04/08
Thứ năm đầu tháng, tuần 18 thường niên
Thánh Gioan Maria Vianê, linh mục. Bổn mạng
các Linh mục.
Lễ nhớ.
* Thánh nhân sinh năm 1786 tại Lyon. Sau biết bao khó khăn gian khổ, người làm linh mục và được giao phó nhiệm vụ làm cha sở họ Ars thuộc giáo phận Benle. Người quả là vị mục tử gương mẫu: hoàn toàn lo việc loan báo lời Thiên Chúa, giải tội, cầu nguyện và hãm mình. Có nhiều lúc, khuôn mặt người rạng rỡ khác thường, nhờ tình yêu bắt nguồn từ bí tích Thánh Thể mà người đem hết lòng sốt sắng để vừa cử hành, vừa thờ phượng. Người qua đời năm 1859.
BÀI ĐỌC I: Gr 31, 31-34
"Ta sẽ ký kết giao ước mới và Ta
sẽ không còn nhớ tội lỗi nữa".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Chúa phán: "Đây tới ngày Ta
ký kết giao ước mới với nhà Israel và nhà Giuđa, giao ước này không giống như
giao ước Ta ký kết với tổ phụ chúng trong ngày Ta cầm tay chúng dắt ra khỏi đất
Ai-cập, giao ước ấy chính chúng đã phản bội, mặc dầu Ta thống trị chúng".
Chúa phán: "Đây là giao ước Ta sẽ ký kết với nhà Israel sau những ngày đó.
Ta sẽ đặt lề luật của Ta trong đáy lòng chúng, và sẽ ghi trong tâm hồn chúng;
Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta". Chúa phán: "Người
này sẽ không còn phải dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em rằng: 'Ngươi
hãy nhìn biết Chúa', vì mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Ta, vì Ta sẽ tha
tội ác của chúng, và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng". Đó là
lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 50, 12-13. 14-15.
18-19
Đáp: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho
con quả tim trong sạch (c. 12a).
Xướng: 1) Ôi lạy Chúa, xin tạo
cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con.
Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi
con. - Đáp.
2) Xin ban lại cho con niềm vui
ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường
nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài. - Đáp.
3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh
lễ; nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa,
là tâm hồn tan nát; lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát, khiêm cung.
- Đáp.
ALLELUIA: Tv 144, 13cd
Alleluia, alleluia! - Chúa trung
thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. -
Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 16, 13-23
"Con là Đá, Thầy sẽ ban cho con
chìa khoá nước trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt
thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người
là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là
Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Chúa Giêsu nói
với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa
rằng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Chúa Giêsu trả lời
rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay
máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo
cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa
ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước trời. Sự gì con cầm
buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời
cũng cởi mở". Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người
là Đức Kitô.
Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ
cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi
các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại.
Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: "Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy
khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu". Nhưng Người quay lại bảo Phêrô
rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy: con làm cho Thầy vấp phạm, vì
con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc
về loài người". Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
Suy niệm : Vác Thập Giá Theo Chúa Giêsu
Có lẽ chúng ta quá quen thuộc với
hình ảnh của Thập giá. Nơi nào có người Kitô hữu thì nơi đó có Thập giá. Vào thời
Chúa Giêsu, Thập giá là một cực hình làm cho con người khiếp sợ, tủi hổ. Hằng
ngày, người Do thái chứng kiến cảnh các tội nhân vác những khúc gỗ lớn tuần
hành qua các khu phố trước khi đến Núi Sọ; những khúc gỗ sần sùi ấy sẽ được sử
dụng để treo chính các tội nhân.
Chúa Giêsu đã loan báo về cái chết
của Ngài, đồng thời mời gọi các môn đệ Ngài cũng hãy vác Thập giá của mình để
tiến bước theo Ngài. Theo Chúa Giêsu, đó là lời mời gọi cốt yếu của Kitô giáo.
Vì sự nghiệp, vì lý tưởng, người ta có thể hy sinh mạng sống của mình. Một người
vô tín ngưỡng có thể vì lý tưởng dám hy sinh tất cả cuộc đời của mình; thế
nhưng điểm chính yếu của Tin Mừng lại là một con người, đó là Chúa Giêsu Kitô.
Ðời sống Kitô giáo chỉ có thể là đời sống, nếu nó được tiếp tục nuôi dưỡng bởi
con người Chúa Kitô như là nguồn mạch của sự sống.
Chúng ta ghi dấu Thánh giá trên
người chúng ta, chúng ta mang Thánh giá trong người chúng ta, đó không là dấu
hiệu của sự chết, nhưng là biểu dương của một sức sống của Ðấng đã chết, đã phục
sinh và đang tác động trong chúng ta. Nói như thánh Phaolô: "Tôi sống,
nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi". Chúa
Kitô sống trong chúng ta để tiếp tục và hoàn tất công trình cứu rỗi của Ngài.
Chúa Kitô đã vác Thập giá và đã chết một lần, cuộc Tử nạn ấy cần phải đươc tiếp
tục qua các Kitô hữu. Cũng chính thánh Phaolô đã nói: "Tôi cần phải bổ
khuyết những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Chúa Kitô".
Thập giá đang được vẽ lại dưới
muôn nghìn hình thức. Chúa Kitô đang tiếp tục vác Thập giá với những người đang
bị giam giữ một cách bất công, những người bị tước đoạt quyền sống, những người
bị tra tấn và hành hạ. Chúa Kitô đang tiếp tục cuộc tử nạn của Ngài qua con người
chúng ta. Người Kitô hữu chịu gian khó thử thách vì ý thức rằng Chúa Kitô đang
sống trong chúng ta.
Xin cho Lời Chúa và sức sống của
Chúa nâng đỡ chúng ta, để giữa những đau khổ, thử thách của cuộc sống hiện tại,
chúng ta luôn kiên vững và an vui.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin
Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 18 TN2
Bài đọc: Jer 31:31-34; Mt 16:13-23
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Giao ước giữa Thiên Chúa và con người
Giao ước được thiết lập là do sự
thỏa thuận của hai bên về một số những điều phải giữ: ví dụ: giao ước hôn nhân,
khấn dòng. Nếu một bên vi phạm, giao ước sẽ không còn hiệu lực. Các bài đọc hôm
nay đề cập đến những giao ước Thiên Chúa đã thực hiện với con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự khác biệt giữa hai giao ước: cũ và mới.
1.1/ Giao ước cũ: Giao ước này được thiết lập trên núi Sinai, khi Chúa đưa Israel
ra khỏi Ai Cập và dẫn họ vào Đất Hứa. Chúa hứa nếu họ trung thành với Chúa và
giữ Luật Chúa truyền, họ sẽ là dân riêng Chúa, và Chúa sẽ bảo vệ họ khỏi mọi
quân lân bang xâm lấn.
Nhưng Israel đã hủy bỏ giao ước
này như tiên tri Jeremiah tuyên sấm hôm nay: “Chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của
Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng.” Họ đã không trung thành với Chúa khi chạy
theo các thần ngọai bang để thờ phượng chúng. Họ đã không tuân giữ các điều răn
Chúa truyền bằng lối sống bất công và vô luân.
1.2/ Giao ước mới: Thay vì chia tay để con người chết trong tội, Thiên Chúa chọn để
thiết lập một giao ước mới khi tuyên sấm hôm nay: “Này sẽ đến những ngày Ta sẽ
lập với nhà Israel và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta
đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập.”
Đây là nội dung của giao ước mới:
“Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ
là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy
bảo nhau, kẻ này nói với người kia: "Hãy học cho biết Đức Chúa," vì hết
thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta. Ta sẽ tha thứ tội ác cho
chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa. Israel sẽ tồn tại mãi.”
2/ Phúc Âm: Giao ước mới giữa Chúa Giêsu và Hội thánh qua trung gian của
Phêrô.
2.1/ Người ta bảo Thầy là ai? Bối cảnh lịch sử và địa dư của Caesar Philippi: Có hai nơi gọi
là Caesar trên Đất Thánh: một gọi là Caesar Maritime, nằm gần bờ biển
Mediteranean, và một gọi là Caesar Philippi vì nó nằm trong vùng thuộc tiểu
vương Philip, một trong ba người con của Vua Herode. Nơi này cách Biển Hồ
Galilee khỏang 25 miles về phía Đông Bắc, giáp biên giới với Syria, và được gọi
là Banias ngày nay. Đây là vùng rất khác biệt với tất cả các nơi khác trong Đất
Thánh: Điểm khác biệt đầu tiên là nước ở khắp mọi nơi, vì nó nằm dưới chân rặng
núi Hermon, và khi tuyết chảy đều tập trung về đây lập thành đầu nguồn của sông
Jordan trước khi chảy vào Biển Hồ Galilee.
Nơi đây là trung tâm của nhiều
tôn giáo vì tính rất linh thiêng của nó: Thánh Vịnh 42:6 và 133:3 nhắc nhở cho
mọi người Do-thái phải nhớ đến Chúa khi đến đây, vì sông Jordan là huyết mạch
không thể thiếu trong đời sông của người dân. Nó là phúc lành và sức sống Chúa
ban cho dân. Nơi đây cũng có khỏang 14 đền thờ của người Syria vì họ đã từng cư
ngụ nơi này. Lại là nơi thờ thần Pan, thần thiên nhiên của người Hy-lạp khi họ
đô hộ nơi này. Nơi thờ thần Pan là một cái động khổng lồ: đỉnh là một ngọn núi,
chân là một vực thẳm rất sâu chứa đầy nước. Nơi đây, Philip cũng cho xây một đền
thờ khổng lồ bằng đá cẩm thạch trắng trên núi để thờ hòang đế Caesar.
Đứng trước một trung tâm huyền
bí và qui tụ rất nhiều các thần như nơi này, con người không khỏi lẫn lộn khi đặt
cho mình một câu hỏi: Đâu là sự thật? Thần nào là thần phải thờ? Chúa Giêsu có
ý định đặt câu hỏi để bắt các môn đệ phải tìm ra câu trả lời. Hơn nữa, hai sứ vụ
chính của Ngài khi xuống thế là (1) mặc khải cho con người biết tất cả những gì
Thiên Chúa muốn, và (2) huấn luyện các môn đệ để tiếp tục sứ vụ của Ngài trên
trần gian. Đây là giờ phút quan trọng vì Ngài sắp sửa lên Jerusalem để chịu chết
và hoàn thành sứ vụ của Ngài trên trần gian, nên Ngài cần phải biết chắc chắn
những môn đệ của Ngài có hiểu sứ vụ của Ngài, nhất là biết rõ Ngài là ai trước
khi có thể tiếp tục sứ vụ khi Ngài đã về trời.
Vì thế, Ngài bắt đầu bằng câu hỏi:
"Người ta nói Con Người là ai?" Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông
Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Elijah, có người lại cho là ông Jeremiah hay một
trong các vị ngôn sứ." Tiểu vương Herode Antipas đã gọi Chúa Giêsu là
Gioan Tẩy Giả sống lại từ cõi chết (Mt 14:2). Khi gọi Chúa là Eliiah, họ đã nhận
ra phần nào sự quan trọng và uy quyền của Chúa vì người Do Thái tin tiên tri
Eliiah chưa chết và sẽ trở lại trước thời Đấng Messiah sẽ tới (Mal 4:5). Họ vẫn
để một ghế trống trong hội đường cho tiên tri khi họ cử hành Lễ Vượt Qua. Cũng
vậy, khi gọi Chúa là Jeremiah vì họ cũng tin ông sẽ tới trước thời Đấng
Messiah. Truyền thống tin là Jeremiah đã vào Đền thờ Jerusalem trước khi đi lưu
đày bên Babylon để lấy Hòm Bia và hương án đem giấu trên núi Nebo và sẽ trở lại
để “đúc lại” hai thứ này để Thiên Chúa tiếp tục hiện diện với Dân Người (2 Mac
2:1-12). Như thế, khi gọi Chúa Giêsu là Elijah hay Jeremiah, họ không tin Chúa
Giêsu là Đấng Messiah, mà chỉ là tiên tri đến dọn đường trước khi Đấng Messiah
đến. Nếu các môn đệ cũng tin như thế thì Chúa Giêsu sẽ thất bại!
2.2/ Các con bảo Thầy là ai? Vì vậy, giờ phút quyết liệt đã tới, Chúa Giêsu lại hỏi:
"Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Simon Phêrô thưa: "Thầy
là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." Chúa Giêsu nói với ông: "Này
anh Simon con ông Jonas, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc
khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.”
Đấng Kitô, Christ (tiếng Hy-lạp)
chính là Đấng Messiah (tiếng Do-thái), có nghĩa là Đấng được xức dầu để làm vua
mà toàn dân Do-thái đang mong đợi. Đây là câu trả lời Chúa Giêsu mong muốn,
nhưng Chúa muốn cho Phêrô biết lý do tại sao ông biết điều mà người khác không
biết: vì ông đã được mặc khải bởi Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Lý do này cũng
được tuyên bố bởi Phaolô: Không ai có thể tuyên xưng Đức Kitô là Chúa mà không
do Thánh Thần (I Cor 12:3).
Vì Phêrô đã đại diện các tông đồ
để tuyên xưng con người đích thực của Chúa Giêsu, nên Ngài có thể an tâm sẽ có
người kế vị để tiếp tục công việc Ngài đã khởi sự. Và Chúa Giêsu thiết lập giao
ước mới với Phêrô: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Đá,
trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng
nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì,
trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời
cũng sẽ tháo cởi như vậy." Rồi Người cấm ngặt các môn đệ không được nói
cho ai biết Người là Đấng Kitô.
Từ lúc đó, Chúa Giêsu Kitô bắt đầu
tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Jerusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các
kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống
lại. Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: "Xin Thiên
Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!" Điều trên xảy ra cho Phêrô,
chúng ta có thể hiệu được theo tính loài người: vì tuy Phêrô đã biết căn tính của
Chúa là Đấng Thiên Sai phải đến, nhưng cũng như bao người Do-thái đương thời,
ông nghĩ Chúa sẽ dùng uy quyền Thiên Chúa để thống trị các dân tộc. Vì thế, một
Thiên Chúa phải cứu độ qua con đường đau khổ của Thập Giá là chuyện ông không
thể tưởng tượng có thể xảy ra.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Trung thành với giao ước là điều
kiện tiên quyết để được Thiên Chúa bảo vệ.
- Người khác có thể dạy cho
chúng ta biết về Chúa, nhưng để nhận ra Chúa Giêsu là ai và tin vào Ngài đòi hỏi
mối liên hệ của chúng ta với Chúa và phải được trợ giúp của Chúa Cha hay Thánh
Thần.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên,
OP
04/08/16 THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TUẦN 18 TN
Th. Gio-an Ma-ri-a Vi-a-nê, linh mục
Mt 16,13-23
Th. Gio-an Ma-ri-a Vi-a-nê, linh mục
Mt 16,13-23
Suy niệm: Người ta nói Đức Giê-su
là ngôn sứ. Điều này không sai, vì Đức Giê-su đến trần gian Người đảm nhận sứ vụ ngôn sứ, là truyền đạt lời Chúa Cha cho nhân loại. Tuy nhiên, Đức Giê-su còn hơn cả ngôn sứ. Người là Đấng được xức dầu làm vua và làm Chúa; Người là Thiên Chúa. Do đó, câu trả lời của Phê-rô: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” là rất chính xác.
Mời Bạn: Chúng ta có thể lấy câu nói của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” làm câu trả lời cho câu hỏi Đức Giê-su là ai. Tuy nhiên, nếu chỉ biết Đức Giê-su bằng một câu trả lời suông như thế chỉ là biết theo lý thuyết. Trong
khi cái biết sâu sắc về Đức Giê-su là cái biết của thực hành, của việc đi theo Đức Giê-su và nên một với Người trong cuộc thương khó, trong cái chết và phục sinh.
Chia sẻ: Bạn cảm nghiệm thế nào khi liên kết đau khổ của mình với cuộc thương khó của Đức Giê-su?
Sống Lời Chúa: Nhẩm đi nhẩm lại câu: Đối với tôi Đức Giê-su là ai?
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, con đường Chúa đi là đường thương khó và phục sinh, xin cho chúng con can đảm chứng minh rằng chúng con biết Chúa bằng cách chia sẻ cuộc thương khó và phục sinh với Chúa.
Anh là tảng đá
Cám dỗ tránh con đường hẹp của khổ đau, nhục nhã, thất bại, khó nghèo là cám dỗ muôn thuở của Giáo hội mọi thời.
Suy niệm:
Chúng ta đã quen cầu nguyện cho
Đức giáo hoàng với bài hát:
“Này con là đá, trên viên đá này
Ta xây Giáo hội…”
Theo Tin Mừng Gioan, ngay từ lần
đầu gặp gỡ (Ga 1, 42),
Đức Giêsu đã đặt cho anh Simon một
tên mới: Kêpha, nghĩa là Đá.
Trong bài Tin Mừng bằng tiếng Hy
Lạp, Đức Giêsu nói với Simon:
“Anh là Petros (Phêrô), và trên
petra (đá) này, Thầy sẽ xây Giáo Hội Thầy.”
Rất có thể Ngài đã nói với Simon
bằng tiếng Do Thái thời của Ngài như sau:
“Anh là Kêpha, và trên kêpha này
Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy.”
Người Do Thái hầu như không có
thói quen đặt tên con là Đá, Kêpha.
Khi đặt cho Simon cái tên lạ, Đức
Giêsu đã muốn trao sứ mạng cho anh.
Anh sẽ là nền cho ngôi nhà mới của
Thầy, do tay Thầy xây dựng (c. 18).
Ngôi nhà ấy chính là Giáo hội,
là cộng đoàn giao ước mới do Thầy lập nên.
Chúng ta rất ngạc nhiên vì Đức
Giêsu muốn đặt nền trên Kêpha (Phêrô),
một con người bình thường, một
ngư phủ ít học.
Làm sao Giáo hội có thể xây nền
trên một con người yếu đuối như thế?
Kêpha vững như bàn thạch không
nhờ sức riêng, nhưng nhờ ơn Chúa.
Quyền lực của Tử thần, của Ác thần
không thắng được cộng đoàn này.
Bất chấp những tấn công trong
ngoài từ hai mươi thế kỷ qua,
Giáo hội vẫn đứng vững trên nền
đá Phêrô, anh ngư phủ vùng Galilê,
đơn giản vì Chúa phục sinh vẫn
luôn ở với Giáo hội (Mt 28, 20),
và vẫn tiếp tục xây dựng Giáo hội
của Ngài trong sự thăng trầm của lịch sử.
Nhưng Phêrô cũng có những yếu đuối
của mình.
Khi Thầy Giêsu loan báo về con
đường khổ nạn và cái chết sắp đến,
Phêrô không thể chấp nhận được
con đường hẹp này.
Dù đã được Cha mặc khải để biết
Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa,
nhưng Phêrô lại chưa thể hình
dung được một đấng Kitô thất bại ê chề.
“Xin Thiên Chúa thương đừng để
Thầy gặp phải chuyện ấy” (c. 22).
Nếu Thầy là Con Thiên Chúa, thì
Cha chẳng để Thầy phải chịu như vậy.
Trong phút chốc, từ Đá Tảng vững
chắc (kêpha, petra)
Phêrô trở thành viên đá làm cho
Thầy vấp phạm (scandalon),
trở thành cơn cám dỗ lớn cho Thầy
đến từ Satan (c. 23).
Đức Giêsu đã phản ứng mạnh mẽ đối
với anh môn đệ mà Ngài tin tưởng.
“Lui đi sau Thầy!”: Ngài nói giống
như lần bị cám dỗ bởi Satan (Mt 4, 10).
Ngài muốn Phêrô trở lại vị trí
đi sau của người môn đệ.
Cần có thời gian Phêrô mới hiểu
được con đường Thầy đã đi.
và tự nguyện đón lấy cái chết thập
giá mà chính Thầy đã chịu.
Cám dỗ tránh con đường hẹp của
khổ đau, nhục nhã, thất bại, khó nghèo
là cám dỗ muôn thuở mà Thầy
Giêsu và anh Phêrô đã trải qua,
cũng là cám dỗ muôn thuở của
Giáo hội mọi thời.
Làm thế nào để chúng ta nghĩ như
Thiên Chúa, chứ không như thế gian,
chọn sự ngu dại của Thập Giá hơn
là sự khôn ngoan người đời (x. 1 Cr 1, 25)?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Xin nhìn đến Hội Thánh của Chúa
trên khắp hoàn cầu,
Hội Thánh Chúa đã lập bằng rất
nhiều tình yêu.
Xin nhìn đến những nơi thiếu nhà
thờ, cần chủ chăn,
những đồng lúa chín vàng chờ người
gặt.
Xin nhìn đến những thánh đường vắng
bóng giáo dân,
những chủng viện và tập viện phải
đóng cửa vì thiếu ơn gọi.
Xin thương những kitô hữu đang bị
bách hại ở nhiều nơi,
và bao người trẻ mất
đức tin, mất niềm hy vọng vào Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
Hội Thánh sau hai ngàn năm đã lớn
mạnh hơn nhiều,
nhưng vẫn bị đe dọa bởi bao sóng
gió bên ngoài và bên trong.
Xin cho Hội Thánh biết không ngừng
canh tân nhờ Thánh Thần,
để có thể đồng hành và đối thoại
với con người hôm nay.
Xin cho các kitô hữu sống thánh
thiện như Cha trên trời.
để những khiếm khuyết của chúng
con khỏi làm cớ cho nhiều người bỏ Chúa.
Cuối cùng, xin Chúa cho Hội
Thánh chúng con những vị thánh mới,
tươi tắn, khiêm hạ và nhân từ
như Chúa,
để cuộc sống ngát hương của họ
khiến Hội Thánh đáng tin hơn,
và chinh phục được những tâm hồn
chưa biết Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4 THÁNG TÁM
Chúng Ta Không Đau Khổ Một Mình
Đối với câu hỏi bằng cách nào
hòa giải sự dữ và đau khổ trên trần đời với chân lý về sự quan phòng của Thiên
Chúa, chúng ta không thể đưa ra một câu trả lời đầy đủ mà không qui chiếu đến Đức
Kitô. Một đàng, qua cuộc sống khó nghèo và khiêm nhường của Người – và nhất là
qua cuộc Khổ Nạn và cái chết của Người – Đức Kitô xác nhận rằng Thiên Chúa có mặt
với mọi người trong đau khổ của họ.
Hơn th ế nữa, Đức Kitô đã đảm nhận
nơi chính Người tất cả những đau khổ của cuộc hiện sinh con người trên trái đất
này. Đồng thời, Đức Giê-su Kitô mạc khải rằng đau khổ ấy có một giá trị và năng
lực cứu độ. Trong đau khổ ấy có sự chuẩn bị của “một gia tài không thể hư hại,
tàn phai” mà Thánh Phêrô đề cập đến trong Thư thứ nhất của ngài: “một gia tài
được giữ trên trời cho anh em” (1Pr 1,4).
Như vậy, chân lý về sự quan
phòng đạt được ý nghĩa cánh chung cuối cùng của nó xuyên qua “sức mạnh và sự
khôn ngoan” của Thập Giá Đức Kitô. Câu trả lời đầy đủ cho vấn đề sự dữ và đau
khổ được cung ứng bởi mạc khải của Thiên Chúa qua sự tiền định nơi Đức Kitô. Vì
sự tiền định này cho ta thấy rằng ơn gọi của con người là đạt đến sự sống vĩnh
cửu – tức tham dự vào trong chính sự sống của Thiên Chúa. Và đây là câu trả lời
chính xác mà Đức Kitô đã đem lại cho chúng ta. Người đã xác nhận câu trả lời
này qua Thập Giá và cuộc Phục Sinh của Người.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John
Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 04 – 8
Thánh Gioan Maria Vianney, linh
mục
Gr 31,31-34; Mt 16,13-23.
Lời suy niệm: “Khi Đức Giêsu đến
vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: Người ta nói
Con Người là ai?”
Trước khi Chúa Giêsu lên
Giêrusalem để đi vào cuộc tử nạn trên Thập Giá, Người muốn biết các Tông Đồ đã
nhận ra Người là ai, nhưng Người tế nhị không hỏi trực tiếp với các ông bằng
cách Người đặt câu hỏi: “ Người ta bảo Thầy là ai?” Các Tông Đồ đã thành thật
trình bày: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại
cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ”. Với quan niệm này, đám đông
dân chúng đã xem Người là một vị tôn sư tột đỉnh, ngang hàng với các ngôn
sứ lỗi lạc nhất. Sau khi đã nghe các ông trình bày, Người mới đặt câu hỏi với
các Tông Đồ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Ông Simon Phêrô thưa: “Thầy
là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”
Lạy Chúa Giêsu. Chúa đang đòi hỏi
nơi mỗi người chúng con phải nhận ra Chúa là ai? Xin ban cho mỗi người chúng
con có sự ham thích học hỏi Giáo lý, học hỏi Kinh thánh và suy niệm Lời Chúa để
biết rõ Chúa và tình thương của Chúa đối với chúng con. Để hằng ngày chúng con
vui sống đức tin.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 04-08
Thánh GIOAN MARIA VIANEY
Linh Mục (1786 - 1859)
Gioan Maria Vianney sinh ngày 8
tháng 5 năm năm 1786 tại Dardilly. Cha mẹ Ngài là những nông dân trung kiên với
đức tin. Suốt thời cách mạng Pháp, họ thường bí mật tiếp rước các linh mục đến
trú ngụ. Vì vậy Gioan là một trẻ em có mặt trong các buổi lễ cử hành lén lút tại
lẫm lúa và được chứng kiến rất nhiều mẫu gương anh hùng với đức tin.
Năm lên 11, Gioan được cha
Greboz cho xưng tội lần đầu. Tháng 5 năm 1798 Gioan được mẹ dẫn sang nhà bà dì ở
Ecully để dọn mình rước lễ vỡ lòng. Mùa xuân năm 1799 Gioan cùng với 15 em khác
được rước lễ vỡ lòng trong một thánh lễ được cử hành giữa đống rơm. Ngài rước lễ
rất sốt sắng và đã giữ cho đến chết tràng chuỗi Mân côi kỷ niệm ngày hạnh phúc
này.
Năm 1800 thanh bình trở lại với
các tín hữu, khi Napoléon nhận biết rằng không có tôn giáo thì không có một tổ
chức nào có thể tồn tại vững bền được. Từ nhỏ Gioan đã muốn làm linh mục. Khi
bày tỏ ý định tốt đẹp này, Ngài đã 17 tuổi và mới chỉ qua bậc tiểu học. Mẹ Ngài
tán thành chí nguyện, nhưng cha Ngài với óc thực tế đã băn khoăn rất nhiều và
không chấp nhận. Mãi tới năm 1805, Gioan đến sống với cha Belley, họ Ecully.
Theo học với các bạn tuổi còn nhỏ, mà trí khôn Ngài lại quá trì trệ. Đã vậy vào
năm 1890, Ngài lại còn phải nhập ngũ. Năm sau Ngài may mắn được trở về nhà.
Năm 1810, Gioan gia nhập tiểu chủng
viện Verrières. Hai năm trôi qua, Ngài là một chủng sinh học hành rất kém. Dầu
vậy Ngài cũng nhận vào đại chủng viện. Tại đây chuyển ngữ là tiếng Latinh, mà
Gioan lại quá dở về môn này, khiến ban giám đốc khuyên thầy hồi tục. Không thất
vọng một lần nữa cha Balley đảm nhận việc dạy dỗ người chủng sinh gương mẫu
nhưng chậm trí này. Sau khi hoàn tất chương trình học, ngày 13 tháng 8 năm
1815, Gioan Maria Vianney thụ phong linh mục tại nguyện đường đại chủng viện
Grênoble. Ngài được gọi lên chức linh mục chính vì đời sống đạo đức.
Sau khi thụ phong, cha Gioan
Maria Vianney được cử làm phó xứ Ecully. Tháng 12 năm 1817, cha Balley qua đời,
cha Vianney được cử về làm chánh sở họ Ars. Khi bổ nhiệm, cha tổng đại diện nhắn
nhủ : - "Đây là một họ đạo nhỏ bé nghèo nàn, thiếu vắng tình yêu Chúa. Cha
hãy mang tình yêu đến cho họ".
Ngày 9 tháng 2 năm 1818 cha đến
xứ lần đầu với hành lý khiêm tốn chất trên một chiếc xe tay, gồm một chiếc giường
cũ, một rương sách và ít đồ vặt vãnh khác. Tới gần làng, Ngài dừng chân hỏi đường.
Bọn trẻ chăn chiên không hiểu tiếng nói khác với thổ ngữ chúng vẫn dùng nhưng
cũng đoán biết và chỉ lối cho cha. Khi biết được điạ sở, cha Gioan quì gối cầu
nguyện cho những người sẽ là đoàn chiên của mình. Tới nơi Ngài vào thẳng nhà thờ
và chìm trong kinh nguyện.
Nhà xứ Ars thật nghèo nàn với
vài đồ vật thật sơ sài. Chính cha sở trẻ họ đạo lại coi đời sống cầu nguyện hãm
mình là phương thế để thành công. Trong khi mọi người còn triền miên giấc điệp,
Ngài đã xách đèn từ nhà xứ sang nhà thờ để cầu nguyện. Trước nhà tạm, nhiều lần
với nước mắt ướt cả sàn nhà, Ngài tha thiết cầu nguyện : - Lạy Chúa, con xin
lãnh chịu tất cả, nhưng xin Chúa cải hóa họ đạo của con... Con bằng lòng chịu mọi
đau khổ như Chúa muốn, miễn sao họ biết hồi tâm hối cải.
Chìm đắm trong kinh nguyện, cha
Gioan không quan tâm tới nhu cầu thể xác, mà Ngài coi như cái thây ma. Ngủ đã
ít, Ngài lại thường nằm trên sàn nhà. Đồ đạc người ta dâng cúng, Ngài đem cho
người nghèo... Vui cười Ngài nói: - Tôi không hề mất áo choàng bao giờ. Chuyện
ăn uống Ngài cũng chẳng quan tâm đến, tự mình nấu ăn, Ngài chỉ nấu một nồi
khoai rồi treo lên tường.
Khi đói Ngài ăn một hai củ và củ
thứ ba là "để cho vui miệng". Nồi khoai thường để lâu cho đến nỗi những
củ cuối cùng thường bị mốc meo. Ngài hãm mình như vậy cho tới năm 1827, khi các
chị dòng Chúa quan phòng nấu ăn cho Ngài.
Hơn nữa thánh nhân còn tự ý hãm
mình. Mỗi đêm Ngài đều đánh tội trước khi ngủ. Trên tường phòng Ngài còn loang
lổ nhiều vết máu.
Với một đời sống cầu nguyện hy
sinh như vậy, thánh nhân nỗ lực canh tân họ đạo. Về xứ được ít lâu, Ngài sớm nhận
ra được ba tệ đoan trong họ đạo là sự lãnh đạm với việc đạo đức, thói quen làm
việc xác ngày Chúa nhật và tật ham khiêu vũ.
Để chấn hưng lại tình trạng suy
dồi kia, dĩ nhiên thánh nhân gia tăng lời cầu nguyện và việc hãm mình. Trong hoạt
động Ngài đi thăm viếng các gia đình. Sửa lại tình trạng thiếu hiểu biết về đạo,
Ngài lo dạy giáo lý cho trẻ em. Suốt 27 năm, cha thánh Gioan ngày nào cũng
trung thành với viêc dạy giáo lý. Đối với người lớn cha dọn bài giảng rất kỹ lưỡng.
Ngồi trong phòng thánh cạnh nhà tạm, cha viết bài giảng, Đêm thứ bảy cha học và
tập giảng - cho hôm sau lời giảng của cha rất đơn sơ, nhưng xoáy vào lòng người
nghe.
Chẳng hạn Ngài nói: - Không có
gì vững bền cả. Đời sống sẽ qua đi... danh giá cũng sụp đổ, của cải rồi sẽ tiêu
tan, sức khỏe cũng bị tấn công, chúng ta ra đi như làn gió.
- Càng cầu nguyện người ta càng
ham thích, như một con cá trồi lên mặt nước rồi chìm mình trở lại và luôn bơi
đi mãi. Linh hồn đắm chìm trong lời cầu nguyện sẽ mất hút trong sự êm dịu của
cuộc đàm thoại với Chúa.
Các câu chuyện nhỏ cha kể nhiều
khi có giá trị như một bài giảng. Chẳng hạn cha nói về một em nhỏ bị đau bịnh
:- Con đau đớn lắm không ?
Cậu bé trả lời "Hôm qua con không đau đớn gì và ngày mai con cũng hết khổ".
Cha hỏi lại : - Vậy con muốn được lành bệnh không ?
- Trước khi bệnh con hung dữ, khỏi bệnh con dám như vậy lắm. Để như thế nầy là tốt hơn cả.
Cậu bé trả lời "Hôm qua con không đau đớn gì và ngày mai con cũng hết khổ".
Cha hỏi lại : - Vậy con muốn được lành bệnh không ?
- Trước khi bệnh con hung dữ, khỏi bệnh con dám như vậy lắm. Để như thế nầy là tốt hơn cả.
Chống lại tật làm việc xác, cha
nói: - Ngày chủ nhật là của Chúa. Mà anh em ăn trộm cũng chẳng lợi ích gì cho
anh em. Tôi biết có hai phương thế chắc chắn để nên nghèo khó là làm việc ngày
Chúa nhật và lấy của kẻ khác.
Để chống lại tật ham khiêu vũ,
đã có lần cha đến giữa đám để giải tán. Lần khác cha bỏ tiền trả cho nhạc công
để anh rút lui. Tích cực hơn, cha lập hội Mân Côi để tập họp các thiếu nữ vào
việc thực hành đạo đức này.
Hơn nữa, trong họ có bảy quán rượu
cha hết sức khuyên nhủ và cả chúc dữ nữa để họ đổi nghề. Cuối cùng cả 7 quán đều
đóng cửa.
Thấy trọng trách của một chủ
chiên quá nặng nề. Đã bốn lần cha Gioan tìm cách trốn khỏi họ đạo. Nhưng rồi
cha đã bị phát giác, tiếng chuông reo vang và người ta đổ xô ra đường để giữ
cha lại. Nỗ lực của cha không dễ dàng được tiếp nhận. Người ta tìm nhiều cách để
vu khống cho cha nhiều tội tày trời. Thành công của cha khiến cho nhiều người
nghi ngờ và ghen tị, đến nỗi tòa giám mục phải mở cuộc điều tra. Sau nữa chính
quỉ dữ cũng phải công khai phá cha dưới nhiều hình thức như xê dịch đồ đạc, la
lối om sòm, hiện hình kỳ quái... đến độ đốt cháy cả giường nằm.
Nhớ lại tất cả những gì đã trải
qua, cha nói:
- Khi đến Ars, nếu biết được tất cả những gì tôi phải chịu chắc tôi chết liền.
- Khi đến Ars, nếu biết được tất cả những gì tôi phải chịu chắc tôi chết liền.
Nhưng ơn thánh Chúa đã nâng đỡ
Ngài. Mỗi ngày trong thánh lễ, Ngài được thấy chính Chúa Giêsu. Dần dần họ Ars
đã được biến đổi, hương thơm thánh thiện còn bay lan rộng ra khỏi ngôi làng bé
nhỏ và hẻo lánh này. Khách thập phương từ khắp nơi đổ xô đến, để được chiêm ngưỡng
một cha sở thánh thiện, để được nghe lời Ngài, để xưng tội. Cha Gioan đã làm
vui lòng mọi người.
Suốt hai mươi năm trời, cha như
chôn mình trong tòa giải tội, từ sau lễ tới 11 giờ trưa, rồi từ 1 giờ chiều tới
8 giờ tối. Sau này khi được qua đời, cha được chôn cất tại nhà nguyện thánh
Gioan tẩy giả, cạnh tòa giải tội mà người ta gọi là phép lạ lớn nhất ở Ars.
Tận tụy với các linh hồn, cha
Gioan cũng được ơn thấu tỏ lòng người. Ngày kia có một du khách tới Ars để đi
săn. Nhìn ông với con chó bên cạnh, Ngài nói : "Con chó của ông thật đẹp,
nhưng linh hồn chẳng đẹp tí nào". Cúi mặt người du khách vào toà xưng tội.
Một người đàn bà khác nghe cha
nói: "Ông ấy đã được rỗi. Giữa thành cầu và giòng nước, ông đã kịp ăn năn
tội...". Thế là cha đã biết nỗi lo âu sầu của bà, vì cái chết mới đây của
chồng bà. Ngài đã mang lại cho bà niềm an ủi khi cho biết rằng: nhờ những bó
hoa và vài lần cầu nguyện với vợ mỗi tháng Đức Mẹ, mà người chồng xấu số kia đã
được cứu rỗi.
Đời sống của cha Gioan là một mẫu
gương tận tụy vì Chúa và vì các linh hồn, Ngài thường nói: "Hạnh phúc cho
một vị linh mục được hao mòn vì Chúa và các linh hồn".
Quả thực, cha Gioan đã hao mòn
vì phụng sự. Ngày 2 tháng 8 năm 1859 cha chịu các phép bí tích sau hết. Ngày 4
tháng 8 năm 1859 cha trút hơi thở cuối cùng với sự mãn nguyện.
- Phải chết lành khi người ta sống trên thánh giá.
- Phải chết lành khi người ta sống trên thánh giá.
Ngày tháng 5 năm 1925, cha Gioan
được tôn phong hiển thánh và năm 1925 được đặt làm bổn mạng các cha sở trên
toàn thế giới.
(daminhvn.net)
04 Tháng Tám
Sức mạnh Của Thiên Chúa
Ðược biết đến và được yêu mến
như cha sở họ Ars, cha Gioan Maria Vianney, vị thánh được giáo hội mừng kính
hôm nay, là một trong những người làm chứng về lời thánh Phaolô đã nói:
"Thiên Chúa đã chọn những người không ra gì, để làm rối loạn những người mạnh
mẽ".
Năm 1815, thầy Gioan được truyền
chức linh mục.
Sau ba năm tập sự dưới sự hướng
dẫn của cha Balley, cha Gioan được chỉ định đến xứ Ars. Trên đường đi nhận họ đạo,
khi đi đến khúc đường chật hẹp, cỏ mọc ngụp đầu người, giữa lúc không còn biết
hướng đi, cha Gioan đã dừng lại hỏi cậu bé mười tuổi tên Anton đang chăn cừu gần
đấy. Cậu bé lịch sự chỉ lối cho cha.
Ngày nay tại nơi đây, dân làng
Ars đã dựng một tượng đài để kỷ niệm cuộc gặp gỡ này, gồm có tượng đồng diễn tả
thánh Gioan Vianney đang đứng trò chuyện với cậu Anton, một tay ngài đặt lên
vai cậu, một tay chỉ lên trời. Dưới chân tượng, người ta ghi câu cám ơn của
thánh nhân: "Cám ơn con đã chỉ cho cha đường đi tới Ars. Rồi đây, cha sẽ
chỉ cho con đường về Thiên Ðàng".
Thực ra, cha Gioan đã không những
giữ lời mình đã hứa chỉ đường cho một mình em Anton về quê Trời mà thôi, nhưng
cho cả giáo xứ Ars và trăm ngàn người khác từ khắp nơi kéo đến hành hương, để
được xưng tội và được hướng dẫn trở về đường ngay nẻo chính.
Ý thức bổn phận của linh mục là
dấn thân phục vụ cho đàn chiên, cha Gioan đã hoạch định cho mình một chương
trình sống, một chương trình chúng ta có thể gói gém vào ba hoạt động chính sau
đây: Nếp sống khắc khổ hy sinh, tôn sùng Phép Thánh Thể và thi hành việc mục vụ
qua lời giảng dạy cũng như trong tòa Giải Tội.
Ðể thi hành việc mục vụ, cha
Gioan đã cho tha nhân thời giờ của mình: Mỗi ngày cha chỉ dùng 2 hay 3 giờ để
nghỉ ngơi lấy sức. Giờ còn lại cha dùng để cầu nguyện và giải tội.
Quỳ lâu trong nhà thờ vào lúc
canh khuya, cha Gioan duyệt lại trước Thánh Thể hoàn cảnh của tất cả 230 tín hữu
trong họ đạo Ars, từng người một, từng nhu cầu của mỗi người.
Ngoài ra, mỗi ngày vào mùa đông
lạnh lẽo, cha Gioan giải tội trung bình khoảng 11 hay 12 tiếng đồng hồ. Vào mùa
hè, có khi ngài sử dụng đến 16 giờ để giao hòa các hối nhân lại với Thiên Chúa.
Cha Gioan thường gọi những giờ
giải tội lâu dài này là "Giờ của Thiên Chúa". Trong suốt 41 năm mục vụ,
cha Gioan có dịp nghe những tội lỗi của con người, những vấn đề, những khó khăn
của trần gian. Ðể xoa dịu, mỗi sáng bước lên bàn thờ dâng Thánh Lễ, cha mang
theo hết mọi ý nguyện, mọi hoài bão cũng như mọi yếu đuối, mọi lỗi lầm của toàn
dân, để xin Thiên Chúa thanh luyện, cải hóa. Qua đó, tòa giải tội trở nên như một
giếng nước trong lành, nơi giáo dân đến múc lấy Tình Thương Yêu của Thiên Chúa.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét