Trang

Thứ Bảy, 6 tháng 8, 2016

07-08-2016 :(phần I) CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN năm C

07/08/2016
Chúa Nhật tuần 19 thường niên năm C.
(phần I)


BÀI ĐỌC I:  Kn 18, 6-9
"Như Chúa đã làm hại đối thủ thế nào, Chúa cũng đã làm cho chúng tôi được vẻ vang như vậy".

Trích sách Khôn Ngoan.
Chính đêm ấy, cha ông chúng ta đã biết trước, để biết chắc mình đã tin tưởng vào lời thề nào mà được can đảm. Dân Chúa đã mong đợi sự giải thoát những người công chính và sự tiêu diệt kẻ thù. Vì như Chúa đã làm hại đối thủ thế nào, Chúa cũng kêu gọi để làm cho chúng tôi được vẻ vang như vậy.

Vì những con cái thánh thiện của các tổ phụ tốt lành đã lén lút tế lễ, và đồng tâm thiết lập luật thánh thiện, ấn định rằng những người công chính sẽ đồng hưởng vinh nhục, may rủi đều nhau; như vậy là họ đã xướng lên trước bài ca tụng của các tổ phụ.  Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA:  Tv 32, 1 và 12. 18-19. 20 và 22
Đáp: Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).
 
1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa; ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Phúc thay quốc gia mà Chúa là chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình.    -  Đáp.
2)  Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Ngài, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Ngài, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.    -  Đáp.
3)  Linh hồn chúng con mong đợi Chúa, chính Ngài là Đấng phù trợ và che chở chúng con. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài.    -  Đáp.
 
BÀI ĐỌC II:  Dt 11, 1-2, 8-19
"Ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Đấng sáng lập".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, đức tin là cốt yếu những thực tại người ta mong đợi, là bằng chứng điều bí ẩn. Vì nhờ đức tin mà các tiền nhân đã nhận được bằng chứng tốt.
Nhờ đức tin, Abraham đáp lại tiếng Chúa gọi, để ra đi đến xứ ông sẽ được lãnh làm gia nghiệp, và ông ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đến cư ngụ trong đất Chúa hứa, như trong đất khách quê người, sống trong lều trại, cũng như Isaac và Giacóp, những kẻ đồng thừa tự cùng một lời hứa. Vì chưng, ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Đấng sáng lập.

Nhờ đức tin mà ngay cả bà Sara son sẻ được sức mang thai, mặc dầu bà đã già, bởi vì bà tin rằng Đấng đã hứa sẽ trung tín giữ lời. Vì thế, do tự một người, mặc dầu người đó như chết rồi, mà có một dòng dõi đông đúc vô số như sao trên trời và như cát bãi biển.

Chính trong đức tin mà tất cả những kẻ ấy đã chết trước khi nhận lãnh điều đã hứa, nhưng được nhìn thấy và đón chào từ đàng xa, đồng thời thú nhận rằng mình là lữ khách trên mặt đất. Những ai nói những lời như thế, chứng tỏ rằng mình đang đi tìm quê hương. Giá như họ còn nhớ đến quê hương dưới đất mà họ đã lìa bỏ, chắc họ có đủ thời giờ trở về. Nhưng hiện giờ họ ước mong một quê hương hoàn hảo hơn, tức là quê trời. Vì thế, Thiên Chúa không ngại để họ gọi mình là Thiên Chúa của họ, vì Người đã dọn sẵn cho họ một thành trì.

Nhờ đức tin, khi bị thử lòng, Abraham đã dâng Isaac. Ông hiến dâng con một mình, ông là người nhận lãnh lời hứa, là người đã được phán bảo lời này: "Chính nơi Isaac mà có một dòng dõi mang tên ngươi". Vì ông nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền làm cho kẻ chết sống lại, do đó, ông đã đón nhận con ông như một hình ảnh.  Đó là lời Chúa.

Hoặc bài vắn này:  Dt 11, 1-2, 8-12
Anh em thân mến, đức tin là cốt yếu những thực tại người ta mong đợi, là bằng chứng điều bí ẩn. Vì nhờ đức tin mà các tiền nhân đã nhận được bằng chứng tốt.

Nhờ đức tin, Abraham đáp lại tiếng Chúa gọi, để ra đi đến xứ ông sẽ được lãnh làm gia nghiệp, và ông ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đến cư ngụ trong đất Chúa hứa, như trong đất khách quê người, sống trong lều trại, cũng như Isaac và Giacóp, những kẻ đồng thừa tự cùng một lời hứa. Vì chưng, ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Đấng sáng lập.
Nhờ đức tin mà ngay cả bà Sara son sẻ được sức mang thai, mặc dầu bà đã già, bởi vì bà tin rằng Đấng đã hứa sẽ trung tín giữ lời. Vì thế, do tự một người, mặc dầu người đó như chết rồi, mà có một dòng dõi đông đúc vô số như sao trên trời và như cát bãi biển.  Đó là lời Chúa.

ALLELUIA:  Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống: không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.
 
PHÚC ÂM:   Lc 12, 32-48
"Các con hãy sẵn sàng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hỡi đoàn bé nhỏ, các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban nước trời cho các con. Các con hãy bán những của các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát, và kho tàng không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó.

"Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức: Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy. Các con hãy hiểu biết điều này là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến".

Phêrô thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?" Chúa phán: "Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung. Nhưng đầy tớ nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn". Đó là lời Chúa.

Hoặc bài vắn này:   Lc 12, 35-40
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức: Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy. Các con hãy hiểu biết điều này là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến".  Đó là lời Chúa.


Suy niệm : Tỉnh thức và cảnh giác
Hẳn chúng ta còn nhớ giáo huấn của Lời Chúa trong Chúa nhật trước. Các bài Thánh Kinh hôm đó nhắc nhở chúng ta đang khi sinh sống ở trần gian đừng quên nghĩ đến tương lai và định mệnh cuối cùng của mình. Như vậy Lời Chúa hôm nay rõ ràng muốn tiếp tục giáo huấn chúng ta theo phương hướng ấy.
Bài sách Khôn ngoan cho chúng ta thấy con cái Israel vì đã được báo trước về tương lai nên đã bình tĩnh xử sự trong hiện tại như thế nào? Và thư Hipri nêu cao gương sáng của Abraham khi đã tin vào tương lai thì vững vàng tiến bước trên đường trần gian làm sao? Cuối cùng trong bài Tin Mừng Ðức Giêsu dạy chúng ta phải làm gì đang khi chờ đợi ngày Chúa trở lại? Nếu chúng ta muốn tìm hiểu lại các bài Kinh Thánh hôm nay theo diễn tiến thời gian, thì chúng ta hãy bắt đầu với thư Hipri, rồi đến bài sách Khôn ngoan, và sau hết chúng ta sẽ đọc lại bài Tin Mừng.

1. Bài Thư Hipri
Chúng ta biết thư Hipri là một bản văn đầy tính cách an ủi. Tác giả muốn khuyến khích các tín hữu của Chúa đang gặp khủng hoảng về đức tin. Chương 11 mà hôm nay chúng ta trích đọc một đoạn về Abraham, trình bày gương sáng đức tin của các tổ phụ, để có "cả đám mây nhân chứng lớn lao dường ấy quanh ta, thì cả ta nữa ta hãy... nắm lấy kiên nhẫn, chạy vào trận tuyến chờ ta, đăm nhìn lên Ðấng khơi nguồn và viên thành đức tin là Ðức Giêsu" (12,1-2).
Nhưng trước hết tác giả đã muốn định nghĩa đức tin là gì và khẳng định đó là nhân đức chung của mọi tổ phụ. Hơn nữa các người được vinh quang như ngày nay, hoàn toàn nhờ ở đức tin.
Vậy "tin là cách chiếm hữu điều còn trong hy vọng, là phương nhận thức các thực tại người ta không thấy". Các tổ phụ tin khi họ chắc chắn rằng các điều Chúa đã hứa cho họ về tương lai sẽ xảy đến cho họ và các điều vô hình Người nói với họ đều có thực.
Abraham là người đầu tiên có một đức tin như vậy. Chúa nói với ông ở đất Haran: "Hãy đi khỏi xứ sở ngươi... đến đất Ta sẽ chỉ cho. Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn". Abraham tin vào lời đó và đã ra đi, chẳng hiểu sẽ đi đến chỗ nào, nhưng chắc chắn Chúa sẽ hướng dẫn mình đến đất sẽ trở thành quê hương xứ sở của mình và mình sẽ có con đàn cháu đống ở đó. Chính niềm tin đã đưa ông lên đường; và cũng chính niềm tin đã khiến ông không dừng lại lấy nơi nào làm quê hương không phải là nơi Chúa sẽ chỉ cho. Do đó, ở đâu và qua chỗ nào, ông cũng luôn sống trong lều vải, cũng như Isaac và Giacóp con cháu ông sau này, luôn luôn đợi ngày được xây đô thị cư ngụ vĩnh viễn theo ý Chúa sắp đặt.
Ðang khi ấy từ ngày này qua ngày khác, tháng trước qua tháng sau, năm cũ qua năm mới, Abraham bình tĩnh nhưng không khỏi nóng ruột muốn biết Chúa sẽ thực hiện Lời Chúa thế nào để ông có con đàn cháu đống làm nên một dân đông nhiều như sao trên trời như cát ngoài biển. Lời hứa này có lẽ còn khó tin hơn cả lời hứa về đất đai, vì cả Sara bạn ông và chính ông đều đã già nua tuổi tác. Dù vậy Abraham vẫn tin. Ông vẫn một mực tin vào Lời Chúa, cả khi Người bảo đem Isaac vừa lớn lên giết đi để tế lễ Người. Ông giơ tay sẵn sàng đem giết đứa con độc nhất đang khi vẫn ý thức một cách chắc chắn rằng miêu duệ mình sẽ không sức nào đếm nổi. Lòng tin thật lạ lùng. Nó là động lực của những hành động phi thường không thể nào hiểu thấu. Nó là bình an vững bền cho tâm hồn con người đang lữ hành trần gian. Nó mở cửa đời sau cho người ta bước vào một cách bình thản.
Tác giả thư Hipri hôm nay viết: "Thể theo lòng tin, các người ấy đã chết hết thảy mà không lĩnh được các điều đã hứa, nhưng chỉ nhìn xa xa và với chào". Các người ấy ở đây không những là Abraham và Sara, mà còn là Isaac và Giacóp, là Môsê và hết thảy các tổ phụ. Sách Ðệ Nhị Luật kể, Chúa đã đưa Môsê lên núi Nêbô. Người chỉ cho ông thấy tất cả đất hứa ở đằng xa. Con cái Israel sẽ vào, nhưng chính ông sẽ không được đến đất ấy (34,1-4).
Abraham và hết thảy các tổ phụ một cách nào đó cũng như Môsê. Họ chỉ được thấy đất hứa và tương lai dân tộc ở đàng xa, tức là trong niềm tin. Nhưng như vậy cũng đã đủ là lẽ sống cho họ. Họ tin vào Lời Chúa và lời hứa của Người. Họ từ bỏ mọi sự khác để sống phù hợp với niềm tin ấy. Nếu họ đã nản chí thì họ đã trở về quê hương cũ, nơi họ xuất phát và khởi hành. Nhưng vì tin và tiếp tục tin, họ luôn coi mình là lữ khách và kiều dân ở mọi nơi chưa phải là đất hứa. Và họ coi tất cả mọi sự không thuộc về Lời Hứa đều không quan trọng.
Thái độ này là điều mà phụng vụ muốn khuyên chúng ta hôm nay, chúng ta hãy đi trên đường đời như Abraham và các tổ phụ. Hãy nhìn Lời Hứa ở đàng xa và với chào. Hãy để cho tương lai và định mệnh ấy đưa chúng ta lên đường và cất bước không nao núng trong khi vui cũng như lúc âu sầu. Ðức tin đã cho chúng ta một hướng đi, thì trong những ngày u tối nhất chúng ta vẫn thấy sáng sủa; và khi gặp những cản trở to lớn, chúng ta vẫn không sờn lòng. Ðang khi ấy chúng ta đừng quên có "cả một đám mây nhân chứng lớn lao ở quanh ta" và có thể nói đang cùng ta tiến bước. Ðó không phải chỉ là gương sáng của tiền nhân mà còn là Hội Thánh. Dân Chúa đang cuốn ta cùng đi. Bài sách Khôn ngoan có thể giúp chúng ta suy nghĩ thêm về điểm này.

2. Bài Sách Khôn Ngoan
Những chương cuối cùng của tác phẩm này suy nghĩ về các biến cố trong việc xuất hành của con cái Israel ra khỏi Ai Cập. Và đoạn chúng ta đọc hôm nay ngẫm suy về chính đêm lịch sử đã giải thoát người Do Thái. Ðêm này, các tổ phụ đã được biết trước. Không những Chúa đã báo trước cho Abraham (Khởi nguyên 15,13-14) mà chính Môsê mới đây cũng bảo cho con cái Israel biết (Xh 12,21-28). Họ chỉ biết, nếu họ có niềm tin. Họ có tin vào Chúa và lời của Người, họ mới chờ đợi cái đêm hôm ấy. Niềm tin đây là niềm tin của tất cả cộng đồng, chứ không phải là niềm tin của từng cá nhân nữa. Tất cả cộng đồng con cái Israel đêm nay sống một niềm tin chung. Toàn thể dân Chúa chờ đợi đêm nay để thấy các thánh được cứu độ và thù địch bị diệt vong. Thế nên, họ hội họp nhau, dâng lễ vật vượt qua, thi hành các thánh chỉ, nhất trí một lòng cùng chung phúc may và hiểm họa, biểu hiện niềm tin duy nhất bằng cách cất tiếng hát.
Thực ra tác giả Khôn ngoan đã không hoàn toàn chỉ mô tả chính đêm Vượt qua. Ông đã nhìn vào lễ nghi Vượt qua ở thời ông để diễn lại đêm lịch sử nguyên thủy. Các ông đọc lại lịch sử càng cho chúng ta thấy ý nghĩa phong phú cứu độ của biến cố Xuất hành. Và chúng ta sung sướng ghi nhận những suy nghĩ của ông.
Với ông chúng ta thấy rằng con cái Israel đã được giải thoát nhờ niềm tin, một niềm tin vững vàng căn cứ nguyên vào Lời Chúa. Niềm tin này toàn dân phải sống. Hết thảy phải hội họp nhau trong đêm ấy, phải chắc chắn hành động cứu độ sắp xảy đến. Phải thi hành mọi chỉ thị của Chúa, phải nhất trí đồng hội đồng thuyền sẵn sàng chịu chung phúc họa.
Niềm tin này thật ra trong đêm lịch sử đầu tiên đã không được hoàn toàn như vậy. Hôm ấy con cái Israel chưa có kinh nghiệm và chưa thấy cánh tay mạnh mẽ của Chúa... Chính từ ngày thấy Chúa giải thoát dân bằng cánh tay hùng mạnh, người ta mới có kinh nghiệm và khuyến khích để tin vào những lần giải cứu khác mà Chúa nói là sẽ còn kỳ diệu hơn nữa. Tác giả sách Khôn ngoan là một trong những người tin mạnh mẽ vào hành động cứu độ của Chúa trong tương lai. Ông viết lại đêm xuất hành thời Môsê, tô điểm cho nó bằng niềm tin của ông, để khuyến khích con cái Israel mỗi khi ăn lễ Vượt qua và mỗi khi trông chờ ơn cứu độ, phải có niềm tin vững vàng, niềm tin tập thể, niềm tin Chúa sẽ cứu cộng đồng trong đó có mình.
Do đó nếu bài thư Hípri lấy gương Abraham để khuyến khích mỗi người chúng ta luôn luôn tiến bước về tương lai với niềm tin vững chắc, thì với bài sách Khôn ngoan này, phụng vụ muốn nhắc nhở chúng ta đặt niềm tin tương lai vào sự gắn bó với tập thể là Hội Thánh.
Dân Chúa hãy cử hành các buổi lễ Vượt qua là mầu nhiệm thánh thể trong một niềm tin chung. Dân Chúa mỗi khi gặp nhau, hãy một lòng một ý tiến về tương lai. Niềm tin tập thể đã giải cứu con cái Israel thế nào thì sẽ giúp dân mới vượt qua huy hoàng hơn nữa. Chúng ta không tiến về tương lai một mình, nhưng cùng với toàn thể nhân loại được cứu độ. Chúng ta phải cất cao bài hát của các tổ phụ, tức là nói lên niềm tin vững vàng phấn khởi vào Thiên Chúa và Lời Hứa của Người.
Nhưng nói như vậy có lẽ vẫn chưa cụ thể. Bài Tin Mừng Luca hôm nay truyền lại cho chúng ta giáo huấn rõ ràng hơn của Chúa.

3. Bài Tin Mừng Luca
Thoạt đầu Chúa nói với tất cả các môn đệ, tức là với hết thảy mọi người tin Chúa. Về sau Chúa nói riêng với các tông đồ tức là với những người có trách nhiệm trong Hội Thánh.
Với tất cả mọi người, Ðức Giêsu có một lời khích lệ âu yếm, Người nói: "Ðừng sợ, hỡi đàn chiên nhỏ bé, vì Cha các ngươi đã khấng ban nước Trời cho các ngươi". Lời nói vắn tắt nhưng rất thâm thúy. Nó có sức an ủi vì khêu lên niềm tin vững vàng. Nó cho chúng ta thấy rõ Chúa thấu suốt hoàn cảnh hiện tại của chúng ta..., nhưng Người cũng khẳng định thân phận của chúng ta rất tốt đẹp.
Hiện tại chúng ta là những con chiên nhỏ, vừa nhỏ vừa ít ỏi, vừa nhỏ vì yếu thế. Hội Thánh luôn luôn như vậy vừa ít số vừa không có thế lực. Thường khi chỉ là con thuyền nhỏ trong cơn bão táp trần gian. Nhưng Chúa bảo đừng sợ vì Chúa Cha đã khấng ban Nước Trời cho chúng ta.
Hơn nữa, Hội Thánh đang là chính Nước Trời ấy có sự sống phong phú của Thiên Chúa và nắm vững mọi phương tiện cứu rỗi. Những ai tin như vậy sẽ thấy bình an và vững vàng trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Tuy nhiên đức tin không phải chỉ là cái nhìn bình an. Nó là khởi điểm và là động lực. Nó đã làm cho Abraham lên đường và giúp ông luôn luôn cất bước cho đến hết cuộc đời. Nó đã khiến con cái Israel tập họp trong đêm xuất hành để vượt qua. Nó cũng phải đưa chúng ta vào hành động.
Vì thế Chúa nói với tất cả các môn đệ: Các ngươi hãy xắn áo đai lưng và đèn chong sáng, tức là cả đêm ngày luôn ở tư thế làm việc và sẵn sàng. Người Do Thái mặc áo dài lụng thụng, nên khi làm việc vừa phải sắn lên, vừa phải đai lại.
Ðó cũng còn là thái độ Chúa đòi khi họ ăn lễ Vượt qua (12,11). Nó nói lên ý nghĩa sẵn sàng. Còn khi nói phải chong đèn sáng, dĩ nhiên có ý tưởng bảo phải tỉnh thức và cảnh giác; nhưng cũng có ý nói: Tất cả chúng ta đã là con cái sự sáng, con cái của ban ngày, nên luôn luôn phải làm việc và làm việc trong sáng. Chúng ta cũng có thể nhớ lại lễ nghi rửa tội trong đó có việc trao nến sáng để nhắc nhở con cái Chúa phải nên như ánh sáng thế gian và phải giữ đèn sáng đi đón Chúa.
Ở đây, Chúa cũng gợi lên ý tưởng này. Người tự ví mình như người chủ đi ăn cưới chẳng biết lúc nào về. Phúc cho đầy tớ nào còn thức để mở cửa ngay cho chủ khi ông vừa về tới nhà. Nhưng Chúa không phải là người chủ thường...
Chẳng người chủ nào làm như Người đã làm và sẽ làm. Người sẽ cho đầy tớ Người là chúng ta ngồi vào bàn ăn và Người sẽ đi dọn bữa cho chúng ta. Với bất cứ người nào sẵn sàng mở cửa khi Chúa gõ, Người cũng sẽ đi vào nhà linh hồn người ấy, ban máu thịt, ân sủng và Lời Người cho họ làm lương thực và Người cũng sẽ dùng bữa ăn tại nhà người ấy.
Và không những được thêm ơn, những tâm hồn sẵn sàng đón Chúa như vậy còn được đảm bảo chẳng khi nào mất ơn. Kẻ trộm vào nhà sao được khi người trong nhà tỉnh thức? Chúa dùng toàn kiểu nói và hình ảnh thông thường để chúng ta dễ hiểu ý Người. Nhưng chúng ta không được dừng lại ở hình ảnh và kiểu nói. Còn phải đi xa hơn để thấy thái độ tỉnh thức mà Chúa căn dặn ở đây chính là sự cởi mở, nhậy cảm và là một thứ linh tính và giác quan và những điều có hệ đến Nước Trời, tức là đến Chúa và Hội Thánh, đến ơn cứu độ của Người hằng muốn ùa vào trong đời sống của chúng ta qua các biến cố to nhỏ hằng ngày. Chỉ khi nào người ta giữ tâm hồn cởi mở và nhạy cảm đối với những gì có thể làm tăng ơn Chúa và mở rộng Nước Người, lúc đó họ mới là con người sắn áo đai lưng và chong đèn sáng, họ mới có tư thế con người làm việc và sẵn sàng.
Một đức tin như vậy mới sống động và tích cực. Nó mới giống đức tin của Abraham và của cộng đồng dân Chúa nói trong các bài Kinh Thánh nói hôm nay.
Riêng đối với những người có trách nhiệm trong Hội Thánh Chúa muốn căn dặn qua câu trả lời cho Phêrô. Họ phải tỏ ra quản lý trung thực và khôn ngoan. Không những phải tỉnh thức và sẵn sàng đón chủ trở về, mà trong khi chờ đợi còn phải phục vụ gia nhân cho tươm tất đầy đủ; xả kỷ, yêu thương chứ không trục lợi, gắt gỏng, tàn ác. Kẻ biết rõ ý chủ mà không thi hành sẽ bị loại bỏ và coi như phường bất tín, tức là ra khỏi sản nghiệp dành cho những người có niềm tin. Còn ai hiểu biết ý chủ ít hơn, sẽ không bị phạt nặng bằng.
Thiết tưởng Chúa nói như vậy cũng đã đủ cho chúng ta suy nghĩ. Người luôn trung tín giữ mọi điều Người đã hứa. Không lời hứa nào đầy đủ hạnh phúc hơn Lời Người đã nói với chúng ta trong đức tin. Chính khi gọi chúng ta tin Người, Người đã hứa ban cho chúng ta mọi sự. Abraham đã nhận thấy như vậy và đã tin. Và vì tin ông đã có một đời sống tích cực như thế. Con cái Israel cũng đã tin lời Chúa như thế và đã thi hành chỉ thị của Người. Họ đã được Người đưa vào hứa địa, nơi chảy sữa và mật.
Ðến lượt chúng ta có cả một đám mây nhân chứng lớn lao dường ấy quanh ta, thì cả chúng ta nữa, chúng ta cũng hãy chạy vào trận tuyến chờ ta...! Và lời thư Hípri nói tiếp: "Chúng ta hãy đăm đăm nhìn lên Ðức Giêsu, Ðấng khơi nguồn và viên thành đức tin".
Chúng ta hãy nhìn lên Người trong mầu nhiệm Thánh Thể này, Người chứng tỏ một niềm tin lớn lao dường nào khi ra đi chịu chết. Người làm lễ vượt qua của Người với đầy lòng tin, hoàn thành niềm tin của Abraham khi ra đi và của con cái Israel khi xuất hành... Người khơi đức tin lên nơi chúng ta để dự lễ rồi chúng ta sống đạo, sống đức tin, nhạy cảm với mọi sự có hệ đến phần rỗi của mọi người và tìm phục vụ trong yêu thương chứ không tìm ích kỷ trong hại người.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)



LI CHÚA MI NGÀY
Chủ Nhật 19 Thường Niên, Năm C
Bài đọc: Wis 18:6-9; Heb 11:1-2, 8-12 (19); Lk 12:32-48.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin tưởng và trung thành giữ Lời Thiên Chúa.
Có nhiều người tin vào câu nói: “Phải thấy mới tin; tin mà không thấy là tin dị đoan” mà chẳng cần kiểm chứng gì cả. Có nhiều điều sai trái trong câu này. Thứ nhất, khi một người nói tin, là anh tin vào điều anh chưa thấy; nếu đã thấy rồi thì không cần phải tin nữa. Ví dụ, chẳng ai nói: “Tôi tin là tôi đã tìm được số bạc mà tôi đã đánh mất;” nhưng chỉ nói “Tôi đã tìm được số bạc mà tôi đã đánh mất.” Thứ hai, khi một người nói: “tin mà không thấy là tin dị đoan” là một điều hàm hồ, vì có những điều người đó vẫn tin mặc dù không thấy. Ví dụ, chẳng ai thấy hơi thở, nhưng nếu thấy một người đang sống, anh phải tin là người ấy có hơi thở; hay chẳng ai thấy dòng điện chạy, nhưng chẳng ai dám đưa tay sờ vào ổ điện.
Các bài đọc hôm nay dẫn chứng niềm tin vào Thiên Chúa không phải là dị đoan; nhưng là niềm tin có kiểm chứng bằng những lời Thiên Chúa hứa và các việc Ngài làm. Trong bài đọc I, tác giả Sách Khôn Ngoan lặp lại lời hứa ban Đất Hứa của Thiên Chúa cho các tổ phụ. Ngài bắt đầu thực hiện trong đêm ấy, khi Ngài đưa dân ra khỏi miền đất nô lệ của Ai-cập, lang thang trong sa mạc 40 năm, và sau cùng cho họ định cư trong Đất Hứa, “vùng đất chảy sữa và mật.” Trong bài đọc II, sau khi đã cho một định nghĩa chính xác về niềm tin, tác giả Thư Do-thái dẫn chứng bằng những ví dụ lịch sử cho thấy những lời Thiên Chúa hứa và những việc Thiên Chúa làm luôn tương xứng với nhau. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ phải tin tưởng và tỉnh thức chuẩn bị cho Ngày Thiên Chúa đến, Ngày mà họ sẽ được lãnh nhận tất cả những gì Thiên Chúa hứa ban cho các đầy tớ trung thành và khôn ngoan.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đêm ấy đã được báo trước cho cha ông chúng con.
Đêm Vượt Qua là một biến cố vĩ đại mà không người Do-thái nào không biết, vì họ phải cử hành mỗi năm theo như luật Đức Chúa truyền. Mỗi khi cử hành biến cố này, họ nhắc nhở cho nhau uy quyền và tình thương của Đức Chúa dành cho họ, để họ biết sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa. Mỗi khi con cái Israel quên Đức Chúa và các Lề Luật của Ngài, Đức Chúa truyền cho các nhà lãnh đạo và các ngôn sứ nhắc nhở cho dân chúng nhớ lại biến cố này, để biết quay trở lại và tin vào Ngài.
1.1/ Đêm Vượt Qua của dân tộc Do-thái: Đức Chúa đã báo trước cho ông Moses và ông Aaron biết những gì xảy ra trong đêm ấy. Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vào tất cả các nhà của người Ai-cập để tàn sát tất cả các con đầu lòng của loài người cũng như loài vật; nhưng các thiên thần sẽ không vào những nhà nào có máu bôi trên cửa, mà ông Moses đã bí mật nói cho toàn dân phải làm khi giết con chiên Vượt Qua.
1.2/ Những gì đã xảy ra trong đêm ấy: Sự thật đã xảy ra như thế. Khi thấy các con đầu lòng của người Ai-cập bị tiêu diệt, vua Pharaoh và toàn dân đã phải xin ông Moses ra lệnh cho dân Do-thái phải tức khắc rời bỏ đất Ai-cập. Rồi khi vua Pharaoh đổi ý đuổi theo để bắt dân Do-thái trở lại, toàn bộ chiến xa và quân đội của nhà vua đã bị nhận chìm trong Biển Đỏ. Khi con cái Israel chứng kiến tất cả những cảnh tượng xảy ra trong đêm đó, họ nhận ra uy quyền và tình thương của Thiên Chúa dành cho họ, và họ hát lên những bài ca để ca tụng Thiên Chúa. Từ đó đến nay, họ vẫn giữ truyền thống cử hành trọng thể Lễ Vượt Qua mỗi năm, bằng việc giết con chiên tinh tuyền để ăn với bánh không men và rau đắng. Sự kiện này muốn nhắc nhở cho con cái Israel biết khi Đức Chúa hứa điều gì, Ngài sẽ làm; cho dẫu những điều Ngài hứa vượt quá khả năng bà sự tiên liệu của con người.
2/ Bài đọc II: Các tổ phụ tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín.
2.1/ Định nghĩa đức tin: Tác giả Thư Do-thái định nghĩa đức tin như sau: “Đức tin là điều chính yếu (hupostasis) của những gì ta hy vọng, là sự xác tín cho những điều ta không thấy.” Chúng ta có thể chia định nghĩa này làm hai để phân tích.
(1) Đức tin là điều chính yếu (hupostasis) của những gì ta hy vọng: Chữ chính yếu đây được dùng như bản thể khi nói Đức Kitô đồng bản thể với Đức Chúa Cha. Đức tin và đức cậy đi đôi với nhau, cái gì là chính yếu của đức tin thì cũng là như vậy của đức cậy. Đức tin là một sự thuyết phục của lý trí làm cho con người tin tưởng Thiên Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã hứa. Sự tin tưởng này mạnh đến độ làm cho con người cảm thấy tâm hồn được vui vẻ và bình an.
(2) Nó là sự xác tín cho những điều ta không thấy: Đức tin chứng minh cho lý trí những thực tại mà không thể hiểu bởi trí khôn con người. Đức tin là một sự đồng ý chắc chắn của linh hồn về những mạc khải thần linh và những gì liên quan đến chúng. Tuy nhiên, đức tin và lý trí không mâu thuẫn nhau, nếu một người nhận ra lý trí con người có giới hạn của nó. Điều con người không hiểu không có nghĩa là điều ấy không có, nhưng vì trí khôn con người yếu kém chưa hiểu được điều đó. Ví dụ, cắt nghĩa triết học cho học sinh tiểu học.
Hơn nữa, đức tin là một trong ba nhân đức đối thần; gọi là đối thần vì có đối tượng là Thiên Chúa hay những sự thuộc về Thiên Chúa. Con người chỉ có thể hiểu những đối tượng vật chất trong thế giới con người. Con người tự mình không có khả năng để tin vào Thiên Chúa, nên họ cần được sự trợ giúp của Thiên Chúa qua mạc khải và ơn thánh, để họ có thể tin vào Ngài.
2.2/ Hai ví dụ về đức tin của tiền nhân: Thiên Chúa không để con người phải vật lộn với đức tin, nhưng Ngài ban cho con người trí khôn để hiểu biết lịch sử của những người đã đặt niềm tin vào Ngài. Tác giả Thư Do-thái dẫn chứng cho độc giả rất nhiều niềm tin của các tổ phụ trong quá khứ; trình thuật hôm nay chỉ đề cập đến hai tổ phụ.
(1) Đức tin của tổ phụ Abraham: Theo truyền thống của Do-thái cũng như Ả-rập, tổ phụ Abraham là người rất nghiêng về lý trí. Truyền thống Do-thái kể: Abraham không thể thờ lạy thần mặt trời, mặt trăng, và các ngôi sao, vì tất cả đều mọc lên rồi lặn xuống theo qui luật của Đấng Tạo Dựng chúng. Truyền thống Hồi-giáo kể: Cha của Abraham là Terah, ông không chỉ thờ 12 thần, mỗi thần cho một tháng, mà còn có cả một xưởng để làm các thần. Ngày kia có một bà mang đồ ăn đến cúng cho các thần. Abraham lấy một cây gậy đánh bể tất cả các thần, rồi đặt cây gậy vào tay một thần to lớn. Khi cha ông trở về hỏi lý do tại sao các thần bị đập bể, ông chỉ vào một thần còn sót lại và nói với cha: chính thần này vì ham ăn nên đã đập vỡ các thần kia. Khi cha ông bảo là chuyện không thể xảy ra, ông liền nói với cha đừng thờ và đừng bán các thần đó nữa.
Abraham có một niềm tin vững mạnh vào Thiên Chúa đến nỗi Ngài bảo gì, ông làm như vậy.
(2) Đức tin của tổ mẫu Sarah: Việc có con trong lúc cả Abraham và Sarah đã trên 90 tuổi là điều không thể đối với con người. Bà đã bật cười khi bà nghe người khách hứa với Abraham: “Độ rày sang năm, Sarah vợ ông sẽ cưu mang cho ông một con trai” (Gen 18:12), vì bà nghĩ bà không còn rung cảm gì khi nghĩ đến chuyện chăn gối nữa, chứ đừng nói tới việc có con. Đức Chúa sửa dạy bà: “Nào có điều kỳ diệu nào vượt sức Đức Chúa?”
Thế mà mọi chuyện đã xảy ra đúng như lời Đức Chúa hứa. Mùa Xuân năm sau, Đức Chúa trở lại thăm, và ông bà đã có một người con trai. Ông Abraham được 100 tuổi khi sinh đứa con là Isaac. Hai ông bà đặt tên cho con là Isaac, tiếng Do-thái có nghĩa là “nụ cười.” Bà Sarah nói: “Thiên Chúa đã làm cho tôi cười; tất cả những ai nghe biết sẽ cười tôi." Bà còn nói: "Ai dám báo trước cho ông Abraham rằng Sarah sẽ cho con bú? Thế mà tôi đã sinh cho ông một con trai, khi ông đã về già!" (Gen 21:6-7).
3/ Phúc Âm: "Đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em.”
Lời hứa ban Nước Trời cho các môn đệ đước Chúa Giêsu nhắc lại nhiều lần; vì thế, các tín hữu không thể sống như không có Nước Trời. Họ phải sống đời này với cặp mắt luôn hướng về đời sau. Họ không được tích trữ của cải đời này, nhưng phải biết dùng nó cho các công cuộc bác ái, để tích trữ cho họ kho tàng không hư nát trên trời, “một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá.” Chúa Giêsu liệt kê hai điều kiện để được chấp nhận vào làm công dân Nước Trời.
3.1/ Phải tỉnh thức chờ đợi ngày Chúa đến.
Làm sao có thể tỉnh thức mà chờ đợi mọi lúc? Chúa Giêsu trả lời: Hãy luôn sống như thể chủ đến bất cứ lúc nào. Một ví dụ cụ thể giúp chúng ta hiểu điều này là khẩu hiệu “Sắp Sẵn” và cách huấn luyện của phong trào Hướng Đạo. Các em được huấn luyện về mọi chuyên môn như: mưu sinh thoát hiểm, cứu thương, nấu ăn, bơi lội... Mục đích là để các em luôn có những kiến thức và khả năng này trong mình, để khi phải đương đầu với những nguy hiểm xảy ra, các em biết giải quyết làm sao. Trên bước đường thiêng liêng cũng thế, các tín hữu phải tập luyện và phát triển tất cả các nhân đức mà Kinh Thánh dạy như ba nhân đức đối thần tin, cậy, mến; bốn nhân đức trụ khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ; cùng tất cả các nhân đức khác; nhất là đừng mang một tội trọng nào trong người cả, khi nỡ phạm phải tìm dịp xưng ngay.
Trình thuật hôm nay cũng nhắc nhở chúng ta ngày Chúa đến không nhất thiết là Ngày Tận Thế, có thể là ngày cuối cùng của đời mình; vì ngày chúng ta chết có khác gì ngày tận thế của cuộc đời chúng ta đâu.
3.2/ Phải trung thành phục vụ trong khi chờ đợi Chúa đến.
Ông Phêrô hỏi: "Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?" Chúa Giêsu đáp: "Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc?” Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, tất cả mọi người đều ở trong vai trò lãnh đạo, chỉ khác là là lãnh đạo nhiều người hay ít người thôi. Các cha mẹ lãnh đạo các con của mình, linh mục lãnh đạo giáo xứ, Đức Giáo Hoàng lãnh đạo cả hoàn cầu. Lãnh đạo theo cách thức của Thiên Chúa là phải hy sinh và phục vụ; chứ không phải lạm dụng quyền hành để bắt người khác phục vụ, hay để áp đảo những người dưới quyền mình. Mọi quyền hành đến từ Thiên Chúa và họ sẽ phải chịu trách nhiệm với Ngài.
Sau cùng, Chúa Giêsu nói về sự thưởng phạt và trách nhiệm. Ai chu toàn bổn phận sẽ được thưởng, ai không chu toàn sẽ bị phạt. Người đã được học biết chịu trách nhiệm nặng hơn người không biết. Ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Không một điều gì là không thể đối với Thiên Chúa. Chúng ta đừng bao giờ giới hạn Ngài vào sự suy nghĩ và cách thức của con người.
- Chúng ta cần phải xác tín những gì Thiên Chúa hứa Ngài sẽ thực hiện. Nếu Ngài đã hứa ban Nước Trời cho những kẻ tin tưởng và làm theo ý Ngài muốn, Ngài sẽ thực hiện. Điều quan trọng là chúng ta phải luôn tỉnh thức và trung thành phục vụ anh/chị/em.
LM. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.

07/08/16 CHÚA NHT TUN 19 TN – C 
Lc 12,32-48

Suy nim: Khu hiu “Sp Sn” ca hướng đo sinh không ch đ nhc nh h chun b hành trang cho mt cuc cm tri mà còn nhm rèn luyn mt con người biết linh hot tháo vát trong mi tình hung và hơn na luôn sn sàng phc v tha nhân. Người đy t ca Thiên Chúa sn sàng ch h có cp mt biết quan sát, cp mt được thp sáng bng nim tin và lòng mến đ nhn ra người ch nhân hu ca mình hin din nơi nhng người anh em nh bé vi nhng nhu cu cn được yêu thương, được chia s và cũng luôn sn sàng “xăn tay áo” dn thân phc v.
Mi Bn: Người ta thường bi thm hoá gi Chúa đến như là lúc phi nhm mt lìa b cõi đi này. Gi đó trước tiên là khonh khc đy nim vui và hnh phúc khi bn được mi gi phc v tha nhân. Điu bt ng v gi sau hết ca bn s không còn là bt ng na khi đi bn luôn là cuc đi được sp sn” đ phc v. Bn đã là người hướng đo sinh ca Đc Ki-tô” luôn sp sn đ phc v chưa?
Sng Li Chúa: Mi cui ngày bn đng quên kim đim: Hôm nay, tôi đã có nhng thiếu sót gì trong vic phc v? Tôi đã phc v mt cách tn tâm hay đy min cưỡng? Tôi đã b qua nhng cơ hi phc v vì ngi khó, cu an? Bn sám hi và xin Chúa ban thêm cho bn lòng nhit tâm và qung đi.
Cu nguyn: Nơi nào có nn chí sn lòng, xin cho con gieo nim hy vng. Nơi nào có bun su đau kh, xin cho con biết đem li nim vui. Nơi nào có khó khăn nghèo túng, xin cho con biết chia s cách vui lòng. (theo Th. Phan-xi-cô Át-xi-di)

CH V
Mi quyn bính trong Hi Thánh bt ngun t Ðc Kitô. Quyn bính là phương tin đ phc v Dân Chúa, nhưng nó có th b lm dng đ phc v cho bn thân.


Suy nim:
Ðức Giêsu tự ví mình như một ông chủ.
Ông chủ vắng nhà vì đi ăn cưới tới khuya.
Chắc chắn ông sẽ về, nhưng chẳng rõ vào giỡ nào.
Vì thế người đầy tớ giữ cửa phải chờ đợi.
Phúc cho đầy tớ nào còn tỉnh thức khi chủ về.
Chẳng những hạnh phúc cho anh ta, mà cho cả ông chủ.
Ông vui sướng khi thấy đầy tớ còn chờ mình,
nhạy cảm với tiếng gõ cửa đầu tiên,
mau mắn ra mở cửa, trong tay cầm đèn sáng.
Sau đó ông chủ đã làm một hành vi quá đỗi bất ngờ.
Từ địa vị ông chủ, ông đã hạ mình làm người tôi tớ.
Ông thắt lưng, mời các đầy tớ vào bàn ăn và phục vụ.
Ông chủ không cố ý về vào lúc đầy tớ đang ngủ.
Ðức Giêsu cũng không đến bất ngờ để bắt quả tang ai.
Ngài mời gọi con người kiên trì chờ đợi.
Chờ đợi là một thách đố của tình yêu.
Người biết chờ cũng là người biết yêu.
Thật ra, Chúa không đến bất ngờ.
Chúa chỉ đến bất ngờ với ai không sẵn sàng tỉnh thức.
Chúa chỉ bất ngờ khi chúng ta nghĩ rằng
Ngài không thể đến vào lúc này, trong hoàn cảnh này.
Nếu chúng ta tin Chúa vẫn đến trong mọi tình huống
thì ta sẽ gặp được những bất ngờ thú vị.
Dù Ðức Giêsu ví mình đến bất ngờ như kẻ trộm,
nhưng Ngài không phải là Ðấng thích gieo tai ương.
Trái lại, Ngài thích đem đến những niềm vui bất ngờ.
Bất ngờ hơn cả là ta thấy Chúa phục vụ mình,
sống như người hầu bàn, cúi xuống rửa chân cho môn đệ.
Chúa là ông chủ thích phục vụ hơn là được cung phụng.
Thiên Ðàng là nơi Thiên Chúa tiếp tục phục vụ nhân gian,
Ngài thết tiệc cho nhiều người từ đông sang tây tham dự.
Ðức Giêsu tự ví mình như một ông chủ vắng nhà.
Ông chủ này không độc đoán, nắm hết mọi quyền hành.
Ông tin vào con người và giao trách nhiệm cho họ.
Người quản gia được cử làm đại diện cho ông
để cắt đặt công việc và phân phát lương thực cho đầy tớ.
Mọi quyền bính trong Hội Thánh bắt nguồn từ Ðức Kitô.
Quyền bính là phương tiện để phục vụ Dân Chúa,
nhưng nó có thể bị lạm dụng để phục vụ cho bản thân.
Ðánh đập tôi trai tớ gái, chè chén say sưa
vì nghĩ rằng còn lâu chủ mới về:
đó vẫn là những nguy cơ rình rập các vị lãnh đạo.
"Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho mọi người?"
Một tông đồ như Phêrô cũng có thể bị phạt.
Tông đồ là người đã biết ý chủ
nên sẽ bị đòn nhiều hơn nếu không làm theo ý đó.
Vừa hiền lành bao dung, vừa đòi hỏi nghiêm túc.
Vừa đòi đầy tớ phải phục vụ, vừa phục vụ như đầy tớ.
Có bao nét tương phản nơi khuôn mặt ông chủ Giêsu!
Chúng ta có phải là đầy tớ trung tín và khôn ngoan không?
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
xin ban cho chúng con những linh mục
có trái tim thuộc trọn về Chúa,
nên cũng thuộc trọn về con người.
Xin cho chúng con những linh mục
có trái tim biết yêu bằng tình yêu hiến dâng,
một trái tim đủ lớn
để chứa được mọi người và từng người,
nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi.
Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện,
có tình bạn thân thiết với Chúa
để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con.
Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện,
có thể nuôi chúng con bằng tấm bánh thơm tho.
tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa.
Cuối cùng, xin cho chúng con những linh mục
có trái tim của Chúa,
say mê Thiên Chúa và say mê con người,
hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên
và dẫn đưa chúng con
đến với Chúa là Nguồn Sống thật.

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
7 THÁNG TÁM
Không Gì Có Thể Tách Chúng Ta Ra Khỏi Tình Yêu Thiên Chúa
Thánh Tông Đồ Gia-cô-bê cũng diễn tả tương tự khi ngài dạy các Kitôhữu thái độ đương đầu các thử thách với niềm vui và kiên nhẫn: “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không thiếu sót điều gì” (Gc 1,2-4).
Cuối cùng, trong Thư gửi các tín hữu Rôma, Thánh Phaolô so sánh những đau khổ của con người và của vũ trụ với ‘cơn đau sinh nở’ của mọi tạo vật. Ngài nhấn mạnh rằng đây là ’những tiếng rên siết’ của những ai lãnh nhận Thần Khí như ‘ơn huệ mở đầu’ nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là ‘cứu chuộc thân xác chúng ta nữa’(Rm 8,22-23).
Rồi, Thánh Phaolô ghi nhận về đau khổ: “Chúng ta biết rằng Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi cho những ai yêu mến Ngài, tức là cho những kẻ được Ngài kêu gọi theo như ý Ngài định…” (Rm 8,28). Cũng trong văn mạch này, ngài tuyên bố: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8,35).
Với cảm nhận sâu xa ấy về tình yêu và sự tốt lành của Thiên Chúa trong Đức Kitô, Thánh Phaolô kết luận: “Tôi tin chắc rằng: dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay ma vương quỉ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,38-39).
Ở đây Thiên Chúa, Cha chúng ta đang yêu thương chúng ta đời đời trong Đức Kitô. Ngài là người Cha dạy bảo chúng ta trong sự quan phòng yêu thương của Ngài: “Con hãy kiên trì để cho Ta sửa dạy; Ta đối xử với con như con cái. Thật vậy, có đứa con nào mà người Cha không sửa dạy?… Ta sửa dạy con vì lợi ích của con, để con được thông phần vào sự thánh thiện của Ta” (Dt 12,7.10).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 07 – 8
Chúa Nhật XIX Thường niên
Kn 18,6-9; Dt 11,1-2.8-19; Lc 12,32-48.

Lời suy niệm: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em.”
Sống trong một xã hội mà con người đang cố tranh giành nhau của cải vật chất và quyền lực về cho mình. Thì Chúa Giêsu lại đang nhìn con cái Người như những đoàn chiên bé nhỏ, Người mong muốn con cái Người hoàn toàn tin tưởng vào sự chăn dắt, chăm sóc, gìn giữ và bảo vệ của chính Người, không phải lo sợ đói khát hay bị bỏ rơi: “Đừng sợ”. Vì chính Chúa Cha đã vui lòng ban Nước của Ngài cho tất cả những ai tin tưởng vào Con Một của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi thành viên trong gia đình chúng con luôn luôn là những con chiên bé nhỏ của Chúa và chỉ biết trông cậy vào một mình Chúa mà thôi.
Mạnh Phương

07/08/2016 – Hạnh Các Thánh
Thánh Cajetan
(1480-1547)


Vào năm 1523, Giáo Hội trong tình trạng tiêu điều. Ðời sống tâm linh cần thiết của giáo dân không được chăm sóc bởi rất đông các mục tử thiếu học thức và thiếu đạo đức, họ chỉ biết đồng tiền mà không hoạt động gì cả. Khi các linh mục tốt lành và giáo dân chạy đến các đấng có quyền để xin giúp đỡ, họ cũng chỉ gặp sự thờ ơ lãnh đạm của các vị chủ chiên.

Một người Công Giáo tốt lành phải phản ứng thế nào trước hoàn cảnh này? Tất cả chúng ta đều biết Luther và một số người khác đã phản ứng bằng cách tách rời khỏi Giáo Hội Công Giáo khi thỉnh cầu của họ không được lắng nghe.

Thánh Cajetan lại theo một phương cách khác. Cũng như Luther, khi lưu tâm đến những gì họ được thấy trong đời sống Giáo Hội, ngài đến Rôma năm 1523 -- không phải để trình lên đức giáo hoàng hay đấng có quyền nhưng để gia nhập Hội A¨i Hữu Tình Yêu Thiên Chúa, là một tổ chức nhỏ bé, bán chính thức, tận tụy trong công việc bác ái. Họ chăm sóc người nghèo, người đau yếu, trẻ mồ côi và các tù nhân. Dần dà họ gây được ảnh hưởng khắp nước Y¨.

Sau khi chịu chức linh mục, năm 1518 Cajetan trở về quê nhà ở Vicenza khi mẹ ngài sắp từ trần. Ở đây, ngài gia nhập Hội Dòng Thánh Giêrôme. Sau khi mẹ chết, ngài dùng tất cả tài sản để cứu giúp người đau yếu, đồng thời sáng lập một hội dòng tương tự ở Venice, là nơi ngài cổ võ đời sống tâm linh và chăm sóc người nghèo, người đau yếu không chỉ bằng lời nói mà còn bằng gương mẫu anh hùng.

Năm 1523, ngài trở về Rôma, với sự tiếp tay của các bạn thân trong hàng giáo phẩm, ngài quyết định thành lập một tu hội dựa trên đời sống của các tông đồ, với hy vọng rằng đời sống của các thánh sẽ khích lệ họ và người khác cố gắng sống một cuộc đời thánh thiện vì Ðức Giêsu Kitô. Ðể hoàn thành mục đích này, họ nhắm đến đời sống luân lý, học hỏi Kinh Thánh, rao giảng và chăm sóc mục vụ, giúp đỡ người bệnh tật, và các nền tảng vững chắc của đời sống mục vụ. Tu hội mới này được gọi là Tu Sĩ Dòng Theatine.

Dĩ nhiên, các linh mục phóng túng và tham lam chẳng bao giờ đặt chân đến tu hội, nhưng Cajetan vẫn kiên trì chịu đựng sự chống đối từ các giáo sĩ và giáo dân không muốn cải tổ. Chính gương mẫu đời sống thánh thiện cũng như lời rao giảng của ngài mà nhiều người đã hoán cải.

Kiệt quệ vì các khó khăn trong Giáo Hội và ở quê nhà, Cajetan lâm trọng bệnh. Khi các y sĩ tìm cách khiêng ngài từ chiếc giường gỗ thô thiển lên chiếc giường nệm êm ấm, Cajetan thều thào, "Chúa Cứu Thế chết trên thập giá. Hãy để tôi được chết trên tấm gỗ này." Ngài từ trần ngày 7 tháng Tám 1547.

Ngài được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê phong thánh năm 1671.

Lời Trích
Có lần Thánh Cajetan nói với các anh em trong dòng, "Chúng ta cố gắng phục vụ Thiên Chúa qua sự thờ phượng trong hội dòng này; nhưng trong bệnh viện, chúng ta mới có thể nói là thực sự tìm thấy Ngài."


Trích từ NguoiTinHuu.com


7 Tháng Tám

Con Bọ Cạp Giữa Dòng Sông

Một tín đồ Ấn giáo nọ xuống dòng sông Gange để thanh tẩy và cầu nguyện...

Ông đang trầm mình giữa dòng sông thì bỗng đâu rác rưởi tấp lại dày đặc xung quanh ông. Trong đống rác, một con bọ cạp đang chao đảo chới với giữa dòng nước. Sẵn lòng khoan dung đối với thú vật, người tín đồ Ấn giáo mới chìa cánh tay ra để cứu vớt con vật. Nhưng cánh tay ông vừa đưa ra đã bị con vật dùng chiếc vòi độc của nó đốt lấy. Người đàn ông không mất kiên nhẫn, con vật càng hung hãn, ông càng chịu đựng để nó dùng nọc độc chích liên hồi, miễn là cứu sống nó thoát khỏi dòng nước đang cuốn trôi.

Có người theo dõi cảnh tượng, mới trách người tín đồ như sau: "Ông mất giờ vô ích. Nó là con bọ cạp, bản chất của nó chỉ là dùng nọc độc để chích mà thôi".

Người tín đồ Ấn giáo mới điềm nhiên trả lời: "Bản chất của con bọ cạp là dùng nọc độc để chích, nhưng bản chất của con người là cứu vớt".

Chúng ta dễ có khuynh hướng phân biệt xã hội thành hai loại người: xấu và tốt, bạn và thù... Kẻ xấu là người đáng xa lánh, người thù thì phải oán căm sâu sắc... Chúa Giêsu đã đánh đổ mọi thứ óc "biệt phái". Những kẻ bị xã hội loại ra bên lề đã được Ngài biến thành bạn hữu, những kẻ đồng bàn. Ngài đã không nhìn người bằng những nhãn hiệu có sẵn, mà chỉ bằng hình ảnh cao quý của Thiên Chúa. Trong cái nhìn ấy, hàng rào giữa bạn và thù, giữa tốt và xấu sẽ được tháo gỡ giữa mọi người. Trong cái nhìn ấy, tất cả mọi người đều có chung một danh xưng; đó là anh em của nhau...


Trích sách Lẽ Sống


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét