03/07/2016
Chúa Nhật tuần 14 thường niên năm C
(phần I)
Bài Ðọc
I: Is 66, 10-14c
"Ðây
Ta khiến sông bình an chảy vào nó".
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Các
ngươi hãy vui mừng với Giêrusalem, và hết thảy những ai yêu quý nó, hãy nhảy mừng
vì nó. Hỡi các ngươi là những kẻ than khóc nó, hãy hân hoan vui mừng với nó, để
các ngươi bú sữa no nê nơi vú an ủi của nó, để các ngươi sung sướng bú đầy sữa
vinh quang của nó. Vì chưng Chúa phán thế này: "Ta sẽ làm cho sự bình an
chảy đến nó như con sông, và vinh quang chư dân tràn tới như thác lũ. Các ngươi
sẽ được bú sữa, được ẵm vào lòng và được nâng niu trên đầu gối. Ta sẽ vỗ về các
ngươi như người mẹ nâng niu con, và tại Giêrusalem, các ngươi sẽ được an ủi.
Các ngươi sẽ xem thấy, lòng các ngươi sẽ hân hoan, và các ngươi sẽ nẩy nở như
hoa cỏ, và tôi tớ Chúa sẽ nhìn biết bàn tay của Chúa".
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 65, 1-3a. 4-5. 6-7a. 16 và 20
Ðáp: Toàn thể đất nước, hãy reo mừng
Thiên Chúa (c. 1).
Xướng:
1) Toàn thể đất nước hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy ca ngợi vinh quang danh Người,
hãy kính dâng Người lời khen ngợi hiển vinh. Hãy thưa cùng Thiên Chúa: kinh ngạc
thay sự nghiệp Chúa. - Ðáp.
2)
Toàn thể đất nước thờ lạy và ca khen Ngài, ca khen danh thánh của Ngài. Hãy tới
và nhìn coi sự nghiệp của Thiên Chúa, Người thi thố những chuyện kinh ngạc giữa
con cái người ta! - Ðáp.
3)
Người biến bể khơi thành nơi khô cạn, người ta đã đi bộ tiến qua sông, bởi đó
ta hãy hân hoan trong Chúa. Với quyền năng, Người thống trị tới muôn đời. -
Ðáp.
4)
Phàm ai tôn sợ Chúa, hãy đến, hãy nghe tôi kể lại, Chúa đã làm cho linh hồn tôi
những điều trọng đại biết bao! Chúc tụng Chúa là Ðấng không hất hủi lời tôi
nguyện, và không rút lại lòng nhân hậu đối với tôi. - Ðáp.
Bài Ðọc
II: Gl 6, 14-18
"Tôi
mang trong mình tôi những dấu thánh của Chúa Giêsu".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh
em thân mến, phần tôi, ước gì tôi đừng khoe mình về một điều gì khác, ngoại trừ
về thập giá Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ cây thập giá mà thế gian đã chịu
đóng đinh cho tôi, và tôi cho thế gian. Vì chưng trong Ðức Kitô, có cắt bì hay
không cũng chẳng có giá trị gì, điều quan trọng là trở nên một tạo vật mới.
Nguyện chúc bình an và lòng thương xót đối với những ai rập theo quy tắc đó, và
cho cả Israel của Thiên Chúa nữa. Từ nay trở đi, ước gì không ai làm phiền tôi
nữa; vì tôi mang trong mình tôi dấu thánh của Chúa Giêsu.
Anh
em thân mến, nguyện ân sủng của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ở cùng anh em!
Amen.
Ðó là
lời Chúa.
Alleluia:
Ga 14, 23
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha
Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". -
Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 10, 1-9 {hoặc Lc
1-12. 17-20}
"Sự
bằng yên của các con sẽ đến trên người ấy".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy,
Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa, và sai các ông cứ từng hai người đi trước
Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng:
"Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ
đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa
sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép, và đừng chào hỏi
ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: 'Bình an cho nhà này'. Nếu
ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng
không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống
những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
"Khi
vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn
cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: 'Nước Thiên Chúa đã
đến gần các ngươi'.
{"Khi vào thành nào mà người ta
không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: 'Cả đến bụi đất
thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các
ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần'. Ta bảo
các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này".
Bảy
mươi hai ông trở về rất vui mừng và nói rằng: "Thưa Thầy, nhân danh Thầy
thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con". Người bảo: "Ta đã thấy Satan
từ trời sa xuống như luồng chớp. Này Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn
rít, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các
con. Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con, nhưng hãy
vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời".}
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm: Chúa Muốn Cứu Ðộ Mọi Người
Chúa
nhật trước đã cho chúng ta thấy đòi hỏi tổng quát quyết liệt của ơn gọi tông đồ
nói riêng và ơn gọi Kitô hữu nói chung. Mọi người muốn theo Chúa đều phải từ bỏ
bản thân, dứt khoát với nếp sống cũ kỹ của con người xác thịt và thế gian. Hôm
nay bài Tin Mừng cho chúng ta thấy Chúa sai những con người từ bỏ mọi sự mà đi
theo Chúa, và cánh đồng truyền giáo. Người sai họ đi khắp nơi, làm công việc cứu
thế. Người bảo đảm thành công cho họ. Vì kế hoạch cứu thế làm cho cả nhân loại
được hạnh phúc là điều Chúa đã hứa ban ngay từ thuở ban đầu, như bài sách Isaia
hôm nay loan báo. Tuy nhiên các tông đồ và tín hữu của Chúa phải bắt chước
Phaolô trong bài thư hôm nay, trung thành yêu mến mầu nhiệm thánh giá Chúa
Giêsu.
Chúng
ta hãy xem Chúa dự định cứu nhân loại thế nào? Người thi hành việc ấy làm sao?
Và chúng ta sẽ góp phần gì vào công việc cứu thế này?
1.
Chúa Muốn Cứu Ðộ Mọi Người
Bài
sách Isaia có giá trị cho mọi thời vì nói lên kế hoạch cứu độ trước sau như một
của Thiên Chúa. Ðoạn sách ấy trích trong phần thứ ba, hay quyển thứ ba sách
Isaia, nói về thời sau lưu đày.
Chúng
ta biết dân Chúa ngày xưa phải lưu đày sang Babylon trên dưới 40 năm. Nhiều người
đã chán nản, nghĩ rằng chẳng bao giờ khôi phục được Giêrusalem nữa. Nhưng một số
ít người đạo đức, thuộc thành phần khó nghèo, vẫn tin tưởng vào Chúa là Ðấng
trung tín sẽ giữ lời giao ước. Chính Người sẽ ra tay cứu dân và đưa họ về quê
cha đất tổ mặc dầu họ không xứng đáng. Niềm tin ấy đã không phải hổ ngươi, vì
quả thật khi Hoàng đế Cyrô lên ngôi, ông đã ban phép và khuyến khích những ai
yêu mến Giêrusalem hãy trở về xây dựng lại đền thờ.
Ðó là
niềm vui bất ngờ. Người ta kéo nhau về hân hoan như được sống lại. Công cuộc
tái thiết bắt đầu rất hăng say. Nhưng chẳng bao lâu mây đen đã kéo đến chân trời.
Các khó khăn liên tiếp và dồn dập xảy ra. Do các mối bất hòa đến từ tứ phía,
các cánh tay đang tái thiết bỗng rã rời và chỉ muốn buông xuống. Chính lúc ấy
tiếng tiên tri lại vang lên, an ủi khuyến khích và phấn chấn lòng người. Người
của Chúa không đưa ra những luận lý mới mẻ. Ông không tự ý hứa hẹn những điều
hão huyền. Là phát ngôn viên trung thành của Thiên Chúa, ông chỉ lặp lại, nhắc
nhở kế hoạch cứu độ ngàn đời của Người. Ông hô: hỡi những ai yêu mến Giêrusalem
hãy hân hoan lên vì nó; hỡi những ai đã có lần khóc lóc với nó (trong cảnh cùng
quẫn), hãy với nó phấn khởi lên vì Chúa sẽ đem hòa bình đến cho Giêrusalem: nó
sẽ trở nên trù phú: mọi dân sẽ tuốn đến uống sữa no nê của nó vì chính Chúa sẽ
bồng bế mọi người ở Giêrusalem để hết thảy sẽ được hồi sinh và tươi mát.
Ngày
nay chúng ta dễ hiểu những lời tiên tri này. Ðây không phải là những lời hy hữu,
lẻ loi, nhưng chỉ diễn tả đề tài cố hữu và chính yếu của mạc khải. Ngay từ thời
Abraham, Thiên Chúa đã hứa cho ông được dòng dõi đông đúc và hạnh phúc. Dòng
dõi này sẽ bao trùm mọi sắc dân. Với Môsê Chúa đã tái xác nhận như vậy. Các
tiên tri không làm gì hơn là giúp người Do Thái biết hiểu giao ước và lời hứa
theo ánh sáng siêu nhiên và phổ quát hơn. Bài sách Isaia hôm nay nằm trong viễn
tượng và cố gắng ấy. Tội nghiệp cho những ai không tin rằng: Lời Chúa sẽ được
thực hiện. Nhưng cũng tội nghiệp không kém cho những kẻ chỉ hiểu Lời Chúa hứa
theo ý nghĩa xác thịt và thế gian.
Giêrusalem
của lời hứa không phải đô thị ở trên mảnh đất Do Thái. Thái độ này chỉ là hình ảnh
và điểm tựa để Thiên Chúa nói đến Nước ân sủng của Chúa Cứu Thế, nơi Người sẽ tập
họp hết mọi người được cứu độ. Chính Ðức Giêsu đã bảo: cứ phá Giêrusalem vật chất
đi, Người sẽ xây lại nó trong ba ngày. Người muốn nói thân thể phục sinh của
Người và mọi dân được cứu độ. Ở đó, nơi thân thể có cạnh sườn mở ra của Người sẽ
có dòng nước Thánh Thần chảy theo dòng máu hy sinh của Người để làm cho mọi người
được no nê, hồi sinh và tươi mát. Thiên Chúa sẽ yêu dấu chúng ta nơi Ðức Giêsu
Kitô, người con chí ái của Người.
Lời
sách Isaia hôm nay, cuối cùng là như vậy. Nó là sứ điệp Tin Mừng Thiên Chúa gửi
đến cho mọi người ở mọi thời, tác giả sách Isaia đã nhắc lại lời hứa ấy trong một
hoàn cảnh đen tối của lịch sử dân Chúa để gây tin tưởng nơi lòng mọi người. Hôm
nay và hằng ngày trong cuộc sống, đặc biệt trong những lúc bi đát và nao núng
niềm tin, Lời Chúa vẫn còn đó để nhắc nhở chúng ta. Người là Ðấng trung thành
đã hứa thì sẽ giữ mọi điều của kế hoạch yêu thương cứu độ. Tất cả chỉ còn tùy
nơi chúng ta có muốn tin hay không?
Thực
ra chúng ta có điều kiện để dễ tin hơn các thế hệ ngày trước. Bởi vì từ ngày có
lời tiên tri trong sách Isaia, đã có biết bao nhiêu biến cố lịch sử chứng tỏ
Thiên Chúa hằng trung thành thực hiện dần dần kế hoạch cứu độ của Người.
Ðặc
biệt đã có cuộc đời và sự nghiệp của Ðức Giêsu mà đoạn sách Luca hôm nay còn nhắc
lại một trong rất nhiều biến cố rất ý nghĩa.
2.
Chúa Muốn Các Dân Tộc Ðược Cứu Vớt
Nếu
thực sự được phép nối liền hai bài Tin Mừng của Chúa nhật trước và Chúa nhật
này, chúng ta thấy đoạn văn hôm nay thổi lên một luồng gió phấn khởi. Chúa nhật
trước, bài sách Luca nói đến thái độ của dân Samari chặn đứng cuộc hành trình của
Ðức Giêsu khiến hai môn đệ tức giận chỉ muốn xin lửa từ trời xuống đốt dân
thành ấy. Hôm nay, Ðức Giêsu và các môn đệ của Người như đang đứng trước toàn
những đô thị dân ngoại. Nhưng Người giơ tay trỏ cho họ thấy kìa mùa gặt rất
phong phú. Nhưng sao ít thợ gặt thế! Hãy xin chủ ruộng sai thêm thợ đến gặt lúa
chín của Người. Và Ðức Giêsu đã sai 72 môn đệ đi giảng đạo trong mọi đô thị và
xóm làng mà Người sẽ đến.
Tác
giả Luca đã có nhiều ý kiến khi thuật lại câu chuyện này. Ông nói đến 72 môn đệ
chứ không phải chỉ 12 tông đồ được sai đi. Ông nghĩ đến các thế hệ tông đồ sau
này sẽ được gởi đến mọi nơi trên mặt đất sao? Hay ông nghĩ đến các người đi giảng
đạo ở thời ông mà không phải là đoàn 12. Rất có thể là ông đã theo gương tác giả
sách Khởi nguyên đoạn 10, tính tổng số các dân ngoại là 72 do 3 người con của
ông Noe sinh sản ra. Dù sao ngụ ý của tác giả ở đây là muốn cho việc truyền
giáo các dân ngoại được phát xuất và khởi sự ngay từ Ðức Giêsu. Chính Người đã
sai môn đệ đi tới hết mọi dân tộc và mọi nơi chốn mà Người (tức là ơn cứu độ của
Người) sẽ đi đến. Bởi vì với việc đi lên Giêrusalem chịu chết và sống lại của
Người, cả thế giới đã trở thành như ruộng lúa chín vàng đang chờ thợ gặt.
Hình ảnh
này, các sách Kinh Thánh vẫn dùng để gợi lên mùa cứu độ cũng như mùa xét xử. Ðức
Giêsu đến là để nhiều người được chỗi dậy và nhiều kẻ bị hư đi, như lời Simêon
tiên báo. Người mang tin mừng và Ơn cứu độ trải ra khắp địa cầu như người ta thả
lưới để kéo vào và lượm ra các thứ cá. Việc rao giảng Nước Trời cũng giống như
mùa gặt để thu lúa vào kho, còn rơm rạ thì đốt đi. Không dân tộc nào ngăn chặn
được ảnh hưởng của công cuộc truyền giáo vì tiếng các ngôn sứ đã vang cùng thế
giới. Kế hoạch đem mọi dân tộc vào hạnh phúc đã được hứa cho Abraham mà bài
sách Isaia hôm nay cho thấy hằng được rao giảng qua mọi thế hệ, kế hoạch ấy
đang thực hiện trước mắt các môn đệ của Chúa Giêsu.
Và họ
được sai đi làm công việc ấy với những chỉ thị rõ ràng. Người bảo họ: hãy đi,
này Ta sai các ngươi như chiên đi vào giữa sói. Câu nói này có thể hiểu theo
nghĩa các tông đồ được sai đi làm một công việc khó khăn, nguy hiểm. Nhưng đúng
hơn nên nhớ lại văn chương của Kinh Thánh thường so sánh dân ngoại như chiên với
sói, để hiểu câu văn này chỉ có ý nói đến mệnh lệnh truyền giáo đi vào dân ngoại.
Chúa
bảo các môn đệ đừng mang theo tiền nong, bao bị, giày dép và đừng chào hỏi những
người qua đường vì Người muốn họ phải lanh lẹ, nhẹ nhõm đi lo việc Chúa. Tâm hồn
họ chỉ để vào việc truyền giáo, nên vào nhà nào, họ phải nói ngay: Bình an cho
nhà ấy. Ðó là lời chúc cổ điển của Kinh Thánh, lời bao gồm tất cả niềm tin ở
giao ước. Muốn cho ai được bình an theo nghĩa đó, là muốn cho họ nhận được ân
phúc mà Thiên Chúa đã từng hứa từ thời Abraham, để họ được ân sủng yêu thương của
Người và được cứu độ, khiến họ không còn thiếu gì khác nữa. Với lời chào bình
an, người tông đồ mang đến cho người ta kho tàng cứu độ và lời hứa trung tín của
Thiên Chúa như bài Isaia trên kia đã cho chúng ta thấy. Việc được như vậy hay
không là tùy thái độ của từng người. Còn người tông đồ cứ ở lại đó, tiếp tục
rao giảng cho người ta về Nước Trời và chữa bệnh tật cho người đau yếu để làm
chứng ơn cứu độ đã đến cho người ấy. Và người tông đồ luôn luôn chỉ quan tâm đến
phận sự rao giảng, không chút mảy may để ý đến cách thức người ta cho mình ăn uống
thế nào. Và nhất là không được nay ở nhà này mai đổi sang nhà khác để được tiếp
đãi no đủ hơn.
Có thể
có những tông đồ bị hắt hủi. Nhưng Chúa sẽ phán xét thái độ của người ta. Người
tông đồ không nao núng, cứ rao giảng Nước Trời. Tuy nhiên, tác giả Luca không
muốn chấm dứt bài tường thuật với giả thiết ít lạc quan ấy. Người nhìn thấy
chung cuộc việc truyền giáo cho các dân ngoại rất kết quả. Người kể cho chúng
ta ngày các tông đồ trở về hân hoan vì thấy ảnh hưởng của thần dữ đã bớt đi
trên thế gian và Ðức Giêsu đã nhìn thấy Satan đã lao mình xuống khỏi trời như một
tia chớp. Những tư tưởng này làm chứng rồi ra kế hoạch của Thiên Chúa sẽ toàn
thắng. Mọi dân tộc sẽ được cứu vớt. Bình an và phúc lành của Thiên Chúa hứa cho
loài người sẽ đánh tan ảnh hưởng xấu xa của Satan và tên các tông đồ sẽ được
ghi ở trên trời.
Như vậy
bài Tin Mừng hôm nay đã thực hiện lời tiên tri trong sách Isaia. Chúng ta được
chỉ dẫn cho thấy kế hoạch cứu độ ngàn đời của Thiên Chúa đang thực hiện qua
Giêrusalem mới là Hội Thánh với đoàn tông đồ đông đảo đang được sai đi đến các
dân tộc để nhân danh Ðức Giêsu đem phúc bình an đến cho mọi người. Chúng ta để
ý đến chương trình cứu độ chắc chắn đầy thành quả của Thiên Chúa; nhưng cũng
không nên quên các yêu sách của chương trình này mà tác giả Luca đã một phần
nào gợi lên khi đưa ra các chỉ thị truyền giáo. Thánh Phaolô trong bài thư hôm
nay đã tóm tắt các yêu sách lại trong một quan niệm: hãy mang lấy các đau khổ của
Ðức Giêsu Kitô.
3. Miễn
Là Chúng Ta Sống Mầu Nhiệm Thánh Giá
Chắc
chắn là không ai bằng thánh Phaolô có khả năng nói với chúng ta về kinh nghiệm
truyền giáo. Người đã mở đường và đi tiên phong trong việc đem Tin Mừng đến cho
dân ngoại. Kế hoạch cứu độ các dân tộc của Chúa nhờ Người đã đem lại những kết
quả cụ thể. Và bài thư hôm nay là những lời tâm huyết của Người, viết ở cuối bức
thư gửi người Galát. Chính tay Người thảo ra những dòng chữ "lớn lao"
này để khẳng định một lần cuối cùng rằng: muốn cho các dân tộc được cứu độ, phải
cư xử theo thánh giá Chúa Kitô. Người nói như vậy vì Người thấy có nhiều kẻ muốn
làm tông đồ và rao giảng ơn cứu độ của Thiên Chúa nhưng lại dùng đường lối
không phù hợp với thánh giá. Họ sợ gặp khó khăn khi thi hành việc giảng đạo,
nên tuyên bố tín hữu phải cắt bì để lấy lòng người Do Thái và để hạng người này
không phá rối việc giảng đạo của họ. Nhưng như vậy còn nói đến Tin Mừng của Ðức
Giêsu Kitô làm gì nữa? Chính Người đã đến để giải thoát người ta ra khỏi luật
pháp Do Thái cũng như mọi luật tôn giáo khác để mọi người từ nay được cứu độ nhờ
Niềm Tin. Thế mà bây giờ có những tông đồ còn bảo tín hữu phải chịu cắt bì!
Không, họ không phải là tông đồ đâu. Họ không rao giảng ơn cứu độ mà Thiên Chúa
đã hứa ban. Thế thì họ giảng đạo làm gì, nếu chẳng phải nguyên để được vinh dự
và tiếng tăm!
Không,
không ai được gọi là tông đồ nếu không được sai đi. Và người được sai đi phải
thấy việc rao giảng Tin Mừng là một sứ mệnh đè xuống trên vai mình và bắt mình
phải hy sinh chứ không phải để được tiếng tăm và vinh dự. Người tông đồ chân
chính không những phải rao giảng niềm tin vào mầu nhiệm Thánh giá, mà hơn nữa
còn phải nên như thập giá sống động ở trước mặt mọi người. Họ phải nói như
Phaolô: Tôi không lấy gì làm vinh dự, ngoài Thánh giá Chúa Giêsu Kitô, nhờ đó
thế gian đã bị đóng đinh cho tôi và tôi cho thế gian. Chỉ những ai cư xử như vậy
mới được bình an và lòng thương xót của Thiên Chúa. Chỉ tông đồ nào như thế mới
đem lại bình an và thương xót của Chúa cho các dân tộc và cho mọi người. Tất cả
chúng ta muốn sống đạo và truyền đạo phải lấy đó làm nguyên tắc hành động. Mỗi
người phải suy nghĩ và diễn tả nguyên tắc mang Thánh giá Ðức Giêsu Kitô ra
trong đời sống. Ai mang trong thân mình những vết hằn (tức là những dấu vết) của
Thánh giá như Phaolô, mới là tín hữu và tông đồ chân chính.
Nhưng
ai trong chúng ta lại đã không được ghi dấu thánh giá? Không những từ ngày chịu
phép rửa tội, mà hằng ngày không biết bao lần chúng ta được ghi dấu thánh ấy?
Chỉ còn phải hỏi đời sống và hành động của chúng ta có phù hợp với thánh giá
hay không? Thánh lễ này đưa chúng ta vào mầu nhiệm thánh giá một cách đặc biệt.
Chúng ta cố gắng tham dự thánh lễ tốt. Nhưng chúng ta còn phải quyết tâm hơn nữa
đưa tinh thần mầu nhiệm thánh giá nơi bàn thờ đây vào trong đời sống. Chỉ khi
nào chúng ta thi hành tinh thần ấy, ơn cứu độ mới được ban cho chúng ta và đời
sống của chúng ta mới mang ơn cứu độ đến cho người khác. Chương trình và kế hoạch
cứu độ từ ngàn đời của Thiên Chúa mới thực sự được thi hành cho chúng ta và nhờ
chúng ta cho mọi người.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ
Nhật 14 Thường Niên, Năm
C
Bài
đọc: Isa 66:10-14c; Gal
6:14-18; Lk 10:1-9.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ba
sự thật cần thiết nhất của cuộc đời.
Con
người bị lẫn lộn và giằng co giữa sự thật và sự gian tà, giữa việc tôn thờ Đấng
Tạo Hóa với những tạo vật do tay Ngài làm nên, giữa mục đích của cuộc đời và những
phương tiện sinh sống trong cuộc đời, giữa bổn phận chính yếu với những bổn phận
phụ thuộc. Ví dụ: Mục đích của cuộc đời là làm sao để đạt được Nước Trời chứ
không phải xây cho được những tòa nhà lộng lẫy, nguy nga... để rồi sẽ có ngày
không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào. Niềm tin để đạt được mục đích cuộc
đời là xác tín vào Đức Kitô, Đấng duy nhất có thể bảo đảm cho con người được cứu
độ, chứ không phải nơi uy quyền, danh vọng hay bất cứ người nào khác. Bổn phận
chính con người phải làm khi sống ở đời này là rao giảng Tin Mừng sao cho mọi
người nhận ra và tin vào Thiên Chúa để được hưởng ơn cứu độ, chứ không phải bất
kỳ một bổn phận phụ thuộc nào khác.
Các
bài đọc hôm nay cho chúng ta ba cái nhìn chính xác về mục đích của cuộc đời, niềm
tin phải có để đạt được mục đích đó, và bổn phận phải làm để đạt được mục đích
của cuộc đời. Trong bài đọc I, ngôn sứ Isaiah nhìn thấy rõ viễn cảnh hòa bình của
Jerusalem sau những ngày lưu đày cơ khổ. Đây cũng là mục đích người tín hữu hướng
tới khi phải làm việc vất vả, chịu đựng bao nhiêu gian khổ trong thế gian là để
đạt tới và sống trong cảnh thái bình của Jerusalem trên trời. Trong bài đọc II,
thánh Phaolô xác tín Thập Giá Đức Kitô là dấu hiệu bảo đảm cho niềm tin vào hạnh
phúc Thiên Đàng. Niềm xác tín này phải in sâu tâm hồn của mọi tín hữu để họ đừng
bị lung lay bởi bất cứ học thuyết nào hay bất cứ những cám dỗ nào của thế gian.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi rao giảng Tin Mừng và căn dặn các
ông tập trung vào một điều chính yếu là làm cho triều đại của Thiên Chúa mau tới.
Bổn phận của người tín hữu phải luôn nhớ sứ vụ của mình là rao giảng Tin Mừng để
đem mọi người về cho Thiên Chúa, chứ không phải cho bất kỳ một sứ vụ nào khác.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Mục đích của cuộc đời:
Viễn cảnh thái bình của Jerusalem.
1.1/
Jerusalem sẽ được phục hồi: Jerusalem
là trọng tâm đời sống của con cái Israel, vì đây là Đền Thờ của Thiên Chúa cư
ngụ giữa họ. Sau năm 587 BC, Đền Thờ bị phá hủy tan tành, thành Sion và các
thành lũy chung quanh cũng bị triệt hạ hoàn toàn, và dân chúng bị đem đi lưu
đày tại Babylon. Đối với những người không có đức tin, năm đó là năm chấm dứt
niềm tin của con cái Israel vào Thiên Chúa, vì còn đâu Đền Thờ cho Thiên Chúa
ngự. Nhưng đối với các ngôn sứ, Jerusalem sẽ được phục hồi và sẽ trở thành
trung tâm mà mọi dân mọi nước hướng về. Sau cảnh thương khóc và gian khổ là
sung mãn vinh quang mà Thiên Chúa dành cho những ai tin tưởng nơi Ngài. Chương
66 của Sách Isaiah nói lên vinh quang của Jerusalem sẽ được hưởng sau thời kỳ
lưu đày: “Hãy vui mừng với Jerusalem, hãy vì Thành Đô mà hoan hỷ, hỡi tất cả những
người yêu mến Thành Đô! Hãy cùng Jerusalem khấp khởi mừng, hỡi tất cả những người
đã than khóc Thành Đô, để được Thành Đô cho hưởng trọn nguồn an ủi, được thoả
thích nếm mùi sung mãn vinh quang, như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ.”
1.2/ Đức
Chúa sẽ yêu quí Jerusalem: Tác
giả diễn tả sự yêu quí này bằng những hình ảnh khác nhau: Thiên Chúa sẽ tuôn đổ
muôn hồng ân xuống trên Jerusalem cho dân Người “tựa dòng sông cả, và Ta khiến
của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ. Người sẽ an ủi vỗ về dân Người
như người mẹ săn sóc con thơ: “Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm
bên hông, nâng niu trên đầu gối.”
Hình ảnh
Jerusalem của ngôn sứ Isaiah diễn tả ở đây không chỉ giới hạn Jerusalem sau thời
lưu đày, vì Jerusalem này cũng bị quân đội Roma phá bình địa vào năm 70 AD. Người
tín hữu trông cậy vào thành Jerusalem trên trời, nơi không một sức mạnh nào có
thể phá nổi.
2/ Bài
đọc II: Niềm xác tín của
người môn đệ: “Tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô.”
2.1/ Làm
sao để có bình an?
(1)
Thập giá Đức Giêsu Kitô là niềm hãnh diện của người tín hữu: Đây là bốn câu cuối
cùng của Thư Galat, và thánh Phaolô muốn tổng kết những gì Ngài đã nói với các
tín hữu trong toàn Thư. Người tín hữu không được tìm sự hãnh diện nơi bất cứ điều
gì thế gian dâng tặng như: uy quyền, danh vọng, tiền của, hưởng thụ... Niềm
hãnh diện của người tín hữu là ở nơi Thập Giá của Đức Kitô, vì nhờ cây Thập Giá
này mà họ được rửa sạch tội lỗi và được giao hòa với Thiên Chúa. Thánh Phaolô
tuyên xưng: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá
đối với tôi, và tôi đối với thế gian.”
(2)
Qui tắc để có bình an: Đối với các Kitô hữu, không phải hệ tại ở việc cắt bì,
cũng chẳng phải ở việc giữ Luật, nhưng là ở chỗ trở nên một tạo vật mới: theo sự
hướng dẫn của Thánh Thần để hoàn toàn sống cho Đức Kitô. Thánh Phaolô dạy: “Quả
thật, cắt bì hay không cắt bì chẳng là gì cả, điều quan trọng là trở nên một thụ
tạo mới. Chúc tất cả những ai sống theo quy tắc ấy, và chúc Israel của Thiên
Chúa được hưởng bình an và lòng thương xót của Người.”
Bình
an này có liên kết mật thiết với niềm tin của người tín hữu vào Đức Kitô: một
khi đã biết Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, người tín hữu không còn lo lắng về
tội lỗi và về sự chết nữa. Họ biết nếu họ tin và tuân giữ những gì Đức Kitô dạy
bảo, họ sẽ được sống đời đời với Thiên Chúa. Chính sự xác tín này làm cho họ được
bình an trong tâm hồn.
2.2/ Tôi
mang trên mình tôi những dấu tích của Đức Giêsu.
Trong
cuộc đời, người tín hữu phải đương đầu với biết bao nhiêu những lạc thuyết của
thế gian và các tôn giáo khác nhau. Một khi đã biết rõ ràng Kế Hoạch Cứu Độ của
Thiên Chúa, người tín hữu đừng để cho bất cứ người nào làm lung lay niềm tin của
mình, đừng để cho bất cứ sự gì lôi cuốn mình khỏi Thập Giá của Đức Kitô, và đừng
để cho những dấu tích của Đức Kitô in trên thân thể bị xóa nhòa. Những “dấu
tích” thánh Phaolô nói ở đây có thể là “5 dấu thánh” mà thánh Phanxicô Khó Khăn
hay Cha Piô được chịu; cũng có thể là những đau khổ để lại trên thân xác sau
khi đã trải qua những gian khổ để làm chứng cho Đức Kitô; hay có thể hiểu một
cách thiêng liêng: những chứng tích mà bí-tích Rửa Tội để lại trong linh hồn
các tín hữu.
3/
Phúc Âm: Bổn phận của môn đệ
là loan báo: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông."
3.1/
Khác biệt về văn bản: Theo
Lucas, Chúa Giêsu không chỉ chọn 12 tông đồ, nhưng còn nhiều môn đệ khác, để huấn
luyện và sai đi rao giảng Tin Mừng. Trong Lucas, có hai lần sai đi: Lần thứ nhất,
Chúa Giêsu sai 12 tông đồ (Lk 9:1-6; Mt 10:1, 7-16; Mk 6:7-13). Lần thứ hai, chỉ
có trong Lucas, theo trình thuật hôm nay: “Chúa chỉ định bảy mươi hai người
khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các
nơi mà chính Người sẽ đến.”
70
hay 72 môn đệ? Theo Bruce Metzger, sự khác biệt của các văn bản cổ xưa có thể
nói là đồng đều. Theo bản Alexandria (A) và các bản của nhóm Tây Phương (gồm hầu
hết các bản của Latin cũ và Sinaitic Syriac) cho là 72 môn đệ. Các bản Alexandrian
khác (Sinaiticus, L, Delta) cùng với hai bản f 1 và f 13 cho
là 70 môn đệ. Vì thế, khó mà xác định con số nào chính xác. Nhiều học giả còn
đi xa hơn trong việc phiên dịch ý nghĩa của con số 70 (dựa trên Exo 24:1; Num
11:16) hay 72 (dựa trên truyền thuyết 72 người phiên dịch của Bản Bảy Mươi hay
72 quốc gia trong Gen 10). Tất cả những phiên dịch này chỉ có tính cách võ
đoán. Metzger tuy chọn con số 72, nhưng để trong ngoặc cho mọi người biết là có
sự tranh luận về con số này.
3.2/ Môn
đệ là sứ giả mang Tin Mừng.
(1)
Phải ý thức sứ vụ cuả mình: Chúa Giêsu biết những nguy hiểm người môn đệ phải
đương đầu khi Ngài nói với các ông: “Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi
vào giữa bầy sói.” Hai điều Ngài muốn đề phòng cho các ông:
- “Đừng
mang theo túi tiền, bao bị, giày dép”: Đây là những thứ ngăn cản việc rao giảng
Tin Mừng. Lo lắng quá nhiều về phương diện sinh sống sẽ ngăn cản các ông dành mọi
cố gắng cho việc rao giảng Tin Mừng.
-
“Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường”: Chúa Giêsu không dạy các môn đệ bất lịch sự
hay sống cách biệt. Ngài chỉ muốn các môn đệ biết tính khẩn cấp của việc rao giảng
Tin Mừng để các ông đừng trò chuyện vô ích dọc đường, làm mất thời gian rao giảng
(cf. 2 Kgs 4:29).
(2)
Chấp nhận Tin Mừng là điều kiện để có bình an: Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ:
“Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: "Bình an cho nhà này!"” Điều
này chứng tỏ Tin Mừng cứu độ được trao cách nhưng không cho mọi người. Theo
Lucas, sự bình an này được liên kết với ơn cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho mọi
người (cf. 1:79, 2:14-29, 7:50, 8:48, 12:51, 19:38). Chấp nhận Tin Mừng là có
bình an: “Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với
người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em.” Điều Chúa Giêsu muốn
ám chỉ ở đây là sự bình an trong các môn đệ có năng lực làm cho người khác cũng
cảm thấy được bình an.
3.3/ Môn
đệ là sứ giả của Nước Trời.
(1) Đừng
tìm kiếm những sự thế gian: Nhiều người nói “nếu không đem theo tiền bạc và bao
bị thì lấy gì mà ăn.” Nói như thế là khinh thường sự quan phòng của Thiên Chúa.
Ngài coi các môn đệ là những người làm cho Ngài, và “thợ làm đáng được trả công
đời này” (1 Tim 5:18; cf. 1 Cor 9:7-14). Tuy nhiên, Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh:
“người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó.” Người rao giảng không
được đòi hỏi, họ phải có khả năng ăn thức ăn của địa phương dâng tặng. Họ cũng
không thể sống theo luật kosher của Do-thái nữa. Người môn đệ cũng “đừng đi hết
nhà nọ đến nhà kia” để tìm lợi nhuận vật chất hay chỗ ăn ở sung sướng hơn.
(2)
Làm cho triều đại Thiên Chúa mau đến: Chúa Giêsu nhắc lại bổn phận chính của
người môn đệ: “Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ:
"Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông."” Triều đại của Thiên Chúa
đã đến với sự xuất hiện của Đức Kitô và các môn đệ loan báo Tin Mừng này đến
cho mọi người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mục
đích của cuộc đời chúng ta là hướng tới Jerusalem trên trời, nơi Thiên Chúa sẽ
lau khô mọi giòng lệ, đau khổ và chết chóc sẽ không còn, và chúng ta sống hạnh
phúc bên Ngài muôn đời.
- Để
đạt được mục đích đó, chúng ta phải tin tưởng vào Đức Kitô. Ngài đến để xóa tội
lỗi cho chúng ta và giao hòa chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta cần tuân giữ những
dạy dỗ của Ngài.
- Sứ
vụ của chúng ta ở đời này là lo sao cho mình và mọi người được hưởng ơn cứu độ
của Thiên Chúa. Chúng ta đừng để mình bị lôi cuốn vào những thú vui tạm bợ đời
này.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
03/06/16 CHÚA NHẬT TUẦN 14 TN – C
Lc 10,1-12.17-20
Lc 10,1-12.17-20
Suy niệm: Người đi đường cần phải mang theo bao bị, túi xách. Đi càng lâu càng
xa, bao bị càng lớn, va li càng to. Vậy mà Đức Giê-su lại căn dặn người môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng không túi tiền giắt lưng, cũng chẳng bao bị, túi xách, va li. Lỡ hết tiền dọc đường chẳng lẽ ngửa tay xin? Không có đồ dùng cá nhân thì lấy gì lo cho những nhu cầu tối thiểu? Chúng ta cần phải hiểu đúng lời Đức Giê-su, Ngài muốn hành trang người tông đồ phải là hành trang gọn nhẹ, đơn giản hết sức. Đúng hơn nữa, hành trang ấy phải là lòng yêu mến Thiên Chúa, tâm tình nhiệt thành đối với các linh hồn, những con người chưa biết Tin Mừng Nước Trời. Chính lòng yêu mến Chúa và công cuộc Nước Trời mới là hành trang cho sinh hoạt mỗi ngày của những ai muốn làm tông đồ.
Mời Bạn: Hãy ghi nhớ lời Thánh Gandhi: “Một vật cứng rắn đên đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh.” Bạn sẽ làm gì để lửa yêu mến các linh hồn làm tan chảy sự dửng dưng của bạn đối với công cuộc truyền giáo và sau đó làm tan chảy các tâm hồn khác?
Chia sẻ: Tại sao cuộc sống của tôi chưa là lời chứng về Tin Mừng Chúa Ki-tô cho người chung quanh?
Sống Lời Chúa: Gia đình
tôi sẽ kết nghĩa với một gia đình ngoài Công giáo để cầu nguyện cho họ, bắc nhịp cầu thông cảm, để nhờ đó chia sẻ tình yêu Chúa với họ.
Cầu nguyện: Sốt sắng hát bài: “Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán...” để cầu cho việc truyền giáo.
ANH EM HÃY RA ĐI
Hôm nay, khi xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương chúng ta tiếp tục đẩy lui Satan, để Nước Chúa lớn lên trên mặt đất này, và trở nên viên mãn trong ngày sau hết.
Suy niệm:
Ai được mời gọi gặt lúa?
Không phải chỉ là nhóm Mười Hai tông đồ,
mà là 72 môn đệ;
không phải chỉ là 12 chi tộc Israel,
mà là mọi người thuộc mọi dân nước.
Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít.
Mọi Kitô hữu đều được mời làm thợ gặt.
Cả linh mục, tu sĩ, giáo dân
đều được sai đến với cánh đồng hôm nay.
Một lời rao giảng làm rộn lên niềm vui:
Nước Thiên Chúa đã đến gần anh chị em.
Một lời chào thân thiện:
Bình
an cho nhà này.
Một
thứ hành trang nhẹ tênh:
không
túi tiền, bao bị, giày dép.
Một
việc phải làm:
chữa
lành những người ốm đau.
Một
thái độ phải có:
khiêm
tốn và siêu thoát,
đón
nhận những gì người ta cung cấp cho,
không
tìm kiếm tiện nghi, dễ chịu.
Nếu
hôm nay Ðức Giêsu sai chúng ta đi,
Ngài
sẽ dặn chúng ta điều gì?
Chắc
Ngài sẽ dặn khác,
vì
cánh đồng con người đã đổi khác.
Chúng
ta phải hiểu thấu nỗi khát vọng của bạn bè,
phải
biết nói sao để họ hiểu được,
nhạy
cảm để thấy điều họ thực sự đang cần,
và sống
hài hòa với lời mình giảng.
Có thể
chúng ta sẽ đi giày, và có ba, bốn áo,
sẽ có
ví tiền và máy vi tính xách tay,
sẽ có
văn phòng, máy fax và điện thoại.
Nhưng
những thứ đó không làm chúng ta nặng nề.
Hành
trang không được trở thành những cản trở
khiến
ta mất sự tín thác vào Thiên Chúa
và xa
lạ với con người,
nhất
là những người nghèo khổ.
Hôm
nay Chúa sai chúng ta làm chứng giữa đời,
đôi
khi ta thấy mình như chiên non giữa bầy sói.
Chúng
ta cứ phải trăn trở hoài
để
Tin Mừng chúng ta rao giảng cho bạn bè
thực
sự đáp ứng những khát khao thầm kín của họ:
khát
khao an bình, tự do, niềm tin và hạnh phúc,
khát
khao tình huynh đệ, sự chia sẻ, tha thứ, cảm thông;
để những
việc chúng ta làm cho họ
xoa dịu
được nỗi đau nhức nhối,
và giải
phóng họ khỏi xiềng xích của ác thần,
đang
nô lệ hoá con người dưới muôn vàn hình thức.
Các
môn đệ hớn hở mừng vui
khi lần
đầu tiên họ trừ được quỷ nhân danh Thầy.
Vương
quốc của Satan bị đẩy lui
bởi
những con người bình thường và yếu đuối.
Hôm
nay, khi xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương
chúng ta tiếp tục đẩy lui Satan,
để Nước
Chúa lớn lên trên mặt đất này,
và trở
nên viên mãn trong ngày sau hết.
Cầu
nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với
niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết
nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy
lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của
bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế
giới thật bao la
mà
vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin
dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà
tin tưởng lên đường,
nhẹ
nhàng và thanh thoát.
Lm
Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
03 Tháng Bảy
Vị Tiên Tri Cô Ðộc
Người Ấn Ðộ có kể lại câu
chuyện ngụ ngôn sau đây:
"Vì tội lỗi của loài
người, Thượng đế dọa sẽ trừng trị họ bằng một trận động đất. Ðất sẽ nứt nẻ và
nước sẽ rút hết vào trong lòng đất... Một thứ nước độc sẽ tràn ngập mặt đất. Ai
uống vào sẽ trở nên bất bình thường.
Một vị tiên tri nọ đã không xem thường lời đe dọa của Thượng đế. Ông chuẩn bị đương đầu với biến cố bằng cách từng ngày đem nước lên một ngọn núi cao. Số nước dự trữ đủ cho ông sống đến ngày tàn của cuộc đời...
Một vị tiên tri nọ đã không xem thường lời đe dọa của Thượng đế. Ông chuẩn bị đương đầu với biến cố bằng cách từng ngày đem nước lên một ngọn núi cao. Số nước dự trữ đủ cho ông sống đến ngày tàn của cuộc đời...
Ðộng đất đã xảy đến, bao
nhiêu sông nước trên mặt đất đều bốc hơi, một thứ nước khác được thay thế vào.
Một tháng sau, vị tiên tri
trở lại đất bằng để xem những gì đang xảy ra cho loài người. Ðúng như lời đe
dọa của Thượng đế, mọi người sống trên mặt đất đều hóa ra điên dại. Nhưng kỳ lạ
thay, loài người không ý thức được tình trạng điên dại của mình. Trái lại, ai
cũng muốn ra đường để chế diễu vị tiên tri vì họ cho rằng ông mới là người điên
dại...
uồn tình, vị tiên tri trở
lại chốn núi cao của mình. Ông sung sướng vì nước dự trữ vẫn còn và ông vẫn là
người duy nhất còn có một tâm trí lành mạnh, bình thường...
Nhưng ngày qua ngày, ông
cảm thấy không chịu nổi sự cô đơn của mình. Ông khao khát được sống một cách
bình thường với những người đồng loại. Thế là một lần nữa, ông trở lại đồng
bằng. Và một lần nữa, ông lại bị dân chúng ruồng rẫy, vì họ cho rằng ông không
còn giống họ nữa.
Không còn chịu được sự hắt
hủi của những người đồng loại, vị tiên tri đã đổ hết số nước dự trữ của mình và
ông uống lấy nước mới của người đồng loại để cũng trở nên điên dại như
họ..."
Con đường dẫn đến chân lý
không phải là con đường rộng thênh thang. Người đi tìm chân lý thường là người
cô độc...
Hôm nay chúng ta kính nhớ
thánh tông đồ Toma. Ai cũng biết lời bất hủ của Toma khi tuyên bố về sự sống
lại của Chúa: Nếu tôi không xỏ tay tôi vào lỗ đinh và cạnh sườn Ngài, tôi không
tin... Theo phương pháp khoa học, nhiều người đã lấy câu nói của Toma làm châm
ngôn cho việc đi tìm chân lý. Nghĩa là, nếu tôikhông kiểm chứng được, nếu tôi
không sờ mó được, tôi không chấp nhận điều đó là đúng...
Thái độ đó chưa hẳn là thái
độ thực tiễn trong cuộc sống. Giá trị cao cả nhất trong cuộc sống: đó là sự tin
tưởng, tín nhiệm đối với người khác. Ðau yếu, chúng ta đi mua thuốc, chúng ta
buộc phải tin tưởng ở người bán thuốc. Lạc đường, chúng ta buộc phải tin tưởng
ở lòng thành thật của người chỉ lối...
Thái độ đó càng đúng hơn
trong lĩnh vực Ðức Tin... Chúng ta tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu không
phải vì chúng ta đã thấy Người hiện ra, nhưng chỉ vì lời chứng của các tông đồ,
của các tiền nhân... Một thái độ như thế đòi hỏi rất nhiều phấn đấu của lý trí.
Lắm khi, chung ta chỉ là một thiểu số cô độc.
Chúng ta dễ dàng rơi vào nỗi
cô độc của những người đang đi tìm chân lý. Người Kitô thường phải đi ngược
dòng. Ðiều người đời cho là bất bình thường, có lẽ phải là cái bình thường đối
với người Kitô. Ðiều người đời cho là yếu nhược, có khi phải là sức mạnh của
người Kitô. Ðiều người đời cho là điên dại, có khi phải là lẽ khôn ngoan của
người Kitô.
Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét