoạch cứu độ, vậy mà mình lại để lạc mất!”
Và nếu chúng ta để ý, đó là lời của Đức Maria, nhưng Mẹ không nhân cá nhân mình, nhưng nói với Đức Giê-su với tư cách là “cha mẹ” của Ngài; hơn nữa, Đức Mẹ còn tỏ lòng kính trọng thánh Giuse khi nói: “cha con và mẹ đây”. Ngoài ra, trong trình thuật này, từ đầu đến cuối, thánh sử Luca luôn nói tới: “cha mẹ”, “ông bà”, “hai ông bà”. Thật vậy, “hai ông bà” trở về sau kỳ lễ, “cha mẹ” chẳng hay biết, “ông bà” cứ tưởng, “ông bà”đều cực lòng tìm con suốt ba ngày; và khi thấy con, “hai ông bà” đều sửng sốt. Chúng ta có thể dừng lại để cảm nếm sự hiệp thông và hiệp nhất giữa Thánh Giuse và Đức Maria, con tim và tình yêu của các ngài dành cho nhau và cho Đức Giê-su. Đức Giê-su trả lời như trách hỏi lại cha mẹ:
Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?
Lời nói đầu tiên (theo lời kể của sách Tin Mừng theo thánh Luca) của Đức Giêsu có khó nghe quá không? Sau này, Ngài còn nói những câu khó nghe nữa với Đức Maria: “Ai là mẹ tôi, ai là anh em, chị em của tôi?”. Nhưng lời của Đức Giê-su không chỉ khó nghe, nhưng còn khó hiểu! Chúng ta hãy đặt mình vào trường hợp của các ngài: “Ông bà không hiểu lời Người vừa nói”. Trong đời sống ơn gọi, chúng ta cũng không hiểu nhiều điều. Lời Chúa trong Kinh Thánh cũng vậy, vấn đề ý nghĩa luôn không dễ dàng.
Ở đây, chúng ta có thể nhận ra thách đố của mọi gia đình. Thách đố của cha mẹ: đó là con mình sinh ra và thuộc về mình, nhưng người con còn là quà tặng của Thiên Chúa, là con Thiên Chúa. Thách đố của người con: vừa sống sự chờ đợi (vâng lời) của cha mẹ, và vừa sống sự chờ đợi của Cha trên trời. Nhưng cả hai thách đố đều, một đàng làm cho tương quan ruột thịt trở nên đích thật và triển nở, và đàng khác, nhắm đến tương quan rộng mở của Nước Trời. Bởi vì, mọi ơn gọi đều hướng tới tương quan Nước Trời: Ơn gọi gia đình khởi đi từ tương quan ruột thịt để mở ra với tương quan Nước Trời: Mọi người là con của Cha, mọi người là anh chị em của nhau. Tuy nhiên, ơn gọi tu trì làm cho tương quan ruột thịt bị đứt đoạn, vừa để chất vấn mọi người và vừa để xây dựng tương quan Nước Trời ngay hôm nay và chỉ sống và làm chứng cho tương quan Nước Trời.
Nhưng nếu Đức Giê-su đã nói lời khó nghe, thì thái độ “đi xuống” cùng với cha mẹ, và hằng ngoan ngoan và vâng phục các ngài, sẽ bù lại (c. 51-52). Hay đúng hơn, Ngài cũng khám phá ra ý của Cha trên trời cũng được thể hiện nơi ý của cha mẹ. Tình yêu Ngài dành cho Cha trên trời cũng được thể hiện nơi tình yêu Ngài dành cho cha mẹ ở dưới đất. Về Đức Giê-su và về tất cả (không chỉ cuộc đời nhập thể, nhưng toàn bộ Kinh Thánh, nghĩa là sáng tạo và lịch sử) liên quan đến người, chúng ta hãy noi gương Trái Tim Vô Nhiệm của Đức Maria:
« Hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng »
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Sáu

12 THÁNG SÁU

Chúng Ta Quyết Định Vận Mệnh Của Chính Mình

Công Đồng Vatican II diễn tả cùng sự thật ấy về con người bằng những ngôn từ vừa bất hủ vừa rất chính xác đối với thời đại hôm nay: “Con người chỉ có thể quay về với sự thiện một cách tự do … Phẩm giá con người đòi họ phải hành động theo sự lựa chọn ý thức và tự do” (MV 17). “Nhờ có nội giới, con người vượt trên mọi vật. Khi quay về với lòng mình tức là họ trở về với nội giới thâm sâu này, ở đó Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm hồn, đang chờ đợi họ; và cũng chính nơi đó con người tự định đoạt về vận mệnh riêng của mình dưới con mắt của Thiên Chúa” (MV 14).

Sự tự do đích thực của con người là sự tự do đặt nền tảng trên sự thật. Từ nguyên thủy, sự tự do này đã mạc khải hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người. Vâng, sự thật giải phóng con người để con người trở nên chính mình một cách viên mãn trong Đức Kitô.

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II

Lời Chúa Trong Gia Đình

Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ
Is 61,9-11;Lc 2, 41-51.

LỜI SUY NIỆM: Trong câu chuyện Đức Mẹ và Thánh Giuse tìm gặp Chúa Giêsu ở lại Đền Thờ sau ba ngày lạc mất. “Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ những điều ấy trong lòng.” (Lc 2, 51)

Khi Đức Mẹ chịu truyền tin, Đức Mẹ đã biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa thật, nhưng khi đứng trước những biến cố: Chúa Giêsu tự ý ở lại trong Đền Thờ. – Ngồi giữa các thầy dạy để nghe, đặt câu hỏi, đối đáp một cách thông minh. – Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha con sao? – Trở về và hằng vâng phục. Qua từng biến cố Đức Mẹ chỉ biết ghi nhớ trong lòng. Chúng ta phải biết học nơi Đức Mẹ điều này. Bởi trong cuộc sống của chúng ta luôn có những biến cố lớn nhỏ, đôi khi chúng ta không quan tâm đến, làm cho chúng ta không nhận ra ân huệ của Chúa ban cho chúng ta. Cần phải ghi nhớ trong lòng mình để thấy mình còn sống tốt như hôm nay là nhờ ơn của Chúa.


Mạnh Phương


Tôi biết chạy đến với ai?
Sau khi phản bội Chúa bằng một cái hôn, Giuda cảm thấy thất vọng đến độ không còn nghĩ rằng mình có thể được tha thứ nữa. Ông cầm 30 đồng bạc là giá của sự phản bội và đi vào Ðền thờ để trả lại cho các thượng tế và kỳ lão. Sau đó, ông ra ngoài lấy dây thắt cổ tự vận.
Câu chuyện ấy đã được xen vào vở tuồng thương khó nổi tiếng của dân làng Oberammergau bên Ðức. Cứ 10 năm một lần, theo một lời thề hứa mà ông cha đã để lại từ mấy trăm năm qua, người dân làng diễn ra cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Vở kịch thu hút khán giả từ khắp nơi trên thế giới.
Người ta kể lại rằng lần kia, một em bé gái 7 tuổi ngồi cạnh mẹ để xem vở tuồng. Người đóng vai Giuda, trong cơn thất vọng não nề đã thốt lên: "Tôi biết đi đến với ai bây giờ? Tôi đã phản bội Thầy tôi. Thế là hết! Tô không biết phải chạy đến với ai nữa".
Em bé ngồi bên cạnh mẹ cảm thông cho số phận của kẻ chìm đắm trong thất vọng. Em muốn tìm cách để cứu vớt con người khốn khổ ấy. Em bèn quay sang mẹ và nói lớn đến độ tất cả mọi khán thính giả có mặt trong hội trường đều nghe được: "Má ơi, sao ông ta không chạy đến với Mẹ Maria?".
Chúa Giêsu cũng có một người Mẹ như mọi người, và nhất là Ngài cũng trải qua một thời thơ ấu như mọi người. Kỷ niệm của những giây phút ngồi trên gối Mẹ, những lần sà vào lòng Mẹ, những lần mếu máo khi lạc mất Mẹ, hay những lần vòi vĩnh Mẹ... hẳn phải luôn đậm nét trong ký ức của Chúa Giêsu. Có lẽ chính kinh nghiệm của bản thân ấy đã trở thành bài học về hồn nhiên trong trắng, tin tưởng, phó thác của tuổi thơ mà Chúa Giêsu luôn đề ra cho chúng ta khi Ngài nói: "Nếu các ngươi không nên giống như trẻ nhỏ, các ngươi không được vào nước Trời".
Tuổi thơ thường gắn liền với mẹ. Còn âm thanh nào bộc phát, tự nhiên, quen thuộc và êm dịu trên môi của trẻ thơ cho bằng tiếng "Mẹ". Khi vui, trẻ thơ kêu mẹ, lúc đói, trẻ thơ cũng kêu mẹ. Khi tỉnh thức, trẻ thơ cũng kêu mẹ, lúc ngái ngủ, trẻ thơ cũng kêu mẹ... Mẹ là tất cả của trẻ thơ.
Mời gọi chúng ta mặc lấy tâm tình của trẻ thơ để được vào nước Trời, hẳn Chúa Giêsu cũng muốn nhắn gửi chúng ta cho Mẹ của Ngài. Trở nên trẻ thơ trong nước Trời cũng có nghĩa là biết chạy đến với Mẹ Ngài. Trở nên trẻ thơ trong nước Trời cũng có nghĩa là mặc lấy tâm tình của chính Mẹ Ngài, bởi vì còn ai trong trắng, tin tưởng, phó thác cho bằng Mẹ.
(Trích sách ‘Lẽ Sống’)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét