10/04/2016
Chúa Nhật tuần 3 Phục Sinh năm C
(phần I)
Bài Ðọc I: Cv 5, 27b-32. 40b-41
"Chúng
tôi là chứng nhân các lời đó cùng với Thánh Thần".
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Trong
những ngày ấy, thầy thượng tế hỏi các tông đồ rằng: "Ta đã ra lệnh cấm các
ngươi nhân danh ấy mà giảng dạy. Thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý các
ngươi khắp cả Giêrusalem; các ngươi còn muốn làm cho máu người đó lại đổ trên
chúng tôi ư?" Phêrô và các tông đồ trả lời rằng: "Phải vâng lời Thiên
Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa cha ông chúng ta đã cho Ðức Giêsu sống
lại, Ðấng mà các ông đã giết khi treo Người trên thập giá. Thiên Chúa đã dùng
quyền năng tôn Ngài làm thủ lãnh và làm Ðấng Cứu Ðộ, để ban cho Israel được ăn
năn sám hối và được ơn tha tội. Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với
Thánh Thần, Ðấng mà Thiên Chúa đã ban cho mọi kẻ vâng lời Người!" Họ ra lệnh
đánh đòn các tông đồ và tuyệt đối cấm không được nhân danh Ðức Giêsu mà giảng dạy
nữa, đoạn tha các ngài về. Vậy các ngài ra khỏi công nghị, lòng hân hoan vì thấy
mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Ðức Giêsu.
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 29, 2 và 4. 5 và 6. 11 và
12a và 13b
Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã
giải thoát con (c. 2a).
Hoặc đọc:
Alleluia.
Xướng:
1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ
về con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài đã cứu con khỏi
số người đang bước xuống mồ. - Ðáp.
2) Các
tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận
của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời.
Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng vui hoan hỉ. - Ðáp.
3) Lạy
Chúa, xin nhậm lời và xót thương con, lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con.
Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con; lạy Chúa là Thiên Chúa
của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Kh 5, 11-14
"Chiên
Con đã bị giết, xứng đáng lãnh nhận quyền năng, ...vinh quang và lời chúc tụng".
Trích
sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là
Gioan, đã thấy và nghe tiếng các thiên thần đông đảo vòng quanh ngai vàng, tiếng
các sinh vật và các vị kỳ lão; số họ đông hằng ngàn hằng vạn, họ lớn tiếng tung
hô rằng: "Chiên Con đã bị giết, xứng đáng lãnh nhận quyền năng, phú quý,
khôn ngoan, sức mạnh, danh dự, vinh quang và lời chúc tụng". Tôi lại nghe
mọi thọ tạo trên trời, trên đất, dưới đất, trên biển và dưới biển, tung hô rằng:
"Chúc Ðấng ngự trên ngai và chúc Chiên Con được ca tụng, danh dự, vinh
quang, quyền năng đến muôn đời". Bốn sinh vật thưa: "Amen", và
hai mươi bốn vị kỳ lão sấp mặt xuống và thờ lạy Ðấng hằng sống muôn đời.
Ðó là
lời Chúa.
Alleluia: Ga 10, 27
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và
chúng theo Ta". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 21, 1-14 {hoặc 1-19}
"Chúa
Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy,
lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy
ra như sau: "Simon-Phêrô, Tôma (cũng gọi là Ðiđymô), Nathanael quê tại
Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ khác nữa đang ở với nhau.
Simon Phêrô bảo: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông kia nói rằng:
"Chúng tôi cùng đi với ông". Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy
các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ
biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: "Này các
con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không". Chúa
Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả
lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền
nói với Phêrô: "Chính Chúa đó". Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền
khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền
vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước
tay.
Khi
các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo:
"Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây". Simon Phêrô xuống thuyền
kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu
cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo rằng: "Các con hãy
lại ăn". Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi "Ông là ai?", vì mọi
người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người
cũng cho cá như thế. Ðây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ
khi Người từ cõi chết sống lại.
[Vậy khi các Ngài đã điểm tâm xong,
Chúa Giêsu hỏi Simon Phêrô rằng: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy
hơn những người này không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con
yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy".
Người lại hỏi: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Ông
đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông:
"Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người hỏi ông lần thứ ba:
"Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Phêrô buồn phiền,
vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba: "Con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp:
"Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo
ông: "Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con
biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già,
con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con
không muốn đến". Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm
sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: "Con hãy theo
Thầy".]
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm: Chúa đã dọn sẵn cho các thợ
phần thưởng ở Bến bình an
Bài
Tin Mừng Chúa nhật trước cho chúng ta thấy Chúa sống lại đã hiện ra một cách đặc
biệt cho Tôma; hôm nay chúng ta vừa nghe đọc, Người hiện đến với Phêrô một cách
đặc biệt. Nhưng cả hai lần đều phải nói, Người đã muốn đến gặp gỡ tất cả các
tông đồ, tức là toàn thể Hội Thánh chúng ta. Ðược sức mạnh của Chúa Phục Sinh
thúc đẩy, Hội Thánh đã sinh hoạt rất đáng ngưỡng mộ. Chúa nhật trước chúng ta
thấy các tông đồ làm nhiều dấu lạ điềm thiêng, hôm nay các ngài tỏ ra quả cảm
trong việc rao giảng Tin Mừng. Người ta không thể nào hiểu được những điều này
nếu không tin mầu nhiệm Chúa sống lại khiến Ðức Giêsu Kitô đã trở thành Chúa và
là Thiên Chúa. Bài sách Khải Huyền tuyên xưng niềm tin ấy và chúng ta nên bắt đầu
với bài sách này để hiểu hai bài Kinh Thánh kia hơn.
1. Chúa Tụng Chiên Con
Vẫn
thánh Gioan là tác giả sách Khải Huyền nói với chúng ta. Người viết cho Hội
Thánh về những mầu nhiệm mà Người được thấy mở ra ở trên trời, tức là nơi thế
giới của Thiên Chúa. Ðó là những mạc khải nhằm an ủi Hội Thánh đang bị thử
thách ở trần gian.
Vậy,
Gioan nhìn thấy trên trời có đặt một chiếc Ngai. và chung quanh Ngai có đông đảo
thiên thần. Số họ là vạn vạn ngàn ngàn. Cảnh tượng này thật ra cũng không lạ
gì. Hễ ai nghĩ về thiên quốc đều có thể diễn tả như vậy. Ðiều lạ ở đây là vạn vạn
ngàn ngàn thiên thần ấy hoan hô cả tiếng: Chiên Con đã chịu tế sát. Ở thời
Gioan không thiếu gì nơi và người thờ các thiên thần. Nếu không thì người ta
luôn sẵn sàng nghĩ rằng dưới Thiên Chúa là đến các thiên thần, chứ chẳng có bậc
nào hơn được các thiên thần. Thế mà ở đây thiên thần dù đông vạn vạn ngàn ngàn,
cũng chỉ đóng vai trò thờ lạy hoan hô... ai? Thiên Chúa ư? Không, họ hoan hô
chúc tụng Chiên Con đã chịu tế sát.
Chúng
ta ai cũng biết Chiên Con đã chịu tế sát là chính Ðức Giêsu Kitô trong mầu nhiệm
Tử nạn Phục sinh, là Ðức Giêsu Kitô đã sống lại nhưng còn mang trên mình các
thương tích của cuộc khổ nạn. Người đã trở thành Chiên Vượt qua của đạo mới để
giải thoát dân Người ra khỏi cõi âm u tội lỗi mà đưa vào Nước sáng láng của Người.
Bây giờ Người đang ở trên trời, không là Ðấng ngự trên Ngai nhưng cũng được
tung hô chúc tụng như chính Ngài.
Thật vậy,
tất cả những kiểu nói: quyền năng, phú quí, khôn ngoan, dũng lực, danh dự vinh
quang và chúc tụng đều là những công thức qui định để tung hô Thiên Chúa. Nay vạn
vạn ngàn ngàn thiên thần đứng quanh Ngai Thiên Chúa để hoan hô cả tiếng Chiên
Con chịu tế sát với chính những lời quy định ấy. Ðiều này chứng tỏ Chiên Con đã
được đồng hàng với Thiên Chúa. Lời chúc tụng của các thiên thần, công nhận
Chiên Con là Chúa.
Mà
không phải chỉ có các thiên thần, tất cả tạo thành trên trời, dưới đất, dưới gầm
đất, nơi lòng biển, cùng toàn thể vạn vật nơi các chốn ấy cũng tung hô
"Kính bái Ðấng ngự trên Ngai cùng Chiên Con" với những lời thánh thiện
kia.
Cuối
cùng bốn sinh vật tượng trưng cho tứ phương và các lão công tiêu biểu cho tất cả
Hội Thánh cũng phục mình thờ lạy, làm chứng Chiên Con bị tế sát, tức là Ðức
Giêsu tử nạn phục sinh, được tất cả trời đất vạn vật tôn thờ như Thiên Chúa.
Tác giả Gioan nói cả đến gầm đất và lòng biển không phải chỉ để kể tên cho hết
mọi nơi trong trời đất và tất cả vạn vật. Nhưng theo quan niệm ở thời của Người
đó còn là thế giới của tử thần. Và như vậy Người muốn nói Ðức Giêsu Kitô tử nạn
phục sinh bây giờ, cũng là Chúa của những nơi ấy, vì sự chết của Người đã toàn
thắng sức mạnh của âm phủ.
Do đó
bài sách Khải Huyền hôm nay là một bài tuyên xưng mạnh mẽ vương quyền cao cả của
Chúa Giêsu Kitô tử nạn phục sinh. Việc tác giả nhấn mạnh đến từ ngữ "chịu
tế sát" khi nói về Chiên Con chứng tỏ Người muốn cho chúng ta hiểu về giá
trị thập giá của Ðức Kitô. Người đã chết, nhưng đã sống lại. Và cuộc tử nạn của
Người bây giờ đang được tôn vinh.
Ðó
không phải chỉ là sự chết, nhưng là sự chết đã trở thành sự sống sau khi đã chiến
thắng và nắm giữ được quyền lực của thế giới tử thần. Ðiều này không làm phấn
khởi lòng Hội Thánh trong khi bị thử thách sao? Niềm tin phục sinh là sức mạnh
lớn nhất cho thân phận những người đang là lữ khách trần gian. Câu chuyện về
các Tông đồ hôm nay còn làm chứng điều ấy.
2. Các Tông Ðồ Tuyên Chứng
Trước
kia, các tông đồ là những người như thế nào ai ai cũng biết. Họ làm nghề chài
lưới, ít học và rất sợ người Do Thái. Phêrô có lúc sợ cả một đứa ở gái. Thế mà
hôm nay đứng trước công nghị nghe Thượng Tế cấm không được rao giảng Danh Ðức
Giêsu nữa, Phêrô đã trả lời khẳng khái: Phải vâng phục Thiên Chúa hơn là người
ta.
Nhờ
đâu đã có một sự thay đổi như vậy? Chúng ta cứ nghe Phêrô. Ông đang tuyên chứng
trước công nghị, tức là cơ quan quyền lực tối cao của người Do Thái. Chính cơ
quan này đã lập tòa xử án Ðức Giêsu và đã hành động để Người bị treo lên cây gỗ.
Nhưng, Phêrô nói: "Thiên Chúa đã cho Ðức Giêsu sống lại". Thiên Chúa
đã tỏ rõ phán quyết của Người. Người ta đã treo Ðức Giêsu lên cây gỗ; còn Thiên
Chúa lại nhắc Ngài lên bên hữu Người. Vậy phải theo ai? Nhất định phải vâng lời
Thiên Chúa hơn là người ta. Thiên Chúa đã tôn vinh Ðức Giêsu, thì nhất định
chúng ta phải rao giảng Danh Ngài. Mà rao giảng Ngài có thiệt hại gì ai? Trái lại,
Ngài được Thiên Chúa nhắc lên làm Cứu tinh và Cứu thế. Rao giảng Ngài chỉ là để
ban cho Israen ơn hối cải và tha tội.
Ðây
không phải là một lời tuyên xưng cuồng tín vì lý luận như vậy thật chắc chắn.
Phêrô không thể một mình làm như vậy được. Chính ông thú nhận khi nói: "Về
các điều ấy, chúng tôi đây là chứng nhân cùng với Thánh Thần Thiên Chúa đã ban
cho những ai vâng phục Người". Ông phân biệt rõ những điều ông biết vì đã
thấy, đó là việc Ðức Giêsu phục sinh từ cõi chết. Nhưng nói lên được những điều
tuyên xưng mạnh mẽ sáng suốt kia, chính là công việc của Thánh Thần mà Phêrô nhận
được nhờ tuân phục phán quyết của Thiên Chúa khi Ðức Giêsu Kitô đã sống lại. Và
đứng trước một lời tuyên xưng như thế, người ta còn biết làm gì? Họ cho đánh
đòn các tông đồ, cấm rao giảng thêm, rồi thả về. Nhưng đó là biện pháp của những
kẻ đã thua. Chúng chẳng có hiệu lực gì. Chỉ đáng tức cười thôi. Thế nên ra khỏi
công nghị, các tông đồ còn được thêm hân hoan vì thấy mình đã được chịu xỉ nhục
vì Danh Chúa Giêsu.
Chúng
ta hãnh diện về các ngài. Chúng ta tin tưởng Hội Thánh mà các ngài đã thiết lập.
Bề ngoài, đây có vẻ chỉ là đàn chiên nhỏ; hơn nữa xét về mặt xã hội chẳng có gì
đáng vênh vang. Nhưng trong Hội Thánh ấy có phụng vụ phục sinh, có lời tuyên
xưng Chúa Giêsu đã chết và sống lại, thì đó đã là Nước Trời, đã là Thiên Quốc.
Nơi
đây không phải chỉ có vạn vạn ngàn ngàn thiên thần tung hô Chiên Con chịu tế
sát cùng với các tín hữu của Chúa, nhưng còn có Thánh Thần được ban xuống dồi
dào cho các tâm hồn, để những kẻ vốn tầm thường trở nên những khí cụ rất giá trị
cho công cuộc của Thiên Chúa. Trời với Ðất gặp nhau trong các cộng đoàn này, vì
khi Hội Thánh cử hành Phụng Vụ Phục Sinh, những điều Gioan viết trong sách Khải
Huyền và những điều Luca kể trong sách Công vụ rõ ràng gặp nhau. Hội Thánh ở dưới
đất tuyên xưng cũng những mầu nhiệm như ở trên Trời. Và trời cao đã đổ ơn
thiêng xuống để Hội Thánh dưới đất không ngừng rao giảng Danh Ðức Giêsu, Ðấng
mà vạn vạn ngàn ngàn Thiên Thần trên trời không ngớt tung hô là Chiên Con chịu
tế sát.
Tuy
nhiên để có sự hòa hợp đó, Ðức Giêsu Kitô phải chịu chết và sống lại; và Người
đã phải hiện ra với các tông đồ như chúng ta đọc trong bài Tn Mừng hôm nay.
Không có việc hiện ra này, đã không có gì cả. Vì thế chúng ta cần đọc kỹ lại
bài Tin Mừng.
3. Chúa Sống Lại Hiện Ra
Ngày
nay, người ta đã thấy rõ chương cuối cùng (chương 21) trong tác phẩm Tin Mừng
theo thánh Gioan là phần đã được đính thêm vào một quyển sách đã được viết xong
rồi. Tác giả đã có lời kết thúc từ biệt (20,30-31); Không có lý do nào Người lại
viết tiếp, rồi lại từ biệt một lần nữa. Nhưng vì tư tưởng và lời văn trong
chương 21 này rất phù hợp với toàn tác phẩm Tin Mừng thứ tư, nên người ta nghĩ
đã có một bàn tay môn đệ của Gioan đã khéo léo viết ra chương này để bổ túc một
số ý tưởng mà ông cho là cần thiết. Ở đây chúng ta chỉ để ý vai trò (hay nói
đúng hơn, ơn gọi) lãnh đạo của Phêrô.
Chúng
ta biết trước khi Phêrô là thuyền chài. Ông có thuyền có lưới và có đồng bạn
thường ra khơi đánh cá. Một hôm Chúa đã gọi ông và các bạn đi theo Người. Họ đã
bỏ đồ nghề và mọi sự mà đi theo Chúa. Có phải vì họ đã thấy quyền phép của Chúa
khi cho họ đánh được một mẻ cá nhiều lạ lùng như Luca kể không? Hay là như
Gioan kể ở phần đầu sách, chỉ vì họ nghe tiếng Người gọi? Chắc chắn đã có hai
việc: Có việc Chúa gọi các ông và có việc Chúa cho các ông bắt được một mẻ cá
nhiều phi thường. Còn ghép hai việc lại với nhau nếu quả thực là những việc rời
nhau, là công cuộc của các tác giả để làm nổi bật một ý nghĩa thần học nào đó.
Hôm
nay, đoạn Tin Mừng này có thêm một ý tưởng nữa, rất sâu xa và phong phú. Tác giả
cho rằng sau ngày Chúa sống lại, Phêrô và đồng bạn lại trở về nghề cũ. Sự thật
như thế, hay là ở đây ông cũng muốn làm như Luca ở đoạn nói về hai môn đệ đi đến
làng Emmaus? Các ông muốn nói lên điều này, là cuộc tử nạn của Chúa trên thập
giá đã làm cho môn đồ của Ngài chán nản, thất vọng muốn trở về nghề xưa. Thêm
vào ý tưởng ấy, tác giả Gioan ở đây còn nhấn mạnh ưu vị của Phêrô khi đưa sáng
kiến đi đánh cá và được anh em họa theo tức thời. Nhưng cho dù có nhất trí và
hăng hái, công việc loài người của họ cũng chỉ thất bại. Phải có Chúa Phục sinh
hiện đến, sai đi và hướng dẫn, họ mới đạt được kết quả và kết quả dồi dào phi
thường.
Người
ta tò mò tự hỏi vì sao tác giả đếm kỹ đến thế? Họ đã bắt được 153 con cá lớn.
Con số này có ý nghĩa gì không? Có phải tác giả theo quan niệm của các nhà sinh
vật học ngày xưa cho rằng trong biến cố tất cả 153 loại cá? Hay là ông muốn làm
một trò chơi toán học, lấy 17 số đầu tiên (cộng lại với nhau sẽ được 153), thay
các số ấy bằng số các chấm, đặt các dấu chấm thẳng nhau và lần lượt trên dưới
nhau, cuối cùng sẽ vẽ được hình ba góc ba cạnh đều và mỗi cạnh có 17 chấm.
Như vậy
số 153 là một số lượng nhất định mà chỉ cần bớt đi một chấm nhỏ đã làm mất cả
thăng bằng. Và mẻ cá 153 con sẽ diễn tả thực tại Hội Thánh vừa đông số vừa đủ số,
vừa lớn lao vừa duy nhất. Nhưng thôi, chúng ta chỉ cần biết ý của tác giả là nhờ
ơn Chúa Phục Sinh, công việc của Hội Thánh sẽ kết quả phi thường; cả nhân loại
sẽ gia nhập Hội Thánh.
Và
Chúa đã dọn sẵn cho các thợ phần thưởng ở "Bến bình an". Họ đã thấy
có bánh và cá, nướng hơ trên lửa để làm thỏa mãn những con người có lẽ đang đói
và lạnh vì nước và gió biển. Người ta dễ thấy bánh có thể tượng trưng cho chính
Chúa; nhưng còn cá nướng? Chúng ta biết ở những thế kỷ đầu các tín hữu vẫn vẽ
hình con cá để làm tín hiệu cho nhau vì chữ Ictus (cá) cũng là những chữ đầu
nói lên lời tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Cứu tinh nhân loại. Và như vậy cá nướng
sẽ gợi lên ý tưởng Ðức Kitô chịu nạn. Có người còn nói thêm "lửa" kia
chính là Thánh Thần. Và người ta kết kuận, Chúa đã dọn sẵn cho Hội Thánh khi
lao nhọc chính Mình và Máu Người đầy Thánh Thần.
Nhưng
điều ít mầu nhiệm hơn và dễ thấy hơn là việc Phêrô đưa thuyền vào bờ, nói lên
chính ông sẽ làm việc nơi các người kế vị ông cho đến khi con thuyền Hội Thánh
đưa tất cả các dân tộc vào bến bình an. Và như vậy chúng ta không càn giải
thích nhiều nữa việc ông được Chúa đặt làm mục tử coi sóc cả đàn chiên Chúa. Dĩ
nhiên đây là chủ đề của bài Tin Mừng hôm nay; nhưng tác giả đã sửa soạn kỹ quá,
chúng ta thấy rõ ưu vị của Phêrô và hoạt động của ông; chúng ta sẵn sàng công
nhận quyền lãnh đạo của ông khi Chúa đặt ông coi sóc chiên con và chiên mẹ.
Chắc
chắn nhiều người vẫn hiểu việc Chúa hỏi Phêrô 3 lần về lòng mến như để bù lại 3
lần ông đã chối Người. Nhưng như thế cũng hơi lạ, vì nếu vậy, sao Chúa không đợi
Phêrô trả lời xong 3 lần rồi hãy trao cho trách nhiệm chăn chiên? Do đó, nhiều
nhà chú giải ngày nay nghĩ rằng: hỏi và thưa ba lần như vậy, cũng như được trao
quyền 3 lần như thế, là để làm nổi bật ý nghĩa trọng đại của sự việc. Ấy là
chưa kể ở thời kỳ chữ viết chưa phổ thông, việc lập lại lệnh truyền, hay lời thề
ba lần là để nhấn mạnh sự chắc chắn và cho người làm chứng có thể nghe rõ ràng.
Dù sao đây cũng là việc trao ban sứ mệnh quan trọng.
Và việc
trao ban này đòi Phêrô phải mến Chúa Giêsu "hơn những người khác", vì
thật là khó hiểu khi vị đại diện của Người trên trần gian lại không mến Người
hơn những anh em khác? Và trách vụ chăn chiên đòi người ta phải theo gương vị Mục
tử tốt đã hiến đến mạng sống mình vì yêu thương. Không có lòng yêu thương này,
đã không có câu chuyện kể trong bài Tin Mừng hôm nay, và cũng đã không có những
việc tốt đẹp thuật trong bài sách Công vụ các Tông đồ, và cũng chẳng có các buổi
phụng vụ phục sinh ở dưới đất giống như Gioan nhìn thấy trong sách Khải huyền.
Chính
Chúa đã thiết lập và để lại cho chúng ta Phụng vụ thánh thiện này để ở đây nơi
bàn thờ này sẽ có Lửa Thánh Thần biến đổi bánh rượu nên Mình và Máu Chúa Giêsu
Kitô Tử nạn Phục sinh. Chúng ta hãy sốt sắng thờ phượng Con Chiên chịu sát tế
như vạn vạn ngàn ngàn thiên thần ở trên trời.
Chúng
ta hãy nhận lấy lương thực thiêng liêng này để thêm lòng mến Chúa Giêsu, dâng
mình cho Người, sẵn sàng rao giảng Người bằng lời nói và hành động, và hợp tác
với Hội Thánh và các vị chủ chăn trong việc đưa nhân loại về bến bình an nhờ
Thánh Thần hoạt động nơi con người và đời sống yếu hèn của chúng ta; bởi vì
Chúa Giêsu Phục Sinh đã giao cho Hội Thánh chúng ta sứ mạng ấy.
Chúng
ta hãy đến với Người, tung hô Người, yêu mến Người, lãnh nhận Người, sống với
Người và làm công việc của Người là cứu nhân độ thế.
(Trích dẫn từ tập sách Giải
Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô
Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 3 Phục Sinh, Năm C
Bài đọc: Acts
5:27b-32, 40b-41; Rev 5:11-14; Jn 21:1-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải tin nơi Thiên Chúa và những lời dạy dỗ của Đức Kitô.
Con
người luôn bị đặt trong tình thế phải lựa chọn: nên tin vào sự khôn ngoan và sức
mạnh của Thiên Chúa hay nên tin vào sự khôn ngoan và sức mạnh của chính mình
hay của quyền lực thế gian. Phần đông con người xưa và nay đều chọn tin vào sự
khôn ngoan và sức mạnh của chính mình và của quyền lực thế gian.
Các
bài đọc hôm nay muốn nêu bật những lý do tại sao con người nên tin vào sự khôn
ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa. Trong bài đọc I, Phêrô đặt câu hỏi cho những
người trong Thượng Hội Đồng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hay vâng lời người
phàm?” Trong bài đọc II, tác giả Sách Khải Huyền muốn nêu bật kết quả tuyệt vời
của Kế hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, và Đức Kitô là người chiến thắng vinh quang
mọi quyền lực của thế gian. Ngài xứng đáng lãnh nhận mọi danh dự, vinh quang,
và muôn lời chúc tụng. Trong Phúc Âm, khi các môn đệ tuân theo những lời chỉ dẫn
của Đức Kitô, họ đã bắt được một mẻ cá lớn, cá nhiều như thế mà lưới không
rách, họ cũng được hưởng sự chăm sóc và yêu thương của Đức Kitô.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Các Tông Đồ hân hoan bởi được coi là xứng
đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Kitô.
1.1/ Phản
ứng ngoan cố của những người trong Thượng Hội Đồng: Họ đã giết Đức Kitô cách vô cớ và họ
đã bỏ tù các tông đồ lần thứ nhất cách vô tội. Đây là lần thứ hai họ xét xử các
tông đồ sau khi các ngài được thiên thần hướng dẫn ra khỏi tù. Họ điệu các tông
đồ đến giữa Thượng Hội Đồng; vị thượng tế hỏi các ông rằng: "Chúng tôi đã
nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm
cho Jerusalem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ
trên đầu chúng tôi!"
Lẽ ra
các người trong Thượng Hội Đồng phải nhận ra tội lỗi sau hai lần kết án người
vô tội; đàng này họ lại muốn các tông đồ không được nhân danh Đức Kitô để giảng
dạy và không được đổ cho họ tội giết oan Đức Kitô. Họ phải biết sức họ chỉ có
thể tiếp nhận ánh sáng, chứ không thể tiêu diệt ánh sáng. Tuy vậy, vì sợ dân, họ
không dám đổ máu các tông đồ; nhưng “cho gọi các Tông Đồ lại mà đánh đòn và cấm
các ông không được nói đến danh Đức Giêsu, rồi thả các ông ra.”
1.2/ Phản
ứng của các tông đồ: Chúng
ta có thể nhận ra sự can trường của Phêrô và các tông đồ. Các tông đồ mới từ
trong tù được các thiên thần dẫn ra; các ông không sợ tù đày và quyền lực của
Thượng Hội Đồng, nhưng lại tiếp tục làm chứng cho Đức Kitô. Các tông đồ nói lên
một chân lý mà những người Do-thái kính sợ Thiên Chúa phải đồng ý với các ngài:
"Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.” Và họ tiếp tục làm chứng
cho Đức Kitô: “Chúa Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên
Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy
quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel
ơn sám hối và ơn tha tội. Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với
Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người."
Khi bị
đánh đập bởi Thượng Hội Đồng, các tông đồ không lấy làm đau đớn hay sợ hãi;
nhưng các ngài hãnh diện vì được chịu khổ hình và thông phần vào cuộc khổ nạn với
Đức Kitô.
2/ Bài đọc II: "Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai
và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở
muôn đời!"
2.1/Bài
ca trên trời ca tụng Con Chiên: Bảy điều các thiên thần ca tụng Con
Chiên xứng đáng được lãnh nhận:
(1) Uy
quyền: Thánh Phaolô gọi Đức Kitô là “uy quyền của Thiên Chúa” (1 Cor 1:24).
(2)
Sung mãn: Nguồn ơn thánh cho nhân loại được tuôn tràn từ nơi Ngài; nhờ Ngài,
chúng ta lãnh nhận hết ơn thánh này đến ơn thánh khác (Jn 1:16). Tác giả Thư
Ephesô nói về “sự sung mãn không thể tìm kiếm đâu khác ngoài Đức Kitô” (Eph
3:8).
(3) Khôn
ngoan: Đức Kitô là Ngôi Lời khôn ngoan của Thiên Chúa (Jn 1:1-2; 1 Cor 1:24).
(4) Sức
mạnh: Đức Kitô có sức mạnh tước đoạt vũ khí của kẻ thù và thắng quyền lực của
Satan (Lk 11:22).
(5)
Danh dự: Khi nghe danh thánh của Đức Kitô, mọi gối trên trời, dưới đất, và
trong nơi âm phủ phải bái quì và mở miệng tuyên xưng Đức Kitô là Chúa (Phil
2:11).
(6)
Vinh quang: Thánh Gioan viết: “chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Jn 1:14b).
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Jn 1:14b).
(7)
Chúc tụng: Đức Kitô xứng đáng mọi lời chúc tụng của con người, vì Ngài đã lấy
máu đào để đưa về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộc
mọi nước mọi dân (Rev 5:9).
2.2/ Bốn
điều các tạo vật ca ngợi Thiên Chúa và Con Chiên: Một điều căn bản, những gì thuộc về
Cha thì cũng thuộc về Con.
(1)
Chúc tụng: Thiên Chúa xứng đáng được chúc tụng vì Ngài đã dựng nên muôn vật, và
là Đấng phác họa Kế hoạch cứu độ con người.
(2)
Danh dự: Đức Kitô đến mặc khải danh của Thiên Chúa cho con người, và Ngài đã
làm mọi sự để tôn vinh danh ấy (Jn 17:6).
(3)
Vinh quang: Vinh quang của Thiên Chúa cũng là vinh quang của Đức Kitô trong thần
tính của Ngài.
(4)
Quyền năng: Thiên Chúa dùng quyền năng của Ngài mà cai trị muôn vật; nhất là
cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết và vĩnh viễn tiêu diệt tử thần.
3/ Phúc Âm: Làm theo ý Thiên Chúa sẽ mang lại kết quả
quá lòng mong đợi.
Nhiều
người thắc mắc tại sao Phêrô và các tông đồ lại trở về nghề nghiệp đánh cá của
các ông sau biến cố Phục Sinh, phải chăng các ông mất niềm tin vào Đức Kitô và
không còn nhiệt thành rao giảng Tin Mừng cho Ngài? Chúng ta biết phép lạ về mẻ
cá lạ lùng cũng được tường thuật bởi thánh sử Luke (Lk 5:1-11) trong giai đọan
đầu của sứ vụ công khai rao giảng của Đức Kitô, khi Ngài kêu gọi các môn đệ đầu
tiên theo Ngài. Matthew và Mark tuy không tường thuật về mẻ cá lạ lùng; nhưng
giống như tường thuật của Luke, Chúa Giêsu mời gọi Phêrô trở thành kẻ “lưới cá
người” (Mt 4:19; Mk 1:17).
Như
chúng ta đã quen thuộc, Gioan không bao giờ dừng lại ở việc tường thuật các
phép lạ; nhưng luôn muốn đưa người đọc lên một trình độ hiểu biết cao hơn.
Chúng ta cần tìm hiểu đâu là trình độ hiểu biết mà Gioan muốn dẫn khán giả tới
qua trình thuật hôm nay. Chương 21 được đa số các học giả cho là được thêm vào
sau này bởi chính Gioan hay các môn đệ của Ngài.
3.1/ Làm
theo ý riêng của con người sẽ chỉ chuốc lấy sự thảm bại: Trình thuật kể: “Sau đó, Đức Giêsu lại
tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tiberias. Người tỏ mình ra như thế này. Ông
Simon Phêrô, ông Thomas gọi là Didymus, ông Nathanael người Cana miền Galilee,
các người con ông Zebedee và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông
Simon Phêrô nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây." Các ông đáp:
"Chúng tôi cùng đi với anh." Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng
đêm ấy họ không bắt được gì cả.” Điều có lẽ Gioan muốn nhấn mạnh ở đây là câu
“đêm ấy họ không bắt được gì cả.”
3.2/ Làm
theo thánh ý của Thiên Chúa và lời chỉ dẫn của Đức Kitô luôn mang tới thánh
công: Trình
thuật kể tiếp: “Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ
không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Người nói với các ông: "Này các chú,
không có gì ăn ư?" Các ông trả lời: "Thưa không." Người bảo các
ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá."
Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.”
Kết quả
mang lại do việc vâng lời làm theo ý Thiên Chúa làm cho Phêrô và các tông đồ nhận
ra họ phải luôn luôn tìm kiếm và làm theo ý Thiên Chúa. Đây chính là mục đích
mà Đức Kitô nhắc đi nhắc lại cho các môn đệ của Ngài khi còn sống với các ông:
“Ta đến không để làm theo ý Ta; nhưng làm theo ý Đấng đã sai Ta” (Jn 4:34,
5:30, 6:38).
“Người
môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: "Chúa đó!" Vừa
nghe nói "Chúa đó!" ông Simon Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần,
rồi nhảy xuống biển.” Phêrô một lần nữa nhận ra yếu đuối và khuyết điểm của
mình. Trong hành trình hướng dẫn con thuyền Giáo Hội những ngày đầu tiên, Phêrô
có lẽ nhiều lúc quá tin vào sự khôn ngoan và sức mạnh của bản thân, mà bỏ quên
tìm nguồn sức mạnh và sự khôn ngoan nơi Thiên Chúa. Phép lạ “mẻ cá lạ lùng” nhắc
nhở cho Phêrô và những người lãnh đạo trong Giáo Hội phải luôn tìm kiếm và làm
theo thánh ý của Thiên Chúa.
3.3/ Chúa
Giêsu vẫn tiếp tục đồng hành với các môn đệ. Trình thuật kể: “Các môn đệ khác chèo
thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào
khoảng gần một trăm thước. Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với
cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giêsu bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt
được tới đây!"”
+ Chúa
Giêsu không sống cách biệt với các môn đệ sau khi Ngài phục sinh và lên trời;
nhưng Ngài vẫn luôn quan tâm và chăm sóc các môn đệ của Ngài. Trong trình thuật
hôm nay, Ngài quan tâm đến nhu cầu ăn uống của các ông, Ngài tự tay khơi lửa và
nướng bánh và cá để các tông đồ có của ăn uống ngay sau khi đã làm việc vất vả
suốt đêm.
+ Chúa
Giêsu luôn có cách để bảo vệ Giáo Hội và môn đệ của Ngài: Điều kỳ lạ không phải
chỉ ở chỗ nhiều cá mà còn ở chỗ mặc dù “lưới đầy những cá lớn, đếm được một
trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách.” Đây phải là hình
ảnh của Giáo Hội trần thế: Chúa Giêsu vẫn đang bảo vệ Giáo Hội khỏi mọi ghen tị
và phá phách của kẻ thù. Hơn 2000 năm qua, Giáo Hội vẫn đứng vững trước mọi tấn
công của kẻ thù từ bên ngòai và từ bên trong; và sẽ còn đứng vững đến muôn đời
như Đức Kitô đã hứa với Phêrô (Mt 16:18).
+ Nguồn
sức mạnh của bí tích Thánh Thể: Sau đó, Đức Giêsu nói với các tông đồ:
“"Anh em đến mà ăn!" Không ai trong các môn đệ dám hỏi "Ông là
ai?" vì các ông biết rằng đó là Chúa. Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho
các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy.” Đây là công thức của bí tích Thánh Thể
mà các tông đồ đã trở nên quen thuộc. Qua bí tích này, Đức Kitô và chúng ta trở
nên một để Ngài ở lại với chúng ta và giúp chúng ta sẵn sàng đương đầu với mọi
gian khổ và sóng gió của cuộc đời. Chúng ta đừng bao giờ quên tìm sức mạnh nơi
bí tích này.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Noi
gương Đức Kitô, chúng ta phải luôn cố gắng làm cho danh Cha được cả sáng, nước
Cha được trị đến, và ý cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
- Đức
Kitô không bao giờ sống cách biệt chúng ta; Ngài vẫn đang đồng hành với Giáo Hội
và với mỗi người để yêu thương, chăm sóc, hướng dẫn và bảo vệ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên,
OP
10/04/16 CHÚA NHẬT TUẦN 3 PS – C
Ga 21,1-19
Ga 21,1-19
Suy
niệm: Ai mà không buồn
khi bị hỏi đi hỏi lại cùng một câu hỏi như vậy? Hoặc vì người nghe lơ đãng;
hoặc người nghe không tin hay không chấp nhận câu trả lời. Nhưng ở đây, Chúa
Giê-su không hề muốn Phê-rô phải xấu hổ. Ngài nghe rất rõ câu trả lời chân
thành của ông, nhưng muốn ông xác tín và quyết tâm lại lòng trung thành và sự
phục vụ của ông. Thực vậy, tình yêu dành cho Chúa phải được diễn tả sống động
trong việc vâng nghe và chăm sóc đoàn chiên theo gương Chúa. Nếu Phê-rô yêu
Chúa, thì ông hãy vác thánh giá như Chúa. Nếu Phê-rô yêu Chúa, ông hãy chăm sóc
đoàn chiên, cách riêng những con chiên yêu đuối, thương tích, lạc đàn. Nếu
Phê-rô yêu Chúa, ông hãy hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Tình yêu phải được
bày tỏ trong khiêm tốn, trong hiến tế và trong phục vụ.
Mời Bạn: Sau mỗi lần bạn sa
ngã, Chúa đã cho bạn quá nhiều cơ hội mới để lặp lại tình yêu và quyết tâm của
bạn đối với Chúa. Bạn đừng buồn vì phải lặp lại quyết tâm theo Chúa, nhưng phải
buồn vì bạn vẫn chưa thực hiện điều bạn quyết tâm.
Sống Lời Chúa: Mỗi sáng thức dậy, bạn
dâng ngày cho Chúa và có một quyết tâm sống trong ngày để dâng cho Chúa.
Cầu
nguyện: Lạy Cha, xin cho con
yêu Cha hơn yêu bản thân con và yêu Cha chỉ vì Cha... Con không coi khổ đau như
một tai họa hay một điều vô lý, nhưng như một dấu chỉ cho thấy con đang thuộc
về Cha mãi mãi.
(Karl Rahner)
Chúa đó (10.4.2016 – Chúa nhật 3 Phục sinh năm C)
Suy Niệm
Bảy môn đệ trở về với nghề xưa,
trở về Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm thầy trò.
Dù đã chối Chúa, Phêrô vẫn được coi là thủ lĩnh.
Ông không ra lệnh, nhưng đưa ra lời mời kín đáo:
“Tôi đi đánh cá đây.”
Các bạn khác hiểu ngay và mau mắn đáp lại:
“Chúng tôi cùng đi với anh.”
Có một bầu khí dễ chịu, đầm ấm trong nhóm.
Ðây quả thực là một nhóm bạn lý tưởng.
Họ ở với nhau, làm việc với nhau cả đêm,
và lặng lẽ cùng nhau chia sẻ một thất bại.
Tuy nhiên, họ cũng là những người có tính tình khác nhau.
Người môn đệ được Ðức Giêsu thương mến
thì nhạy cảm hơn, nhận ra Chúa Phục Sinh đứng trên bờ.
Nhưng sau đó, ông cứ điềm nhiên ngồi lại trong thuyền.
Còn Phêrô thì nồng nhiệt hơn, vội vã mặc áo,
nhảy tùm xuống nước bơi vào, vì nóng lòng muốn gặp Chúa.
Hai phản ứng khác nhau nhưng cùng diễn tả một tình yêu.
Có thể coi nhóm môn đệ trên là hình ảnh của Hội Thánh.
Hội Thánh hiệp nhất ngay giữa những khác biệt.
Sự hiệp nhất lại làm nổi bật bản sắc mỗi người.
trở về Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm thầy trò.
Dù đã chối Chúa, Phêrô vẫn được coi là thủ lĩnh.
Ông không ra lệnh, nhưng đưa ra lời mời kín đáo:
“Tôi đi đánh cá đây.”
Các bạn khác hiểu ngay và mau mắn đáp lại:
“Chúng tôi cùng đi với anh.”
Có một bầu khí dễ chịu, đầm ấm trong nhóm.
Ðây quả thực là một nhóm bạn lý tưởng.
Họ ở với nhau, làm việc với nhau cả đêm,
và lặng lẽ cùng nhau chia sẻ một thất bại.
Tuy nhiên, họ cũng là những người có tính tình khác nhau.
Người môn đệ được Ðức Giêsu thương mến
thì nhạy cảm hơn, nhận ra Chúa Phục Sinh đứng trên bờ.
Nhưng sau đó, ông cứ điềm nhiên ngồi lại trong thuyền.
Còn Phêrô thì nồng nhiệt hơn, vội vã mặc áo,
nhảy tùm xuống nước bơi vào, vì nóng lòng muốn gặp Chúa.
Hai phản ứng khác nhau nhưng cùng diễn tả một tình yêu.
Có thể coi nhóm môn đệ trên là hình ảnh của Hội Thánh.
Hội Thánh hiệp nhất ngay giữa những khác biệt.
Sự hiệp nhất lại làm nổi bật bản sắc mỗi người.
Ðây không phải là một nhóm bạn khép kín,
nhưng là nhóm bạn được Chúa Phục Sinh sai ra khơi.
Chính sự hiện diện và lệnh truyền của Ngài
là bảo đảm cho thành công của những lần buông lưới.
Hội Thánh là một nhóm nhỏ được sai vào thế giới.
“Không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
Nhưng có Thầy, anh em sẽ được những mẻ cá lớn.
nhưng là nhóm bạn được Chúa Phục Sinh sai ra khơi.
Chính sự hiện diện và lệnh truyền của Ngài
là bảo đảm cho thành công của những lần buông lưới.
Hội Thánh là một nhóm nhỏ được sai vào thế giới.
“Không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
Nhưng có Thầy, anh em sẽ được những mẻ cá lớn.
Nhóm bạn được sai đi cũng là nhóm bạn được quy tụ,
được sai đi bởi Chúa và được quy tụ bên Chúa.
Chúa Phục Sinh trở thành người dọn bữa ăn sáng.
Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông.
Cử chỉ này gợi cho ta về những thánh lễ.
Chúng ta thường quên thánh lễ là một bữa ăn.
qua đó Chúa Phục Sinh nuôi ta bằng con người Ngài.
Chúng ta được mời dùng bữa trong niềm hân hoan vui sướng.
Hội Thánh truyền giáo phải được nuôi bằng Thánh Thể.
Hội Thánh vừa lan rộng khắp nơi, vừa tập trung nơi thánh lễ.
Ðó là nhịp thở đều đặn và cần thiết cho Hội Thánh.
được sai đi bởi Chúa và được quy tụ bên Chúa.
Chúa Phục Sinh trở thành người dọn bữa ăn sáng.
Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông.
Cử chỉ này gợi cho ta về những thánh lễ.
Chúng ta thường quên thánh lễ là một bữa ăn.
qua đó Chúa Phục Sinh nuôi ta bằng con người Ngài.
Chúng ta được mời dùng bữa trong niềm hân hoan vui sướng.
Hội Thánh truyền giáo phải được nuôi bằng Thánh Thể.
Hội Thánh vừa lan rộng khắp nơi, vừa tập trung nơi thánh lễ.
Ðó là nhịp thở đều đặn và cần thiết cho Hội Thánh.
Hội Thánh cũng là Hội Thánh được lãnh đạo bởi Simon
Phêrô.
Phêrô tưởng tự mình có thể theo Thầy và chết vì Thầy,
nhưng ông đã chối Thầy như lời Thầy tiên báo.
Ba lần chối được hàn gắn bởi ba lần tuyên xưng tình yêu:
“Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy”
Ba lần tuyên xưng tình yêu đi với ba lần giao sứ mạng:
“Hãy chăn dắt chiên của Thầy.”
Phêrô được chia sẻ sứ vụ mục tử của Thầy chí thánh,
cũng là chia sẻ thập giá của người hiến mạng vì đoàn chiên.
Hãy theo Thầy để đến nơi anh không muốn đến.
Có lẽ bây giờ Phêrô mới thật sự bước theo Thầy.
Phêrô tưởng tự mình có thể theo Thầy và chết vì Thầy,
nhưng ông đã chối Thầy như lời Thầy tiên báo.
Ba lần chối được hàn gắn bởi ba lần tuyên xưng tình yêu:
“Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy”
Ba lần tuyên xưng tình yêu đi với ba lần giao sứ mạng:
“Hãy chăn dắt chiên của Thầy.”
Phêrô được chia sẻ sứ vụ mục tử của Thầy chí thánh,
cũng là chia sẻ thập giá của người hiến mạng vì đoàn chiên.
Hãy theo Thầy để đến nơi anh không muốn đến.
Có lẽ bây giờ Phêrô mới thật sự bước theo Thầy.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chản nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không đươc gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
10
THÁNG TƯ
Được
Thánh Thần Làm Cho Can Đảm
Khi
các Tông Đồ và các môn đệ của Chúa nhận lãnh Thánh Thần, họ bắt đầu lên tiếng
nói công khai về Đức Kitô. Họ loan báo Tin Mừng cho người ta, bắt đầu từ
Giê-ru-sa-lem. Trong lời loan báo của họ, họ qui chiếu đến một bố cục các dữ kiện
mà ai cũng biết – đó chính là Kerygma, hay sứ điệp Tin Mừng căn bản.
“Anh
em đã nộp Người và đã chối bỏ Người trước mặt quan Phi-la-tô, dù quan ấy xét là
phải tha. Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho
một tên sát nhân” (Cv 3,13-14). Đó là những lời của Phê-rô nói với cư dân
Giê-ru-sa-lem.
Sau
khi đề cập đến cuộc thương khó của Đức Kitô, Phê-rô bắt đầu mô tả cuộc Phục
Sinh: “Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người
chỗi dậy từ cõi chết – về điều này, chúng tôi xin làm chứng” (c.15).
Phê-rô
là người duy nhất lên tiếng nói. Nhưng ông nói không chỉ nhân danh chính mình
mà là nhân danh toàn thể nhóm Tông Đồ. Ông nói với đám đông: “Chúng tôi là những
chứng nhân”. Và ông thêm: “Giờ đây, thưa anh em, tôi biết rằng anh em đã hành động
vì không hiểu biết – và những người lãnh đạo của anh em cũng vậy” (Cv 3,17).
Sau
khi mô tả các biến cố và đưa lời chứng về cuộc Phục Sinh, Phê-rô bắt đầu giải
thích một số điều trong Cựu Ước. Ông giải thích Đức Kitô trong tư cách là Đấng
Mê-si-a đã hoàn thành những điều nói trong các Sách Luật và các Sách Ngôn Sứ
như thế nào. Chính Đức Kitô đã chuẩn bị cho các môn đệ của Người đưa ra một sự
giải thích như thế về cái chết và cuộc Phục Sinh của Người. Chúng ta có chứng cứ
về điều này trong Tin Mừng Luca. Chúa Phục Sinh đã nói với các môn đệ: “Thầy đã
nói những lời này với các anh em khi hầy còn ở với anh em: mọi sự đã được viết
về Thầy trong luật Mô-sê, trong các ngôn sứ, và trong thánh vịnh đều phải được ứng
nghiệm” (Lc 24,44).
“Có lời
Kinh Thánh chép rằng Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết
sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ
Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng
nhân của những điều này” (Lc 24,46-48).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
10-4
Chúa
Nhật III Phục Sinh
Cv
5, 27b-32. 40-41; Kh 5,11-14 Ga 21, 1-19
Lời
suy niệm: “Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông
Simôn Phêrô: Này anh Simôn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này
không? Ông đáp: Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.”
Trong
Tin Mừng cho chúng ta thấy được Tông Đồ Phêrô. Thánh nhân có sự nhiệt tình, hy
sinh, vâng phục và nhận ra mình là người tội lỗi trước mặt Chúa Giêsu như là:
Chúa đã dùng thuyền của Phêrô mà giảng dạy dân chúng; Phêrô vâng lời Chúa ra chỗ
nước sau thả lưới, sau mẻ cá lớn, Phêrô quỳ trước mặt Chúa Giêsu xưng thú: “Lạy
Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” và vâng nghe Chúa bỏ thuyền lưới
đi theo Người. (x.Lc 5,1-11) Phêrô được ơn nhận ra Chúa Giêsu và đã tuyên xưng:
“Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8,29). Phêrô đã ngăn cản đường đi của Chúa Giêsu: “kéo
riêng Người ra và trách Người và bị Chúa trách: “Xa-tan! Lui lại đằng sau Thầy!
Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”
(Mc 8,33) Phêrô được chiêm ngắm vinh quang của Chúa trên núi Tabor: “Thưa Thầy,
chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một
cho ông Môsê và một cho ông Êlia” (Mc 9,5). Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu quở
trách cây vả: “Kìa Thầy xem; cây vả Thầy rủa đã chết khô rồi” (Mc 11,21) Phêrô
bộc trực trước sự tiên báo của Chúa Giêsu về cuộc Thương Khó và Phục Sinh của
Người: “Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không.”
(Mc14,29) Phêrô được Chúa cảnh báo: “Thầy bảo thật anh: hôm nay gà chưa kịp gáy
hai lần, thì chính anh đã chối Thầy ba lần” (Mc 14,30). Phêrô khiêm tốn: “Thưa
Thầy! Thầy mà rửa chân con sao; Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu
đâu!” (x.Ga 13,6-8). Phêrô Yếu đuối đã chối Chúa:”Tôi chẳng biết, chẳng hiểu cô
nói gì.” (Mc 14,68) “Tôi thề là không có biết người các ông nói đó.” (Mc 14,72)
Khi Chúa sống lại Chúa truyền cho các bà báo lại với Phêrô.(x. Mc 16,7) .Phêrô
được anh em tôn trọng: “Tôi đi đánh cá đây” các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với
anh.” (Ga 21,3) Và sau bữa ăn với Chúa Giêsu Phục Sinh ở Biển Hồ Tibêria Phêrô
đã ba lần đáp lại câu hỏi của Chúa Giêsu: “Con yêu mến Thầy; Thầy biết con yêu
mến Thầy; Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Và Chúa đã giao phó
chiên mẹ chiên con của Người cho Phêrô chăm sóc.(x.Ga 21,15-19)
Lạy
Chúa Giêsu. Chúa đã tin dùng Thánh Phêrô. Xin Chúa cho chúng con được trở thành
dụng cụ của Chúa nơi chúng con đang sống và đang làm việc.
Mạnh
Phương
10
Tháng Tư
Tấm Gương
Tại
một ngôi làng nhỏ ở ven biển Ái Nhĩ Lan, có một cặp vợ chồng ngư phủ nghèo,
nghèo đến độ trong nhà không có được một cái gương soi mặt.
Trong
làng chỉ vỏn vẹn có một cái quán nhỏ cung cấp lương thức và những gì cần thiết
cho việc đánh cá. Một ngày nọ, người chủquán ngạc nhiên vô cùng khi bắt gặp người
ngư phủ già cầm lấy một vật gì đó trong tay, vừa xoay xung quanh, vừa thổn thức.
Rồi từ đó, người chủ quán nhận thấy người đánh cá trở lại quán của mình thường
xuyên hơn và cũng lập lại ngần ấy động tác. Ráng theo rình rập để lắng nghe những
gì người ngư phủ già than thở, người chủ quán mới thấy ông già đưa cái gương
soi mặt và thều thào: "Ba ơi, ba ơi".
Thì
ra, cả đời người ngư phủ già chưa bao giờ nhìn thấy mặt mình trong gương. nhìn
thấy mặt mình trong gương lần đầu tiên, ông ta tưởng đó là cha của mình.
Người
chủ quán quá cảm động, đã tặng cho ông già tấm gương. lão hăm hở mang đi, và từ
đó, cứ mỗi lần rảnh rỗi, lão đưa tấm gương ra, nhìn vào và nói chuyện với cha
mình.
Tất cả
chúng ta đều sống cho một gương mặt. Và gương mặt duy nhất mà chúng ta không
bao giờ thấy đó là gương mặt của chính chúng ta. Chúng ta có thể hiểu biết tất
cả, nhìn thấy tất cả trừ gương mặt của chúng ta. Và ngay cả trong một tấm
gương, chúng ta chỉ nhìn thấy mình theo một hình ảnh đảo lộn. Chúng ta chỉ có
thể biết mình, chúng ta chỉ có thể khám phá được chính mình nhờ những người
khác vànhờ chính hình ảnh mà họ có thể cho chúng ta thấy.
Vậy
đâu là tấm gương đích thực để chúng ta có thể biết mình hoặc biết mình phải như
thế nào?
Chúng
ta đừng vội vã cười hai vợ chồng ngư phủ trong câu chuyện trên đây... Kể từ khi
Ngôi Hai nhập thể làm người, có lẽ họ là người có lý, bởi vì họ biết nhìn thấy
trong gương một cái gì khác hơn chính mình. Nói như Thánh Phaolô: "Phần
chúng ta, chúng ta không che mặt, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa, như
một tấm gương, vì chúng ta được thấy mình biến đổi nên giống hình ảnh ấy, mỗi
lúc một rực rỡ hơn, bởi vì quyền phép Thánh Linh của Chúa".
Mỗi
người Kitô phải là tấm gương phản chiếu chính hình ảnh của Ðức Kitô. Cuộc sống
của họ phải là một phản ảnh của cuộc sống Ðức Kitô.
(Lẽ
Sống)






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét