Trang

Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2016

10-04-2016 : (phần II) CHÚA NHẬT III PHỤC SINH năm C

10/04/2016
Chúa Nhật tuần 3 Phục Sinh năm C
(phần II)

Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật III Phục Sinh - Năm C
CHÚA NHẬT III PHỤC SINH NĂM C
(Cv 5,27b-32.40b-41; Kh 5,11-14; Ga 21,1-19)
CHỨNG NHÂN TÌNH YÊU
“Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng,
lòng hân hoan bởi được coi
là xứng đáng chịu khổ nhục 

vì danh Đức Giêsu”

(Cv 5,41)
Biến cố Đức Giêsu Phục sinh đã làm thay đổi cuộc sống của các Tông Đồ. Nếu trước kia các vị hời hợt và run sợ thì nay lại nhiệt tình và mạnh dạn loan truyền những gì đã lãnh hội từ Đức Giêsu. Ngay cả bắt bớ, tù đày, cái chết cũng không thể lay chuyển niềm tin và làm lung lạc sứ vụ của các Tông Đồ. Giờ đây họ là những chứng nhân cho tình yêu của Đức Giêsu và cho niềm hy vọng phục sinh.
I. LỜI CHÚA
1. BÀI ĐỌC I (Cv 5,27b-32.40b-41)
Cộng đoàn Kitô giáo tiên khởi đang bị bách hại. Tông Đồ cả Phêrô và các Tông Đồ bị bắt và bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng, bởi vì các ông rao giảng và dấn thân làm chứng về Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã chết mà nay đã sống lại. Vì có nhiều người tin theo, nên các vị thượng tế ngăn cấm: “Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giêrusalem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi”. Dù vậy, các Tông Đồ đã không tỏ chút sợ hãi gì trước những lời cấm đoán và bắt bớ. Ngược lại các ông càng mạnh dạn làm chứng về Đức Giêsu Kitô: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy...Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người”. Không ai có thể bắt các Tông Đồ im lặng trước biến cố phục sinh vinh hiển của Đức Giêsu, Đấng mà chính họ đã cùng ở với, cùng chia sẻ cuộc sống, và họ đã gặp lại Người sau phục sinh. Các Tông Đồ đã biểu lộ niềm tin và tình yêu dành cho Đức Giêsu bằng việc vui vẻ chấp nhận mọi đau khổ vì Người: “Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu”.
2. BÀI ĐỌC II (Kh 5,11-14)
Bài đọc trích sách Khải Huyền hôm nay nói về Con Chiên Vô Tì Tích là chính Chúa Giêsu Kitô. Cần lưu ý: trong Kinh Thánh, danh từ “cừu/ πρόβατον” (sheep) được sử dụng để ám chỉ “các tín hữu” nói chung (vd: Tv 78,52; 79,13; Ga 10,11.15; 21,16.17); còn danh từ “chiên/ ἀρνίον” (lamb) chỉ một lần được áp dụng cho các Kitô hữu (Ga 21,15), còn tất cả 28 lần còn lại được tìm thấy trong sách Khải Huyền là tước hiệu ám chỉ về Đức Giêsu Kitô (và thêm một lần ở Kh 13,11: Con Thú,…có hai sừng giống như một con chiên).
Đức Giêsu là Con Chiên đã chấp nhận trở nên của lễ dâng lên cho Thiên Chúa qua việc hiến dâng cả mạng sống để cứu chuộc nhân loại. Sau đó, Người đã sống lại hiển vinh và xứng đáng lãnh nhận mọi uy quyền, vinh quang trên toàn thể vũ trụ. “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc”.
Việc đám đông thuộc mọi thành phần tung hô, cùng với bốn Sinh Vật thưa “Amen” và các Kỳ Mục phủ phục xuống thờ lạy Con Chiên là Đức Giêsu gợi lên sự liên tưởng đến việc tôn kính dành cho các hoàng đế Rôma thời đó. Lúc này, đám đông dâng những lời và thực hiện hành vi tôn kính này lên Thiên Chúa và Con Chiên thay cho các hoàng đế Rôma phản ánh viễn tượng của Gioan về cuộc xung đột giữa quyền lực của Thiên Chúa với quyền lực của Xêda, là thế lực đang bách hại Kitô giáo. Cuối cùng, vương quyền của Thiên Chúa sẽ chiến thắng qua cuộc phục sinh và tôn vinh của Đức Giêsu. Tất cả vũ trụ đều ca ngợi Đức Giêsu, vì chính hiến tế của Đức Giêsu trên thập giá đã thay đổi tình trạng của con người và vũ trụ, khi Người giải thoát con người và thế giới khỏi quyền lực của ma quỷ, tội lỗi và thế lực sự dữ.
3. BÀI TIN MỪNG (Ga 21,1-19)
Bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay nói về việc Đức Giêsu Phục sinh tỏ mình ra với các Tông Đồ trong hoàn cảnh sinh hoạt thường ngày của họ. Các ông đi đánh cá suốt đêm ở hồ Galilê, nhưng chẳng bắt được gì. Khi trời hừng sáng, Đức Giêsu đứng trên bờ biển, nhưng các Tông Đồ không nhận ra Người. Đức Giêsu ra lệnh cho các ông thả lưới và họ đã có một mẻ cá đầy. Đây là dấu lạ đầu tiên để tỏ lộ quyền năng và vinh quang của Đức Giêsu kể từ  khi Người sống lại. Thiên Chúa cũng tỏ lộ vinh quang của Người trong điều kiện và hoàn cảnh bình thường của đời sống thường ngày của chúng ta. Vấn đề quan trọng là chúng ta hãy biết mau mắn lắng nghe lệnh truyền của Thiên Chúa, có đọc được dấu lạ để nhận ra Đức Giêsu Kitô phục sinh đang hiện diện bên chúng ta trong cuộc sống hằng ngày hay không.
Có một điểm đặc biệt trong đoạn Tin Mừng hôm nay, đó là trong lúc Đức Giêsu đang dùng bữa với các Tông Đồ, Người đã hỏi Phêrô ba lần: “Này Simôn, con Gioan, anh có yêu mến Thầy không?”. Và sau khi Phêrô đáp trả rằng ông yêu mến Người, Đức Giêsu trao sứ vụ chăn dắt đàn chiên cho Phêrô. Điều mà Đức Giêsu mong đợi nơi các Tông Đồ đó là tình yêu dành cho Người. Nếu có tình yêu này thì các Tông Đồ mới xứng đáng lãnh nhận sứ vụ coi sóc đàn chiên, và chỉ nhờ tình yêu thì các ông mới vượt qua được các khó khăn thử thách mà chu toàn sứ vụ. Không thể nào chăn dắt đàn chiên bằng quyền lực, nhưng chỉ có tình yêu mới thúc đẩy các tông đồ dấn thân phục vụ đoàn chiên.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu. Các Tông Đồ đã xem những đau khổ họ chịu vì danh Đức Giêsu là niềm vinh dự lớn lao, nên họ đã xác tín và dấn thân cho việc rao giảng về Đức Giêsu phục sinh. Tôi có can đảm và hăng say loan báo Đức Giêsu cho người khác? Đời sống của tôi có là lời chứng tá về Đức Giêsu Phục sinh? Trong cuộc sống thường nhật, giữa bao cám dỗ của tiền tài và danh vọng, giữa bao áp lực của xã hội và người đời, tôi có dám sống theo các đòi hỏi của Tin Mừng, tôi có dám vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm?
2. Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc”. Đức Giêsu lãnh nhận tất cả mọi vinh quang và danh dự, do hiến tế của Người trên thập giá vì yêu chúng ta. Tôi có yêu mến và cảm nghiệm tình yêu của Đức Giêsu? Tôi có biết kết hiệp những vui buồn của đời sống tôi với những đau khổ của Đức Giêsu để được hưởng vinh quang với Người? Tôi có tôn kính Đức Giêsu, Con Chiên đã bị giết vì tôi, hơn mọi quyền lực của thế gian?
3. Này Simôn, con Gioan, anh có yêu mến Thầy không? Đây cũng là câu hỏi mà Đức Giêsu dành cho tôi: Con có yêu mến Thầy không? Tôi phải thể hiện lòng yêu mến Đức Giêsu như thế nào trong đời sống? Đức Giêsu luôn yêu thương tôi và trên thập giá, Người đã thốt lên: “Ta khát”. Tôi có nhận ra Người vẫn khát khao tình yêu của tôi đối với Người và đối với anh chị em xung quanh? Trong Năm thánh của Lòng Thương Xót, tâm hồn tôi có động lòng trắc ẩn trước những nổi khổ đau của người bất hạnh, trái tim tôi có rung cảm để thúc đẩy đôi tay hành động một điều gì đó cụ thể trước những khó khăn của người nghèo đang sống quanh tôi?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Đức Kitô phục sinh luôn hiện diện và nâng đỡ con người trên hành trình đức tin. Không có Chúa chúng ta không thể làm được gì, ngay cả làm chứng cho Người. Tin tưởng vào tình thương và sự trợ giúp hữu hiệu của Chúa, cộng đoàn chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Chúa Giêsu nói với thánh Phêrô: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, các Giám mục và các Linh mục là những người được Chúa trao trọng trách chăm sóc đoàn chiên Chúa: Xin cho các ngài được hồn an xác mạnh, luôn vững tay lèo lái con thuyền Hội Thánh giữa những phong ba thử thách.
2. “Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo tại nhiều nơi trên thế giới đang gặp khó khăn và bách hại: Xin Chúa luôn nâng đỡ các nhà truyền giáo để họ thêm tin tưởng và trung thành trong sứ vụ, không ngừng trở nên công cụ tích cực và hữu hiệu của Chúa Thánh Thần.
3. Các Tông Ðồ ngày xưa đã hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Ðức Giêsu. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi Kitô hữu đang gặp khó khăn thử thách trong đời sống đức tin: Xin cho họ tìm được nguồn an ủi nơi Chúa Kitô phục sinh, luôn giữ vững đức tin, và biết sẵn lòng đón nhận khổ cực vì Danh Chúa.
4. Thánh Phêrô thưa với Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta ngày càng thêm lòng yêu mến Chúa, biết tuyên xưng và sống niềm tin vào Đấng Phục Sinh qua thái độ khiêm tốn yêu thương và chân thành phục vụ đối với mọi người chung quanh.
Chủ tế: Lạy Chúa Kitô, Đấng Phục Sinh vinh hiển, Chúa biết rõ chúng con tội lỗi và yếu đuối. Xin Chúa thương nghe lời chúng con cầu nguyện và ban ơn nâng đỡ, giúp chúng con luôn hăng hái và can đảm làm chứng cho Chúa giữa thế giới hôm nay. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.


"Khi trời đã sáng, Chúa Giêsu đứng trên bãi biển"
(Ga 21,7)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ trên Biển Hồ. Chúa chỉ cho các môn đệ bắt được nhiều cá, Chúa còn nướng cá và bánh cho các ông ăn. Khung cảnh thật ấm cúng.
Khung cảnh Thánh lễ cũng ấm cúng như vậy : chúng ta đang ngồi quanh bàn tiệc của Chúa. Chính Chúa dọn tiệc cho chúng ta và đang ở giữa chúng ta.
Xin cho bữa tiệc thánh này giúp chúng ta tin Chúa vững vàng hơn và yêu mến Ngài nồng nàn hơn.
II. Gợi ý sám hối
- Rất nhiều lần chúng ta dự Thánh lễ mà không ý thức sự hiện diện thân mật gần gũi của Chúa.
- Rất nhiều lần chúng ta rước lễ mà không ý thức mình đang hưởng dùng lương thực do chính Chúa dọn cho chúng ta.
- Rất nhiều lần chúng ta họp nhau trong Thánh lễ mà không chút tâm tình liên kết với những anh chị em cùng dự tiệc thánh với mình.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Cv 5,27b-32.40b-41)
Trích đoạn này từ sách Công vụ nhấn mạnh đến Danh Chúa Giêsu phục sinh :
- Vì rao giảng Danh Chúa Giêsu nên các tông đồ bị Thượng Hội Đồng do thái bắt.
- Dù vậy, ngay giữa Thượng Hội Đồng, các ông lại rao giảng Danh Chúa Giêsu.
- Sau khi được thả ra, các ông sung sướng vì đã có dịp chịu khổ vì Danh Chúa Giêsu, và tiếp tục rao giảng Danh Ngài.
2. Tin Mừng (Ga 21,1-9)
Phần cuối của Tin Mừng Gioan (có lẽ không do Gioan viết, mà do các đồ đệ của Gioan), tường thuật cuộc hiện ra cho các tông đồ trên biển hồ Tibêria :
- Theo gợi ý của Phêrô, người số tông đồ khác trở lại nghề cũ là đi đánh cá.
- Khi đó xảy ra lại một tình huống giống y lần đầu tiên Phêrô gặp Chúa Giêsu và được Ngài gọi : các ông không đánh được cá, nhưng nhờ Chúa Giêsu nên sau đó đánh được rất nhiều cá (x. Lc 5,4-11)
- Các tông đồ nhận ra Chúa Giêsu : đầu tiên là Gioan, kế đến là các ông khác.
- Bữa ăn thân mật bên bờ hồ sau khi Thầy trò nhận ra nhau.
3. Bài đọc II (Kh 5,11-14)
Trong một thị kiến, Thánh Gioan nhìn thấy Chúa Giêsu trong hình dáng của Con Chiên :
- Con Chiên đã bị giết, nhưng đã sống lại và xứng đáng được hưởng mọi quyền lực và vinh quang.
- Tất cả các thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất và ngoài biển khơi đều tôn thờ và tung hô Con Chiên.
IV. Gợi ý giảng
1. Sức khám phá của tình yêu
Một giọt nước nếu nhìn bằng mắt thường thì cũng chỉ là một giọt nước, nhưng nếu nhìn bằng kính hiển vi thì lại là cả một thế giới sống động. Một cái hồ nếu được nhìn bởi một người nông dân thì cũng chỉ là một cái hồ, nhưng dưới mắt của một nghệ sĩ thì lại là cả một cảnh đẹp thiên nhiên tuyệt vời không thể nào tả xiết.
Như thế nghĩa là gì ? Nghĩa là cùng một sự việc nhưng có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau tùy những cách nhìn khác nhau. Sự việc đã xảy ra trên hồ Tibêria cũng thế : lúc ấy trời còn tờ mờ tối, Chúa Giêsu phục sinh hiện đến với các tông đồ đang lúc các ông thả lưới đánh cá. Các ông tưởng là ma nên run sợ và định chạy trốn. Riêng có Gioan là nhận ngay ra ấy là Thầy. Do đâu mà Gioan đã nhận định sắc sảo được như thế ? Thưa vì Gioan là tông đồ yêu mến Chúa nhiều nhất. Chính Tình yêu đã mở mắt cho Gioan và giúp Gioan thấy được cái mà người khác không thấy. Người ta nói rằng Tình yêu là một năng lực diệu kỳ, làm cho người ta mạnh thêm, có thêm nhiều nghị lực để vượt qua những chướng ngại, chịu đựng những hy sinh và cuộc sống thêm lạc quan.
Điều này thật ra rất bình thường chẳng có gì khó hiểu. Chúng ta thử điểm lại một số kinh nghiệm trong cuộc sống của mình xem. Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau ? thích chở nhau đi chơi ? thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau ? Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại ! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngu ! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ ! Phải không ? Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác : Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một sự sung sướng, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha ! Cho nên Thánh Augustinô đã nói rất đúng : "Ubi amatur, non laboratur" : khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc.
Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì đương nhiên ta thích cầu nguyện, thì đương nhiên ta ham đến nhà thờ, đương nhiên ta sẵn sàng vác những thánh giá hy sinh Chúa gởi đến hàng ngày. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực, yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.
2. Thủ lãnh giáo hội
Câu chuyện truyền kỳ về những ngày sau cùng của một con người đã hết lòng yêu mến Chúa, và đã cảm nghiệm sâu xa ơn thứ tha của Người, được kể lại như sau :
Ông đến Rôma giữa lúc Nêrông đang bắt bớ đạo thánh. Một số người đã chịu tử đạo. Tình thế nguy kịch, nên các tín hữu khuyên ông hãy chạy trốn ra khỏi thành, để còn người duy trì và giữ vững đạo thánh.
Khi ra khỏi cổng, ông gặp một người đang vác thập giá đi vào thành Rôma. Ông lên tiếng hỏi :"Quo vadis ?" nghĩa là "Người đi đâu đó ?" Người ấy trả lời : "Thầy đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa". Ông chợt hiểu, vội vàng quay lại Rôma. Ông nhập vào hàng ngũ các tín hữu sắp chịu cực hình để an ủi họ và giúp họ giữ vững niềm tin. Sau khi chứng kiến các tín hữu bị làm mồi cho thú dữ ăn thịt, bị hoả thiêu trên một rừng thập giá, thì chính ông cũng bị đóng đinh ngược, đầu quay xuống đất, theo lời ông xin, vì nghĩ mình không xứng đáng được đóng đinh như Thầy.
Con người ấy chính là Phêrô, và cái chết ấy đã được Chúa Giêsu tiên báo trong bài Tin Mừng hôm nay : "Thầy bảo thật cho anh biết : lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giương tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa" (Ga 21,18-19).
Vâng, Phêrô một con người rất bộc trực, nóng nảy, hay sa ngã và sa ngã thậm tệ. Có lần Chúa đã gọi ông là Satan, và mới đây nhất, ông đã chối Chúa tới ba lần. Nhưng con người đầy khuyết điểm ấy Chúa đã chọn làm "Đá tảng", thủ lãnh của Giáo Hội. Vai trò lãnh đạo của Phêrô được tỏ rõ trong bài Tin Mừng hôm nay :
Sau biến cố Phục Sinh, các tông đồ trở về đời sống thuyền chài. Phêrô vẫn là người quyết định :"Tôi đi đánh cá đây". Các môn đệ khác cũng đồng tình : "Chúng tôi cùng đi với anh". Đêm ấy, không bắt được con cá nào. Trời sáng, theo lời người khách lạ, thả lưới bên phải mạn thuyền, một mẻ cá bất ngờ. Khi vừa nghe Gioan nói : "Chúa đó !" Phêrô liền nhảy xuống biển, đến với Người. Ông rất nồng nhiệt, năng nổ, hăng hái.
Sau khi Thầy trò đã ăn điểm tâm xong, Người bắt đầu phỏng vấn thủ lãnh Phêrô để trao cho ông sứ vụ mới : "Này anh Simon, con ông Giona, anh có mến Thầy hơn các anh em nầy không ?".Thật tình, ông rất ngượng ngùng vì ông mới chối Thầy tới ba lần, mà giờ đây Người lại hỏi ông có yêu mến Thầy không ? Mới phản bội mà giờ lại nói yêu thương, quả là rất khó khăn ; hơn nữa, Người lại hỏi tới ba lần ! Có lẽ Phêrô đang nhớ lại lời Chúa nói trước đây : "Kẻ nào được tha nhiều thì sẽ yêu nhiều hơn" (x. Lc 7,47). Vâng, Chúa đã tha thứ cho Phêrô ngay lúc Người quay xuống nhìn Ông từ trên dinh thượng tế, khiến nước mắt ông tuôn trào.
Ba lần chối Chúa thì ba lần Người cho ông cơ hội để nói lời yêu thương, để tuyên xưng lại niềm tin. Ông đã không bỏ lỡ cơ hội : "Thưa Thầy có, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy". Và cũng ba lần, Người trao cho ông sứ mạng cai quản Hội thánh của Người : "Hãy chăn dắt chiên của Thầy" (Ga 21,17).
Từ đấy, Phêrô đích thực trở nên thủ lãnh của Giáo hội, chăm sóc đoàn chiên của Thầy, và cuối cùng đã hiến mạng sống vì đoàn chiên. Phêrô đã chịu đóng đinh trên thập giá, để giữ vững niềm tin cho đoàn chiên, và để yêu thương đoàn chiên cho đến cùng, yêu "Như Thầy Đã Yêu".
*
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tha thứ cho thánh Phêrô thật nhiều, và thánh nhân cũng đã yêu mến Người thiết tha.
Xin cho chúng con luôn cảm nghiệm được ơn tha thứ của Chúa, cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương, để như thánh Phêrô, chúng con sẽ đi bất cứ nơi nào Chúa muốn đưa chúng con đi, cho dù nơi đó là thập giá, là cái chết thương đau.
Như thánh Phêrô, xin cho chúng con xác tín rằng : Hiến thân vì Chúa là lãnh nhận, nô lệ cho Chúa là tự do, và chết với Chúa là sống mãi muôn đời Amen. (TP)
3. Tình yêu và lý luận
Bài Tin Mừng tuần trước thuật lại cách mà Tôma đã nhận ra Chúa Giêsu phục sinh : Tôma đã tuyên bố "nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở bàn tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin". Đây là kiểu tin bằng lý luận, nghĩa là chỉ tin khi nào đã có đủ bằng cứng rõ ràng hiển nhiên. Còn bài Tin Mừng tuần này thuật lại cách mà Gioan đã nhận ra Chúa : một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan là tức khắc nhận ra đó là Thầy mình. và Tin Mừng ghi chú "Gioan là người môn đệ Chúa yêu". Chính Tình Yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra.
Như thế có hai con đường dẫn tới đức tin : Con đường thứ nhất là bằng lý luận để chỉ tin sau khi có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên ; và con đường thứ hai là bằng tình yêu, nghĩa là vì yêu thương nên tin ngay không cần thắc mắc lý luận.
Trong vở tuồng "Tiếng hò Sông Hậu" có hai anh em sinh đôi tên Chơn và Chất, giống hệt nhau từ nét mặt, tướng đi đến giọng nói. Trong một cuộc tranh đấu với địa chủ, Chơn bị bắt đày đi Côn Đảo. Nhưng một thời gian sau anh vượt ngục trở về thăm mẹ già khi ấy đã mù lòa cả hai mắt. Trong lúc Chơn đang ở nhà thì tên Hương Quản đến, Chơn nhanh trí giả làm Chất nên không bị lộ, nhưng ngay sau khi tên Hương Quản đi thì bà mẹ mù lòa ấy nói ngay : "Phải mày là thằng Chơn đó không ?" Chơn chưa muốn cho mẹ biết nên trả lời "Không, con là thằng Chất đây mà, anh Chơn con còn đang ngồi tù mà". Nhưng bà mẹ nói "thôi mà, con gạt ai được chứ gạt mẹ làm sao được, con chính là thằng Chơn của mẹ mà". Chính tình yêu đã giúp cho người mẹ mù lòa ấy nhận ra con mình trong khi mọi người đều không nhận ra. Trường hợp của Thánh Gioan cũng vậy : trong khi mọi người đều không nhận ra Chúa Giê-su thì chỉ mình Gioan đã nhận ra, vì Gioan yêu thương Chúa nhiều.
Có lẽ vì thường nghe những luận điệu bôi bác niềm tin tôn giáo cho nên chúng ta bị ảnh hưởng và cũng nghĩ rằng chỉ có con đường nhận thức bằng lý luận, với những bằng chứng rõ ràng hiển nhiên là con đường độc nhất đúng. Nhưng chúng ta hãy bình tĩnh suy nghĩ lại xem, trong cuộc sống có bao nhiêu điều chúng ta tin tưởng mà đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên đâu ? Rất ít, hầu hết những điều ta tin tưởng là do người khác dạy lại, nói lại cho ta biết, và vì yêu thương những người đó mà ta tin. Chẳng hạn những gì cha mẹ dạy ta khi ta còn nhỏ, những gì thầy cô dạy ta khi ta còn học ở trường. Vốn liếng kiến thức của chúng ta hầu hết là từ hai nguồn đó. Nhưng xét xem những điều ấy ta có được thấy tận mắt, sờ tận tay hay không, hay là khi được dạy thì ta tin ngay, vì ta yêu thương cha mẹ, yêu thương thầy cô mà tin vào lời nói của các đấng ấy. Cho nên xét cho cùng, chỉ trích những người có đạo đã tin không có đủ bằng chứng mà chỉ vì yêu thương mà tin thì là lời chỉ trích không đứng vững. Tác giả vở tuồng "Tiếng hò Sông Hậu" nói trên cũng đâu phải là người có đạo, thế mà tác giả đã đề cao cách nhận thức rất cảm động của một người mẹ nhận ngay ra con mình nhờ vào tình mẫu tử thiêng liêng. Nghĩa là : ai cũng vậy, dù có đạo hay không có đạo, ai cũng có những nhận thức, những niềm tin không hẳn dựa vào những lý luận hiển nhiên mà chỉ dựa vào tình yêu.
Mà xem ra con đường tình yêu lại nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn. Khi các Tông đồ nói cho Tôma hay là Chúa Giê-su đã sống lại, Tôma đã không tin ngay, ông đòi phải thấy tận mắt, sờ tận tay, thậm chí còn đòi thọc cả bàn tay vào vết thương cạnh sườn Chúa. và rồi đang khi các Tông đồ kia vui mừng vì Thầy đã sống lại thì Tôma vẫn còn hoài nghi, ray rứt. Đến 8 ngày sau khi Chúa Giê-su hiện đến một lần nữa thì Tôma mới tin và mới được vui mừng như các ông kia. Còn đối với Gioan, vì yêu Chúa nhiều, nên chỉ vừa thấy bóng dáng lờ mờ của Chúa là Gioan đã nhận ra ngay và đã tin, một niềm tin rất nhanh chóng, rất nhẹ nhàng mà cũng không kém phần vững chắc.
Các bạn trẻ còn ở lứa tuổi hay thắc mắc về đức tin và cũng dễ bị lung lạc bởi những luận điệu bài bác đức tin. Hôm nay, chúng ta đã thấy có hai con đường dẫn tới đức tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy cũng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó. Nghĩa là một mặt chúng ta phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt rộng thêm để nhận biết thêm được những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết được, như thánh Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay vậy !
4. Sự hiện diện của Đấng phục sinh
Các bài tường thuật về việc Chúa Giêsu phục sinh hiện ra muốn giúp cho chúng ta hiểu biết về cách thức hiện diện của Ngài :
- Chúa đã hiện ra lúc các môn đệ đang làm công việc thường ngày là chài lưới à Người không ở đâu xa nhưng vẫn hiện diện bên cạnh chúng ta và trong những công việc bình thường của chúng ta.
- Người đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu là Gioan, vị tông đồ yêu mến Chúa đặc biệt à Tuy Chúa Giêsu luôn hiện diện bên cạnh chúng ta, nhưng thường thì chúng ta không nhận ra Ngài. Muốn nhận ra Ngài thì cần có lòng yêu mến, như Thánh Gioan tông đồ.
- Chúa Giêsu đã nướng cá và bánh cho các môn đệ và sau đó cùng ngồi với họ quanh bếp lửa hồng để ăn bánh và cá nướng à Chúa Giêsu phục sinh không chỉ hiện diện bên cạnh chúng ta, mà còn chăm sóc chúng ta.
- Mặc dù Thánh Phêrô đã 3 lần chối Chúa, nhưng Chúa tha thứ cho ông và vẫn trao cho ông nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên của Ngài à Chúa hiện diện bên cạnh chúng ta không phải để bắt lỗi chúng ta, mà để trao cho chúng ta sứ mạng làm chứng về Ngài.
5. Đừng xóa sổ người ta
Một nhà độc tài kia không chấp nhận thuộc cấp của mình phạm sai lầm. Hễ lỡ phạm sai lầm, dù chỉ một lần, thì lập tức bị "xóa sổ". Đôi khi chúng ta cũng cư xử như thế, nghĩa là xoá sổ người khác. Thế nhưng ai trong chúng ta lại muốn bị phán xét chỉ vì một lần lầm lỡ trong đời ?
Sau khi Phêrô chối Thầy, lẽ ra Chúa Giêsu có thể xóa sổ ông vì tội yếu đuối, hèn nhát. Nhưng Ngài đã không làm như vậy. Ngài không giáng cấp ông. Thậm chí Ngài còn không nhắc lại lỗi lầm của ông. Việc Giuđa phản Thầy là một việc có dự mưu và được thi hành một cách lạnh lùng theo đúng tính toán. Còn việc Phêrô chối Thầy không phải là có dự mưu. Nó là hậu quả của tính yếu đuối chứ không phải do tính xấu. Chúa Giêsu hiểu điều đó, bởi Ngài là kẻ thấu suốt lòng mọi người.
Sau bữa ăn sáng, Chúa Giêsu quay nhìn Phêrô và hỏi : "Phêrô, con có mến Thầy hơn những người khác không ?" Một câu hỏi lạ. Phải chăng Ngài còn chưa biết rằng ông rất yêu mến Ngài ? Dù vậy Chúa Giêsu vẫn hỏi. Và Phêrô thưa : "Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy". Phêrô đã nói thật, vì thực sự ông rất yêu mến Chúa Giêsu.
Mặc dù Phêrô có lỗi, nhưng Chúa Giêsu biết nơi ông cũng còn một phương diện khác, tốt hơn. Mạnh mẽ và yếu đuối cùng tồn tại trong cùng một con người. Chúa Giêsu khuyến khích Phêrô tiến lên. Ngài muốn ông bày tỏ công khai lòng yêu mến của ông đối với Ngài, bởi vì trước đó ông đã công khai chối Ngài.
Chúa Giêsu không ghi sổ tội của Phêrô, nhưng Ngài muốn ông làm một cái gì đó vì Ngài : chăm sóc đàn chiên của Ngài, nghĩa là yêu thương và phục vụ anh chị em trong cộng đoàn. Có thể coi đây là việc đền tội cũng được, vì đây là cách đền tội tốt nhất, như sau này Phêrô viết : "Tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi" (1 Pr 4,8).
Tôi dám chắc rằng Phêrô không bao giờ quên tội ông đã chối Thầy. Nhưng tôi không chắc rằng tội đó ám ảnh ông như cách nhiều người khác bị tội lỗi họ ám ảnh. Từ lần sa ngã ấy Phêrô đã học được một bài học lớn. Ông đã biết rằng ông không mạnh mẽ như ông nghĩ. Học được một điều gì từ kinh nghiệm thì tốt hơn rất nhiều so với học bằng lý thuyết. Điều chúng ta học được từ một lần sa ngã, mỗi khi nhớ lại sẽ khơi lên trong lòng chúng ta sự biết ơn hơn là sự dằn vật cắn rứt.
Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Ngài đã mang ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình thì là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là sửng sốt. Chính đó là ân sủng.
Phêrô có cơ sở để đứng dậy sau khi sa ngã. Chúng ta có thể hình dung rằng Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác. Đọc sách Công vụ Tông đồ, chúng ta thấy Phêrô đứng vững trước Thượng Hội Đồng để làm chứng cho Chúa Giêsu.
Chuyện của Phêrô là một an ủi lớn cho chúng ta. Xét cho cùng, chúng ta đều là những người tội lỗi, không kiên trì sống theo những điều chúng ta tin tưởng. Nhìn gương thánh Phêrô, chúng ta phải học biết tha thứ cho chính mình vì những yếu đuối và sa ngã nhất thời. Chúng ta không nên xét đoán bản thân mình hay xét đoán người khác dựa trên những sa ngã nhất thời ấy, mà phải xét đoán dựa trên cam kết sống suốt đời theo những điều mình tin tưởng. (FM)
6. Ơn gọi thứ hai
Ngày xưa có một người làm nghề đốt lửa. Một buổi chiều mùa đông khi anh đang trên đường về nhà thì trời đổ tuyết. Muốn tới nhà sớm, anh đi tắt qua một cánh đồng. Bỗng anh thấy một nhúm lửa, một nhúm lửa nhỏ thôi, chỉ cháy âm ỉ nhờ một vài que củi nhỏ. Quanh nhúm lửa ấy có một nhóm người vừa run lập cập vừa cố đứng sát nhúm lửa ấy để sưởi ấm. Nhưng nào có thấm tháp vào đâu. Anh dừng lại, nói vài lời ngắn ngủi với họ về giá trị của lửa, rồi vội vã đi tiếp.
Nhưng mới đi được một chút thì anh cảm thấy hối hận. Lẽ ra anh phải nán lại lâu hơn để giúp đám người ấy khơi to ngọn lửa. Nhưng mà nếu làm thế thì phải mất thêm giờ, có thể bị viêm phổi nữa. Vả lại chắc gì người ta sẽ biết ơn anh. Những suy nghĩ trái ngược nhau ấy khiến anh chần chừ. Nhưng sau cùng anh quay lại. Vừa thấy anh, mọi người đều vui mừng reo lên : "Tới đây, tới đây". Không chờ mời lần thứ hai, người thợ đốt lửa ngồi xuống và khơi ngọn lửa to lên. Thế là mọi người đều được sưởi ấm. Ai nấy đều đồng thanh "Xin cám ơn anh đã dừng lại giúp chúng tôi".
Về đến nhà, người thợ nhóm lửa lên giường ngủ ngay. Đêm đó anh mơ thấy Chúa hiện ra nói : "Ta đã chọn con làm người thợ nhóm lửa, nhưng con đã làm Ta thất vọng". Anh giật mình thức dậy và không tài nào ngủ tiếp. Anh nhớ lại thời gian đầu làm nghề nhóm lửa anh đã coi việc đem lửa sưởi ấm cho mọi người là một nhiệm vụ cao đẹp thế nào ; khi đó anh đã nhiệt tình giúp đỡ mọi người thế nào. Vậy mà với năm tháng dần trôi, anh trở nên lười biếng, tính toán, sợ mất giờ, sợ người ta không biết ơn anh. Tình yêu của anh đối với lửa đã lạnh nhạt. Ơn gọi của anh đã đông cứng.
Nhưng đêm nay Chúa đã hiện ra với anh. Ngài đã gọi anh lần thứ hai. Từ đó trở đi người thợ nhóm lửa hăng say trong nhiệm vụ, không sợ mất giờ, không ngại cực khổ nữa.
Trong Tin Mừng, có hai lần Chúa gọi Phêrô. Lần thứ nhất là lúc Chúa Giêsu mới bắt đầu sứ vụ (Mc 1,16-18). Lần thứ hai là sau khi Ngài sống lại, và được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay. Hai lần cách nhau 3 năm. Trong 3 năm ấy, nhiều sự việc đã xảy ra, Phêrô đã khám phá thêm nhiều điều về Đấng đã kêu gọi mình, về nhiệm vụ mà Ngài muốn ông làm, và nhất là về chính bản thân của ông. Khi Chúa gọi Phêrô lần thứ hai, ông đã khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn. Vì thế, tiếng "Vâng" thứ hai của ông chín chắn và sáng suốt hơn nhiều so với tiếng "vâng" lần thứ nhất.
Câu chuyện của Phêrô là chuyện kêu gọi – sa ngã – và kêu gọi lại. Ơn gọi không phải là một lần Chúa gọi, một lần con người đáp trả, rồi xong. Tiếng Chúa gọi phải được ta nghe nhiều lần và đáp trả nhiều lần. Mỗi ngày Chúa mở ra một đoạn đường mời ta tiến bước, ngày hôm sau Chúa mở thêm một đoạn khác nữa. Ta càng bước theo, tiếng gọi của Ngài càng rõ hơn và lời đáp trả của ta càng sâu xa hơn và xác tín hơn.
Mọi ơn gọi đều là ơn gọi yêu thương : yêu thương Chúa, và yêu thương những chiên con chiên mẹ của Ngài, tức là yêu thương các anh chị em trong cộng đoàn của ta. (FM)
7. Chịu khổ vì Chúa
Bài trích sách Công vụ kể chuyện các tông đồ gặp sự chống đối của các nhà cầm quyền do thái. Nhưng khi các ông được thả ra, thì uy tín của các ông tăng thêm, đặc biệt là Phêrô. Thật khó mà tin được rằng cùng một con người ấy chỉ trước đó không bao lâu đã từng chối Chúa 3 lần. Bây giờ ông đứng giữa quãng trường mạnh dạn lớn tiếng làm chứng cho Chúa. Hơn nữa ông còn chịu khổ vì đã làm chứng như thế. Phêrô cùng các bạn đã bị nhốt vào tù, bị đánh đòn. Nhưng các ông lại hãnh diện vì đã chịu khổ vì Chúa. Bởi đâu Phêrô có lại sự can đảm như thế ? Thưa bởi Chúa Thánh Thần, Đấng phù trợ các tông đồ.
Từ thời các tông đồ trở đi, vẫn luôn có nhiều kitô hữu, nhờ ơn Chúa giúp, đã vượt thắng sự sợ hãi để luôn can đảm làm chứng cho Chúa dù giữa muôn vàn khó khăn.
Rất dễ tin Chúa khi bạn quỳ gối nhắm mắt cầu nguyện trong nhà thờ. Rất dễ tin Chúa khi bạn sống an toàn xa cách những xáo trộn khó khăn. Nhưng tin Chúa như thế đó là một thứ tín ngưỡng quá nghèo nàn. Chúa mà bạn tin trong những lúc như thế đó là một Thiên Chúa bị giam hãm trong một cái khung chật hẹp.
Chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu. Ngài cần chúng ta làm chứng cho Ngài trong thế giới hôm nay. Mặc dù chúng ta không phải chịu nhiều gian truân bắt bớ như các tông đồ xưa, nhưng chúng ta phải can đảm được đầu với những loại khó khăn khác, đó là đương đầu với sự xấu, đương đầu với khuynh hướng thờ ơ tôn giáo của nhiều người thời nay.
Chúng ta không thể biết trước ơn gọi làm kitô hữu sẽ dẫn chúng ta đi đến đâu và sẽ đòi hỏi chúng ta những gì. Nếu chúng ta mà biết trước những nơi đó và những khó khăn đó thì có lẽ chúng ta rất sợ hãi. Về điều này thì chúng ta giống như Phêrô. Lần đầu tiên Chúa gọi ông thì ông chưa biết rốt cuộc ông sẽ chịu tử đạo. Nhưng chúng ta hãy cố gắng sống như Phêrô. Chúa dẫn ta đi đâu thì ta đi đấy. Chúa muốn ta chịu gì thì chúng ta chịu nấy. Và chúng ta tin tưởng rằng những gian truân chúng ta phải chịu vì Chúa sẽ được thưởng gấp trăm. (FM)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã chết và sống lại vinh quang, đem niềm vui cho toàn thế giới. Chúng ta hãy hân hoan ca tụng Người và dâng lời cầu xin :
1. Đức Thánh Cha (Gioan Phaolô II) kế vị thánh Phêrô / để củng cố niềm tin của Dân Chúa trên khắp hoàn cầu / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa gìn giữ Người luôn được bình an / và ban choi Người được sức khỏe dồi dào.
2. Vâng lệnh Chúa Giêsu / các tông đồ đã thu được một mẻ cá lạ lùng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hoạt động rao giảng Tin mừng của các nhà truyền giáo / cũng đạt được những kết quả như lòng ước mong.
3. Không có Thầy / anh em không làm gì được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu hiểu rằng / với ơn Chúa trợ giúp / họ sẽ đạt được những kết quả bất ngờ.
4. Hãy đi theo Thầy / Chúa Giêsu mời gọi thánh Phêrô / nhưng cũng mời gọi hết thảy những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn dấn thân theo Chúa / bất chấp mọi hiểm nguy gian khổ trong đời sống thường ngày.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cũng biết noi gương thánh Phêrô mà xác nhận lòng thương mến của chúng con đối với Chúa, không phải bằng những lời nói suông mà bằng những việc làm cụ thể trong đời sống đức tin thường ngày. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
Trước kinh Lạy Cha : Chúa Giêsu đã giao trách nhiệm cho Phêrô chăm sóc đàn chiên của Ngài là Giáo Hội. Giờ đây, chúng ta hãy hợp ý với Đức Giáo Hoàng và các Giám mục cầu nguyện cho Nước Cha trị đến.
Sau kinh Lạy Cha : Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin Cha ban thêm cho chúng con lòng can đảm và trung thành dù phải sống giữa những thử thách khó khăn, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…
VII. Giải tán
Chúa đã tha thứ cho Phêrô và trao cho ông sứ mạng phục vụ anh chị em mình. Chúa cũng đã tha thứ tội lỗi chúng ta và khuyến khích chúng ta phục vụ anh chị em chúng ta.
Anh chị em hãy ghi nhớ và thực hiện Lời Chúa. Chúc anh chị em ra về bình an.

Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI

Lectio Divina: Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh (C)
Chúa Nhật, 17 Tháng 4, 2016
Chúa Giêsu vị Mục Tử Nhân Lành
Con chiên Người nhận biết Người
Ga 10:27-30


1. Bài đọc

a) Lời nguyện mở đầu:

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến và đốt lửa yêu mến trong lòng chúng con, xin hãy ban cho chúng con ân sủng để đọc đi đọc lại trang này của sách Tin Mừng một cách sốt sắng, ghi nhớ một cách trìu mến và thực hành trong cuộc sống chúng con.  Chúng con ước ao được đến gần với mầu nhiệm của Con Người của Chúa Giêsu được chất chứa trong hình ảnh của người Mục Tử. Vì điều này, chúng con khẩn khoản cầu xin Chúa hãy mở lòng mở trí chúng con để chúng con có thể hiểu biết được quyền năng sự Phục Sinh của Chúa.  Lạy Chúa Thánh Thần của sự sáng, xin hãy soi sáng tâm trí chúng con, để chúng con có thể hiểu được Lời của Chúa Giêsu, Đấng Chăn Chiên Tốt Lành; xin hâm nóng trái tim chúng con để chúng con có thể nhận thức được rằng những lời này không quá xa vời với chúng con, rằng chúng chính là chìa khóa cho kinh nghiệm hiện tại của chúng con.  Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến, vì nếu không có Chúa, Tin Mừng chỉ là những dòng chữ vô hồn; với Chúa, Phúc Âm trở thành Thần Khí của Sự Sống.  Lạy Chúa Cha, Chúa Thánh Thần, xin hãy ban cho chúng con; chúng con cũng cầu xin điều này cùng Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Chúa Giêsu và là mẹ chúng con, và tiên tri Êlia, ngôn sứ của Chúa, vì danh Đức Chúa Giêsu Kitô, Con Chúa, và là Chúa chúng con.  Amen!

b)  Đọc Tin Mừng:

27  Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng:  “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng, và chúng theo Ta; 28 Ta cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp chúng khỏi tay Ta. 29 Điều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. 30 Ta và Cha Ta là một.”

c)  Giây phút thinh lặng cầu nguyện:

Sự im lặng bảo vệ ngọn lửa của Lời Chúa đã thấm nhập vào trong chúng ta qua việc lắng nghe Lời Người.  Nó giúp chúng ta duy trì được ngọn lửa sốt sắng trong lòng.  Hãy dừng lại giây lát trong thinh lặng, hãy lắng nghe để chúng ta có thể tham dự vào quyền năng sáng tạo và tái sáng tạo của Ngôi Lời.

2. Suy Niệm

a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:

Bài Phúc Âm của Chủ Nhật tuần này được trích ra từ chương 10 của Tin Mừng viết theo thánh Gioan, bài giảng của Chúa Giêsu trong ngày lễ của người Do Thái kỷ niệm thánh hiến Đền Thờ Giêrusalem được tổ chức vào cuối tháng mười hai (lễ kỷ niệm việc tái thánh hiến Đền thờ, vốn đã bị tàn phá bởi người Syria gốc Hy Lạp, do công trình xây dựng của Giuđa Máccabê vào năm 164 trước Công Nguyên).  Lời của Chúa Giêsu liên quan đến mối quan hệ giữa người Chăn Chiên (Chúa Kitô) và đoàn chiên (Giáo Hội) thuộc về một cuộc tranh luận thực sự và riêng tư đã xảy ra giữa Chúa Giêsu và những người Do Thái.  Họ hỏi Chúa một câu hỏi rõ ràng và đòi hỏi Người phải trả lời cũng cụ thể và công khai như thế:  “Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai sự thật cho chúng tôi biết” (10:24).  Sách Phúc Âm của thánh Gioan trong những đoạn khác cũng có viết về việc người Do Thái cố ý tìm cho bằng được một sự khẳng định rõ ràng từ Chúa Giêsu liên quan đến căn tính của Người (2:18; 5:16; 8:25).  Trong các sách Phúc Âm Nhất Lãm, câu hỏi tương tự cũng đã được đặt ra khi Chúa Giêsu bị điệu ra trước mặt các Thượng Tế (Mt 26:63; Mc 14:61; Lc 22:67).  Câu trả lời của Chúa Giêsu được trình bày trong hai giai đoạn (các câu 25-31 và 32-39).  Chúng ta hãy xem xét một cách sơ lược bối cảnh của giai đoạn đầu tiên nơi mà phần phụng vụ của chúng ta được trình bày.  Người Do Thái đã không hiểu được dụ ngôn Người Mục Tử (Ga 10:1-21) và bây giờ họ muốn Chúa Giêsu cho một sự mặc khải rõ ràng hơn về căn tính của Người.  Về điều này, lý do việc cứng lòng tin của họ không phải là vì thiếu sự rõ ràng mà bởi vì họ từ chối thuộc về đoàn chiên của Chúa, để trở thành con chiên của Người.  Một câu nói tương tự của Chúa Giêsu có thể soi sáng thêm ý nghĩa này khi chúng ta đọc đoạn Tin Mừng của thánh Máccô 4:11:  “Phần anh em, mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã được ban cho anh em; còn với những người kia là những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn.”  Lời của Chúa Giêsu là ánh sáng chỉ dành cho những ai đang sống trong cộng đoàn giáo hữu, còn đối với những ai quyết định đứng ngoài thì những lời này chỉ là những ẩn ngữ rời rạc.  Đối với việc không tin của người Do Thái, Chúa Giêsu phản đối hành vi của những kẻ thuộc về Người và những kẻ mà Chúa Cha đã ban cho Người; và cũng là mối quan hệ với họ.

Ngôn ngữ của Chúa Giêsu không nhất thiết hiển nhiên ngay lập tức đối với chúng ta; thay vì việc so sánh những tín hữu như một bầy chiên làm chúng ta lúng túng.  Trái lại, chúng ta không hề xa lạ gì với đời sống của những người làm nông và chăn chiên, và đây không phải là một điều dễ hiểu rằng đoàn chiên nào sẽ đại diện cho một dân tộc và ai là những người chăn chiên.  Mặt khác, đối tượng mà Chúa Giêsu nhắm vào khi dùng ngụ ngôn này chính là những người mục tử.  Điều hiển nhiên là dụ ngôn được hiểu từ quan điểm của một người muốn chia xẻ gần như tất cả mọì thứ với đoàn chiên của mình.  Ông biết đoàn chiên của mình: ông thấy được mọi ưu và khuyết điểm của từng con; các con chiên cũng hiểu được sự hướng dẫn của người chăn chiên: chúng nghe theo lời người chăn và những chỉ dẫn của ông.

i)  Các con chiên của Chúa Giêsu thì lắng nghe tiếng Chúa: đây là một câu hỏi không chỉ dành cho người đang nghe ở bên ngoài (3:5; 5:37) mà nó còn dành cho người đang chăm chú lắng nghe (5:28; 10:3) đến người lắng nghe vâng phục (10:16-27; 18:37; 5:25).  Trong bài giảng về người mục tử, sự lắng nghe này thể hiện lòng phó thác và hiệp nhất của đoàn chiên với người mục tử (10:4).  Tĩnh từ và sở hữu từ “của tôi” không chỉ cho thấy sự sở hữu đơn giản các con chiên, mà nó còn cho thấy rằng các con chiên thuộc về người chăn chiên, và chúng thuộc về gần như người chăn chiên chính là chủ của chúng (10:12).

ii)  Kế đến, điều này tạo nên một mối giao tiếp mật thiết giữa Chúa Giêsu và các con chiên:  “và Ta biết chúng” (10:27). Đây không phải là một câu hỏi về kiến thức trí tuệ; theo ý nghĩa Kinh Thánh “để biết ai đó” có nghĩa là, điều quan trọng hơn cả là phải có một mối quan hệ cá nhân và cách nào đó sống trong cảm thông với người ấy.  Một sự hiểu biết không loại trừ các đặc tính của loài người như sự đồng cảm, yêu mến, cảm thông tự nhiên.

iii)  Trong đức tính của sự hiểu biết về tình yêu này, người mục tử kêu gọi đoàn chiên của mình đi theo mình.  Việc lắng nghe theo Vị Mục Tử cũng liên quan đến một nhận thức rõ ràng, bởi vì trong nhiều tiếng gọi có thể khác nhau, các con chiên phải chọn lựa nghe theo tiếng gọi tương ứng với một Đấng cụ thể (Đức Giêsu).  Noi theo sự nhận thức này, lời đáp trả sẽ tích cực, cá nhân và trở thành sự vâng phục.  Đây là kết quả từ sự lắng nghe.  Vì vậy, giữa việc lắng nghe và việc chọn lựa theo người Mục Tử là sự nhận biết về Đức Giêsu.

Sự nhận biết mà các con chiên có về Đức Giêsu đã mở lối cho một hành trình dẫn đến tình yêu:  “Ta cho họ sự sống đời đời”.  Đối với tác giả Phúc Âm, đời sống là ân sủng của sự hiệp thông với Thiên Chúa. Trong các sách Phúc Âm Nhất Lãm, khi nói về “sự sống” hay “sự sống đời đời” thì liên quan đến tương lai; trong Tin Mừng của thánh Gioan, nó chỉ về một sự sở hữu thực sự.  Điều này được thường xuyên lặp đi lặp lại trong lời diễn giải của Gioan:  “Ai tin vào Con Người thì được sự sống đời đời” (3:36); “Thật, Ta bảo thật các ông: ai nghe lời Ta và tin vào Đấng đã sai Ta, thì có sự sống đời đời” (5:24; 6:47).

Mối quan hệ tình yêu của Chúa Giêsu cũng trở nên cụ thể bởi kinh nghiệm của sự bảo vệ mà Người có dịp trải qua:  đó là việc mà những con chiên “sẽ không bao giờ bị hư mất”.  Có lẽ, điều này muốn nói đến hình phạt đời đời.  Và sau đó còn được thêm rằng “không ai có thể cướp được chúng”.  Những câu nói này cho thấy vai trò bàn tay của Thiên Chúa và của Đức Kitô đã ngăn không cho trái tim của những người này bị cướp đi bởi các quyền lực tối tăm khác. Trong Kinh Thánh, bàn tay, trong một số bối cảnh, còn là một ẩn dụ chỉ về sức mạnh của Thiên Chúa, Đấng bảo vệ (Đnl 33:3; Tv 31:6).  Mặt khác, động từ “cướp mất” (harpázö) gợi ý cho ta biết rằng cộng đoàn của các môn đệ cũng sẽ không tránh khỏi được những cuộc tấn công của ma quỷ và của cám dỗ.  Nhưng những chữ “không ai có thể cướp được chúng” cho thấy rằng sự hiện diện của Đức Kitô bảo đảm cho cộng đoàn một sự ổn định chắc chắn không nao núng để họ có thể vượt qua được mọi cơn cám dỗ của sợ hãi.

b)  Một vài câu hỏi gợi ý:

Giúp chúng ta chuẩn bị cho phần suy niệm và cập nhật:

i)  Thái độ đầu tiên để cho Lời của Chúa Giêsu hiển nhiên là người ta phải “lắng nghe”.  Động từ này trong ngôn ngữ Kinh Thánh thật là phong phú và xác đáng:  nó ngụ ý sự vui mừng tuân theo nội dung của những gì đã được nghe, sự tùng phục với người đang nói, sự chọn lựa về cuộc sống của Đấng đang gửi gấm tâm ý với chúng ta.  Bạn có thật sự đang đắm chìm trong việc lắng nghe Lời Chúa không?  Có những khoảng không gian và thời gian nào trong đời sống thường nhật của bạn mà bạn dành riêng ra, một cách đặc biệt, chỉ để lắng nghe Lời Chúa không?

ii)  Cuộc đối thoại hoặc sự thông tri thân mật và sâu sắc giữa Đức Kitô và bạn đã được xác định bởi bài Tin Mừng trong phần phụng vụ của ngày hôm nay bởi một động từ tuyệt vời trong Kinh Thánh: “biết”.  Động từ này liên quan đến toàn bộ một con người: lý trí, trái tim, và ý muốn.  Ý thức của bạn về Đức Kitô đã đóng khung vững chãi ở mức độ lý thuyết trừu tượng chưa hay là bạn sẽ để cho mình được biến đổi và hướng dẫn bằng tiếng nói của Người trên cuộc hành trình của đời bạn?

iii)  Những người đã lắng nghe và biết đến Thiên Chúa thì “đi theo sau” Đức Kitô như là hướng dẫn viên duy nhất của đời họ.  Việc đi theo sau của bạn  tiếp diễnhằng ngày và liên tục không?  Ngay cả khi ở cuối chân trời thấp thoáng có các mối đe dọa hoặc cơn ác mộng của các tiếng nói khác hoặc các ý tưởng khác mà chúng đang cố gắng cướp lấy chúng ta khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa không?
                                                     
iv)  Trong phần suy niệm bài Phúc Âm hôm nay có hai động từ khác xuất hiện:  chúng ta sẽ không bao giờ bị “hư mất, án phạt đời đời” và không ai sẽ có thể “cướp” chúng ta ra khỏi sự hiện diện của Đức Kitô, Đấng bảo vệ cuộc sống chúng ta.  Đây là nền tảng và động lực cho sự bảo đảm đời sống hằng ngày của chúng ta.  Ý tưởng này được thể hiện theo một phương cách rõ ràng qua lời thánh Phaolô:  “Tôi chắc rằng không có gì có thể tách rời chúng ta ra khỏi tình yêu với Đức Kitô: dù cho là sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù thế giới trên trời hay thế giới bên dưới – không có một loài thọ tạo nào sẽ có thể tách rời chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện qua Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8:38-39).  Khi một mối liên hệ giữa người tín hữu và Ngôi Lời Giêsu được thiết lập bởi lời mời gọi và sự lắng nghe, thì đời sống tiếp diễn được tin chắc sự trưởng thành thiêng liêng sẽ đạt được và thành công.  Nền tảng thật sự cho điều bảo đảm này nằm trong việc khám phá ra được thiên tính của vị Mục Tử này mỗi ngày, là Đấng bảo đảm cho đời sống chúng ta.  Bạn đã có trải qua kinh nghiệm về sự bảo đảm và thanh thản này khi bạn cảm thấy bị vây hãm bởi sự dữ chưa?

v)  Những lời của Chúa Giêsu “Ta cho chúng được sống đời đời” bảo đảm với bạn rằng lúc kết thúc cuộc hành trình của bạn như một Kitô hữu, thì sẽ không tối tăm hoặc mờ mịt.  Đối với bạn, sự sống đời đời có chỉ về số năm mà bạn có thể sống không, hay là nó gợi nhớ lại đời sống hiệp thông của bạn với Thiên Chúa?  Có phải kinh nghiệm được đồng hành với Chúa trong đời bạn là một lý do cho niềm hân hoan không?

3.  Đáp ca

a)  Thánh vịnh 100:2,3,5

Phụng thờ Chúa với niềm hoan hỷ,
Vào trước thánh nhan Người giữa tiếng hò reo.
Hãy nhìn nhận Chúa là Thượng Đế,
Chính Người dựng nên ta, ta thuộc về Người,
Ta là dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt.
Bởi vì Chúa nhân hậu,
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương,
Qua bao thế hệ, vẫn một niềm thành tín.

b)  Lời Nguyện Kết:

Lạy Chúa, chúng con nài xin Chúa hiển lộ với mỗi người chúng con như Vị Mục Tử Nhân Lành, Đấng tái lập nhờ quyền lực của sự Mầu Nhiệm Phục Sinh, Đấng tự hữu, với sự hiện diện tinh tế của Người, cùng với tất cả quyền năng của Chúa Thánh Linh.  Chúng con cầu xin Chúa hãy mở mắt chúng con, để chúng con có thể biết Chúa hướng dẫn chúng con như thế nào, hỗ trợ ý muốn của chúng con đi theo Chúa đến bất cứ nơi nào Chúa muốn dẫn chúng con đi.  Xin hãy ban cho chúng con ân sủng không bị cướp đi từ bàn tay của Đấng Chăn Chiên Tốt Lành và không bị quyền năng của sự dữ đe dọa chúng con, khỏi những chia rẽ từ nơi khuất lấp hay chỗ tàng ẩn từ trong trái tim chúng con.  Ôi lạy Chúa Kitô, Vị Mục Tử, Người dẫn đường của chúng con, là gương mẫu của chúng con, là nguồn an ủi của chúng con, là người anh của chúng con.  Amen!

4.  Chiêm Niệm

Hãy suy niệm Lời của Đấng Chăn Chiên Tốt Lành trong đời bạn.  Các giai đoạn trước của phần Lectio Divina, thì rất quan trọng, sẽ trở thành thực hành, nếu được sắp xếp để sống thực sự với Lời Chúa.  Con đường “Đọc Lời Chúa” không thể được xem là kết thúc nếu nó không được nối tiếp để dùng Lời Chúa là trường đời cho bạn.  Một mục tiêu như thế sẽ đạt được khi bạn lãnh hội được hoa trái của Chúa Thánh Linh.  Đó là:  sự bình an trong tâm hồn được làm triển nở trong niềm hân hoan và trong sự hứng thú vì Lời Chúa; khả năng để phân biệt giữa việc cần thiết và công việc của Thiên Chúa; giữa việc vô ích và việc của các điều dữ; giữa lòng can đảm của sự chọn lựa và của hành động cụ thể, theo giá trị của trang Kinh Thánh mà bạn đã đọc và suy niệm về nó.    



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét