18/01/2017
Thứ Tư tuần 2 thường niên
Tuần lễ cầu cho các Kitô hữu hợp nhất.
BÀI ĐỌC I: Dt 7, 1-3. 15-17
"Ngươi là tư tế theo phẩm hàm
Menkixêđê tới muôn đời".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, Menkixêđê này là vua
Salem, tư tế của Thiên Chúa Tối Cao, ông đã đi đón Abraham đang trên đường về
sau khi đánh bại các vua, ông chúc lành cho Abraham. Và Abraham dâng cho ông
một phần mười các chiến lợi phẩm. Giải nghĩa tên ông, trước tiên thấy tên ông
mang tên vua công chính, rồi ông lại còn là vua Salem, nghĩa là vua hoà bình.
Ông không cha không mẹ, không gia phả, không ngày sinh, không ngày tử, nhưng
ông được so sánh với Con Thiên Chúa, nên ông làm tư tế muôn đời.
Việc còn hiển nhiên hơn nữa, nếu một tư
tế khác được thiết lập theo phẩm hàm Menkixêđê, không phải chiếu theo luật xác
thịt quy định, nhưng chiếu theo quyền năng của sự sống bất diệt. Vì đã chứng
thực về ngài rằng: "Ngươi là tư tế theo phẩm hàm Menkixêđê tới muôn
đời". Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 109, 1. 2. 3. 4
Đáp: Con là Thượng tế tới muôn đời
theo phẩm hàm Menkixêđê (c. 4bc).
1) Thiên Chúa đã tuyên bố cùng Chúa tôi
rằng: "Con hãy ngồi bên hữu Ta, cho tới khi Ta bắt quân thù làm bệ kê dưới
chân Con". - Đáp.
2) Đức Thiên Chúa từ Sion sẽ phô bày
vương trượng quyền bính của Ngài, rằng: "Con hãy thống trị giữa quân
thù". - Đáp.
3) Các thủ lãnh cùng hiện diện bên Con,
ngày Con giáng sinh trong thánh thiện huy hoàng: "Trước rạng đông, tựa hồ
sương sa, Ta đã sinh hạ ra Con". - Đáp.
4) Đức Thiên Chúa đã thề và không hối
hận rằng: "Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê. - Đáp.
ALLELUIA: Ga 6, 64b và 69b
- Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và
là sự sống. Chúa có những lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 3, 1-6
"Trong ngày Sabbat được cứu sống
hay là giết chết?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu lại vào hội đường và
ở đó có một người khô bại một tay. Người ta để ý quan sát xem Chúa có chữa bệnh
trong ngày Sabbat không, để tố cáo Người. Chúa bảo người có tay khô bại rằng:
"Ngươi hãy đứng ra giữa đây". Rồi Người bảo họ: "Trong ngày
Sabbat được làm sự lành hay sự dữ? Được cứu sống hay là giết chết?" Nhưng
họ thinh lặng. Bấy giờ Người thịnh nộ đưa mắt nhìn họ và buồn phiền vì lòng họ
chai đá, Người bảo bệnh nhân rằng: "Hãy giơ tay ra". Người đó giơ tay
ra và tay anh ta được lành. Lập tức, những người biệt phái đi ra bàn tính với
những kẻ thuộc phái Hêrôđê chống đối Người và tìm cách hại Người. Đó là lời
Chúa.
Suy Niệm: Phản
ứng của
Chúa Giêsu
Trong diễn
văn đọc trước ngoại giao đoàn
bên cạnh
Toà
Thánh
nhân
dịp Năm
Mới 1996, Ðức Gioan Phaolô II đã
mạnh mẽ tố giác
các đàn áp
Kitô
hữu; Ngài
nhận định
như sau: "Người
ta không
thể đàn
áp mãi hàng
triệu tín
hữu, nghi ngờ
hoặc chia rẽ
họ, mà
những hành
động đó
lại không
đưa đến
những hậu quả tiêu
cực, chẳng những đối
với uy tín
của các
quốc gia trên trường quốc tế, mà cả
trong nội bộ các xã hội liên hệ;
trái
lại, những mối quan hệ
tốt giữa các Giáo Hội và nhà nước góp phần
vào sự
hòa hợp
mọi thành
phần trong xã hội".
Vừa đàn áp, vừa kêu gọi
tin tưởng, chỉ có người
mù quáng mới không thấy
được sự mâu thuẫn
trong hành động của mình. Người
mù lòa ít
ra còn
biết mình
không
thấy, nhưng kẻ mù
quáng
vốn có
mắt, nhưng lại không
nhìn
thấy.
Trong Tin Mừng
hôm nay, Chúa Giêsu
có một
phản ứng trước sự mù quáng của những người Biệt phái.
Chúng
ta cứ tưởng tượng một bệnh nhân đang quằn
quại trong đau khổ cần được
một bàn
tay săn
sóc chữa
trị, thì
người ta lại nại đến
luật ngày
Hưu lễ để bắt bẻ và
cấm chế. Thánh sử
Marcô
như muốn tô đậm phản ứng của Chúa trước
thái
độ mù
quáng
như thế, khi viết: "Chúa Giêsu
giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì
lòng chai đá của họ". Chúa Giêsu
vốn là Ðấng hiền lành và khiêm
nhường trong lòng. Chúng
ta hãy
chiêm
ngưỡng thái
độ của Ngài đối với những người khốn khổ, các bệnh
nhân,
các tội
nhân,
những người bị đẩy
ra bên
lề xã
hội, Ngài
đồng bàn với
họ, cảm thông với
họ, tha thứ
cho họ.
Chúa Giêsu tỏ
ra cảm thông
tha thứ đối
với mọi tội lỗi của con người,
duy chỉ có
một thái
độ Ngài
không
bao giờ chấp nhận và
tha thứ, đó
là thói giả hình và mù
quáng.
Do yếu đuối, con người
sa ngã
là chuyện
bình thường,
nhưng nhắm mắt khép
kín tâm hồn để không
nhận ra mình
yếu đuối cũng
như nhân
danh đạo
lý và pháp
luật để
khước từ yêu thương,
để loại trừ người khác, Chúa Giêsu
gọi đó
là tội
chống lại Thánh Thần,
tội không
thể tha thứ được. Thật thế, khi con người
không còn nhận ra thân phận tội lỗi yếu đuối của mình, khi con người khước từ yêu
thương, thì
mọi tương quan với Thiên
Chúa
cũng hoàn toàn
bị cắt đứt. Chúa
Giêsu
không
ngừng lên
án thái độ
giả hình
và mù quáng
của những người Biệt phái; Ngài cũng
luông
kêu gọi các
môn đệ đề
cao cảnh giác
trước men Biệt
phái.
Nguyện xin Chúa giúp chúng
ta ghi tạc Lời Chúa để tránh
khỏi men giả
hình và mù
quáng
ấy. Xin Ngài cho chúng ta một
tâm hồn
nhạy cảm để nhận ra thân phận
yếu đuối bất toàn của
chúng
ta và đáp lại
tiếng gọi thống hối và hoán cải không ngừng
của Chúa.
Xin Ngài
ban cho chúng
ta một trái
tim luôn
biết rung động trước nỗi đau
khổ của đồng loại và đôi tay luôn biết rộng mở để săn
sóc chữa
trị và
san sẻ trao ban cho mọi
người.
(Veritas Asia)
Lời
Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần II TN, Năm lẻ
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Đức
Kitô
là
Thượng Tế
theo phẩm trật
Melkizedek.
Tôn giáo hiện
hữu là để đưa
con người tới Thiên Chúa. Để
làm việc
này, con người
cần giữ luật. Bao lâu con người
tuân
giữ những luật Thiên
Chúa
truyền, con người
giữ mối liên hệ
tốt lành
với Thiên
Chúa.
Nhưng con người
đã không thể giữ mãi
mối liên hệ
với Thiên
Chúa
vì họ
phạm tội; và như
thế, con người
cần dâng
lễ vật để đền
tội và
nối lại mối liên
hệ với Thiên Chúa. Đó
là lý do chức tư tế và luật
dâng lễ
vật hiện hữu. Theo từ
ngữ Latin, từ
ngữ dùng
để chỉ tư tế là pontifex, có nghĩa người xây cầu
để nối giữa 2 điểm. Tư tế là
người xây
cầu để
nối giữa Thiên Chúa và
con người bằng dâng các lễ vật hy sinh. Theo truyền
thống Do-Thái, lễ vật hy sinh chỉ
có thể đền những tội vô
tình xúc phạm đến Luật mà thôi; những tội cố ý, không lễ vật hy sinh nào có thể đền được.
Tác giả
Thư Do-Thái
nhìn
thấy sự bất tòan
của chức tư tế và các lễ vật hy sinh trong Đạo Do-Thái; ông
nhận ra con người
cần một phẩm trật tư tế cao trọng hơn phẩm trật tư tế theo Aaron, và một
lễ vật hy sinh cao trọng hơn máu chiên bò,
để có
thể tha thứ
các tội
cho con người, và
cung cấp cho con người
cách thức
an tòan
để nối lại mối liên hệ
với Thiên
Chúa
sau khi phạm tội.
Trong Bài Đọc
I, Tác
giả dùng
Thánh
Vịnh 110:4 và Sách
Sáng Thế
14:18-20, để
chứng minh Đức Kitô
là Thượng
Tế theo phẩm
trật Melkizedek; phẩm
trật này
cao trọng hơn phẩm trật Aaron, vì “Melkizedek không có
cha, không
có mẹ,
không
có gia phả,
cuộc đời
không
có khởi
đầu, cũng
không
có kết
thúc.
Như thế là ông giống Con Thiên Chúa: mãi
mãi ông vẫn là tư
tế.”
Trong Phúc
Âm, Chúa Giêsu tức giận vì Nhóm Pharisees lòng chai dạ đá: trong khi Ngài muốn
chữa lành
con người khỏi mọi tội lỗi và
bệnh họan, tật nguyền, nhưng họ luôn tìm cách
để tố cáo và luận tội Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Kitô là Thượng-tế theo phẩm trật Melkizedek.
1.1/ Thượng Tế Melkizedek: Khi truy tầm tên
Melkizedek mà
Thánh
Vịnh 110 đề cập tới, Tác-giả Thư Do-Thái tìm thấy trong Sách Sáng Thế nói về Ông như
sau: “Ông
Melkizedek, vua thành
Salem, mang bánh
và rượu
ra; ông
là tư
tế của Thiên Chúa Tối Cao. Ông chúc phúc
cho ông
Abraham và
nói: "Xin Thiên Chúa Tối Cao, Đấng dựng nên trời
đất, chúc
phúc
cho Abraham! Chúc
tụng Thiên
Chúa
Tối Cao, Đấng đã
trao vào
tay ông
những thù địch của ông!" Rồi ông
Abraham biếu ông
Melkizedek một phần mười tất cả chiến lợi phẩm” (Gen 14:18-20).
Tác-giả dựa vào những
gì Sách Sáng
Thế trình
bày, và suy diễn
thêm
về những gì tuy Kinh Thánh không nói
tới, nhưng quan trọng về vị Thượng Tế này
như sau: “Trước hết, ông tên là
Melkizedek, nghĩa
là "Vua công chính;" rồi
ông lại
là vua Salem, nghĩa là "Vua bình an." Ông không có cha, không có mẹ, không
có gia phả,
cuộc đời
không
có khởi
đầu, cũng
không
có kết
thúc.
Như thế là ông giống Con Thiên Chúa: mãi
mãi ông vẫn là tư
tế.”
1.2/ Sự khác biệt giữa 2 phẩm trật tư tế: Tác giả so sánh
những gì ông tìm ra về Thượng Tế Melkizedek và so sánh
với những gì ghi chép trong Luật
về phẩm trật tư tế Aaron, ông tìm
ra những khác
biệt trong Chương
7, chúng
tôi chỉ
tóm tắt
như sau:
(1) Phẩm trật Aaron: Theo
Luật Do-Thái, một người trở thành tư
tế vì
thuộc giòng
dõi Aaron; mà không
tùy thuộc
vào đặc tính
và khả
năng của
vị tư tế. Chức tư tế của những người theo phẩm
trật Aaron chấm
dứt cùng
với cái
chết của người ấy. Thiên Chúa không
bao giờ thề hứa với phẩm trật theo Aaron. Sau cùng, các tư tế theo phẩm
trật này
phải luôn
dâng hy lễ đền tội cho mình, trước
khi có
thể dâng
lễ đền
tội cho người
khác.
(2) Phẩm trật Melkizedek: Chức tư tế của Melkizedek không tùy thuộc vào giòng dõi
con người, nhưng tùy thuộc
vào đặc tính
và khả
năng của
Ông. Hơn
nữa, Melkizedek không có
gia phả con người,
và Kinh Thánh không thấy nói tới
sự chết của ông;
vì thế,
chức tư tế của ông tồn
tại đến
muôn
đời. Chức tư tế theo phẩm trật Melkizedek được Thiên
Chúa
thề hứa và không bao giờ thay
đổi (x/c Psa 110:4). Đức Kitô
không
bao giờ phạm tội, và
Ngài
không
cần dâng lễ đền tội cho mình, chỉ
dâng hy lễ
một lần để đền
tội cho con người
là đủ.
1.3/ Đức Kitô là Thượng-tế theo phẩm trật Melkizedek: Tác giả Thư Do-Thái kết
luận: “Điều ấy lại còn
hiển nhiên
hơn nữa, khi một vị tư tế khác tương
tự như ông Melkizedek xuất hiện; vị này
đã trở
nên tư
tế không
phải do Lề Luật quy định
việc cha truyền
con nối, nhưng do sức mạnh của một đời sống bất diệt. Quả thật, có lời
chứng nhận rằng: “Muôn thuở,
Con là
Thượng-tế theo phẩm trật Melkizedek”” (Psa 110:4).
2/ Phúc Âm: Đức Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai
đá.
2.1/ Xung đột ý kiến giữa Chúa Giêsu và Nhóm
Pharisees: Chỉ
trong hai câu
mô tả
ngắn ngủi, Marcô cho chúng ta nhìn thấy sự xung đột
giữa hai bên: “Đức
Giêsu
lại vào
hội đường.
Ở đó
có một
người bị bại tay. Họ
rình xem Đức Giêsu
có chữa
người ấy ngày Sabbath không, để tố cáo Người.” Trong khi Chúa Giêsu chính
thức rao giảng
và chữa
lành dân chúng
trong các
hội đường,
Nhóm
Pharisees cũng
có mặt.
Mục đích
của họ không phải
để nghe giảng,
nhưng để “rình xem” Chúa Giêsu có chữa
bệnh trong ngày Sabbath.
2.2/ Hai phản ứng khác
nhau:
(1) Phản ứng của của Chúa
Giêsu: Khi nhìn thấy
người bại tay, Chúa Giêsu động
lòng thương
anh, và
Ngài
muốn chữa lành, nên bảo anh: "Anh trỗi dậy, ra giữa đây!"
Ngài
có thể
bảo anh ngày mai trở
lại, hay bảo
anh đi
đến một nơi nào
đó cho khuất
mắt những người đang
rình; nhưng
để dạy cho họ có
cơ hội hiểu biết đúng đắn về ngày Sabbath, Chúa Giêsu mời gọi họ đối thọai với Ngài:
"Ngày
Sabbath, được
phép
làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?"
Nhưng họ làm thinh. Đức Giêsu
giận dữ rảo mắt nhìn họ,
buồn khổ vì lòng họ chai đá. Người
bảo anh bại
tay: "Anh giơ tay ra!" Người ấy giơ ra, và
tay liền trở lại bình
thường.
(2) Phản ứng của Nhóm Pharisees: Làm
thinh không nói có thể vì không biết câu
trả lời; nhưng họ đã biết
câu trả
lời: phải luôn làm việc lành trong cả
ngày
Sabbath, và
phải luôn
cứu mạng người; nhưng vì họ
sợ nếu phải công
nhận những gì Chúa Giêsu
dạy trước mặt mọi người, họ phải tin theo và làm
những gì
Ngài
đòi hỏi
nên họ
làm thinh. Không phải
chỉ có
thế, nhưng sau khi ra khỏi đó,
Nhóm
Pharisee lập tức bàn tính với phe Herode, để tìm
cách giết
Đức Giêsu.
ÁP DỤNG
TRONG CUỘC SỐNG:
- Tội lỗi làm
chúng
ta xa cách
Thiên
Chúa;
nhưng qua Đức Kitô
là Thượng
Tế theo phẩm
trật Melkizedek, chúng ta đã
có con đường an tòan để
nối lại tình nghĩa với Ngài.
- Chúng ta hãy vâng lời
làm theo những
gì Đức Kitô
dạy. Nếu không hiểu,
hãy chịu
khó
bỏ thời giờ để
nghiên
cứu học hỏi; đừng
ngoan cố như những người Biệt-phái
để cố tình sống
trong tội lỗi của mình.
- Tôn giáo không phải
chỉ là
tuân
theo những luật lệ cứng nhắc, nhưng trước hết là tâm tình
đồng cảm với những khổ đau
của nhân
lọai, và
tìm cách để
làm vơi
đi những
khổ đau
này.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
18/01/17
THỨ TƯ TUẦN 2 TN
Tuần lễ cầu cho các Ki-tô
hữu hiệp nhất Mc 3,1-6
NGÀY SA-BÁT, LÀM VIỆC LÀNH
Đức Giê-su bảo người
bị bại tay: “Anh chỗi dậy, ra giữa đây.” Rồi Người nói với họ: “Ngày Sa-bát,
được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?” (Mc 3,4)
Suy niệm: Để đón nhận và
sống sứ điệp Tin Mừng, cần biết nhìn và có một tấm lòng. Khi gọi người bị bại
tay ra đứng giữa hội đường, Chúa Giê-su không có ý hạ giá anh, nhưng Ngài kêu
gọi chúng ta hãy dám nhìn thẳng vào người anh em đau khổ, bị bỏ rơi, bị lãng
quên và lắng nghe lời chất vấn của lương tâm: “Ngày Sa-bát được phép
làm điều lành hay điều dữ?” Mệnh lệnh “làm lành lánh dữ” của lương tâm
sở dĩ có tính tuyệt đối vô điều kiện bởi vì nó xuất phát từ chính Thiên Chúa.
Người ta chỉ chu toàn bổn phận thánh thiêng thờ phượng Chúa khi và chỉ khi “làm
điều lành”. Mà “điều lành” không gì khác hơn là phục vụ, chia sẻ cách cụ thể
với người anh em đau khổ đang ở giữa cộng đoàn đây.
Mời Bạn: Bạn
đang làm những “điều lành” nào trong ngày Chúa Nhật, Ngày Của Chúa? Bạn
có bận bịu công việc làm ăn đến nỗi không còn thì giờ cho Chúa, cho gia đình,
con cái? Hay bạn cũng ngưng công việc làm thường ngày, những để mê đắm trong
bài bạc, nhậu nhẹt say sưa?
Chia sẻ: Ngày
Chúa Nhật của bạn thường diễn ra như thế nào? Có thể sắp xếp cách khác để ngày
ấy trở thành ngày của mến Chúa yêu người cách đặc biệt
hơn không?
Sống Lời Chúa: Gác
lại việc làm ăn thường ngày để đi thăm một người trong khu xóm đang cần sự quan
tâm chia sẻ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban thêm
cho con nhiệt tâm làm việc lành, biết yêu thương phục vụ những anh chị em nghèo
khổ, bất hạnh xung quanh con.
Anh giơ tay ra! (18.1.2017 – Thứ tư Tuần 2 Thường niên)
Có bao nhiêu bàn tay, dù không bại liệt, nhưng chẳng bao giờ bình thường vì chẳng bao giờ dám đưa ra để trao và để nhận, để nắm và để buông.
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay là
cao điểm của năm cuộc tranh luận
giữa Đức Giêsu với các
kinh sư hay người Pharisêu (Mc 2, 1-3, 6).
Đó là các cuộc tranh luận
về quyền tha tội của Đức Giêsu,
về chuyện Ngài ăn uống
với người thu thuế, chuyện môn đệ không ăn chay,
chuyện môn đệ bứt lúa
ngày sabát, và cuối cùng là chuyện Ngài chữa bệnh.
Trong hội đường, vào một
ngày sabát, một người có bàn tay bị teo đi dự lễ.
Các người Pharisêu rình
xem Đức Giêsu có chữa cho anh ấy không.
để có cớ tố cáo Ngài.
Đức Giêsu chủ động đưa âm
mưu của họ ra ánh sáng.
Ngài muốn công khai hóa
và chính thức hóa việc làm của mình,
bởi vậy Ngài mới nói với
người bị tật rằng: “Anh hãy trỗi dậy ra giữa đây!”
Như thế mọi người trong
hội đường đều thấy được anh.
Rồi Ngài đặt câu hỏi với
các người đang rình rập Ngài
về điều được phép làm
trong ngày sabát:
được làm điều tốt hay
điều xấu, cứu sống hay giết chết?
Câu trả lời tưởng như quá
rõ ràng,
nhưng ta nên nhớ rằng
chữa bệnh ngày sabát bị coi như lao động.
Chỉ được chữa bệnh ngày
sabát khi đó là một bệnh nguy tử.
Anh bại tay không phải là
người lâm cơn bệnh nguy tử.
Nếu hoãn lại đến ngày mai
mới chữa anh, thì có vẻ cũng chẳng sao.
Nhưng Đức Giêsu đã không
chấp nhận sự trì hoãn này.
Đối với Ngài, làm điều
tốt là chữa ngay cho anh.
Ngài không đợi anh ấy gần
chết mới cứu sống.
Cứu sống là cho con người
được sống hạnh phúc dồi dào hơn.
Một bàn tay héo khô, teo
tóp, bại liệt,
một bàn tay đàn ông chẳng
còn làm việc được, chẳng còn tự phục vụ được,
một bàn tay đã chịu tật
nguyền như thế từ bao giờ,
theo Đức Giêsu, bàn tay
ấy phải được chữa lành ngay khi có thể.
“Hãy giơ tay ra!”
Người ấy đã giơ tay ra và
tay anh trở lại bình thường.
Giơ tay ra là điều trước
kia anh mong muốn mà không làm được.
Bây giờ anh có thể giơ
tay để nắm lấy một bàn tay khác,
và cảm được sự ấm áp chân
thành của tình bạn.
Có bao nhiêu bàn tay, dù
không bại liệt, nhưng chẳng bao giờ bình thường
vì chẳng bao giờ dám đưa
ra để trao và để nhận, để nắm và để buông.
Trước sự thinh lặng chai
đá của các kẻ chống đối,
Đức Giêsu vừa giận vừa
buồn (c.5).
Ngài chấp nhận trả giá
cho quyết định của mình.
Ngài đã chữa bệnh chỉ
bằng một lời nói, chứ không bằng đụng chạm.
Thế nên theo Luật Môsê,
Ngài vẫn không bị coi là đã vi phạm ngày sabát.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
lúc đầu chúng con chỉ
muốn cầm tay nhau
để làm thành một vòng
tròn khép kín.
Sau đó chúng con hiểu
rằng
cần phải buông tay nhau
để nhận những người bạn
mới,
để vòng tròn được mở rộng
đến vô cùng
và trái tim được lớn lên
mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng
cần phải nối vòng tay lớn
xuyên qua các đại dương
và lục địa.
vòng tay người nối với
người,
vòng tay con người nối
với Tạo Hóa.
Chúng con thích Chúa
đứng chung một vòng tròn
với tất cả loài người
chúng con,
nắm lấy tay chúng con
và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá
giúp chúng con biết cầm
lấy tay nhau
và nhận nhau là anh em.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Giêng
Giá Trị Và Phẩm
Cách Của Lao Động
Mọi người – nam cũng như nữ – đều là những lữ khách trên mặt đất này, những
lữ khách trong cuộc hành hương kiếm tìm sự thật, kiếm tìm Thiên Chúa! Và mọi
người đều được mời gọi vào cuộc hành hương này. Chúng ta là khách hành hương,
là thành phần của Dân Thiên Chúa; chúng ta được Đấng Tạo Hóa, Cha chúng ta, dẫn
dắt tiến về với sự thánh thiện viên mãn nơi Ngài. Ngài đang dẫn đưa chúng ta đến
với Ngài xuyên qua bao kinh nghiệm và thử thách của cuộc sống hôm nay.
Để chỉ cho ta biết con đường sự sống đưa ta về hiệp nhất với Ngài, Thiên
Chúa đã gửi chính Con của Ngài đến với ta. Ngài đã đặt người Con ấy làm viên đá
góc, nhờ đó chúng ta có thể vươn tới ơn cứu độ (1Pr 2, 6 – 8). Thật vậy, trong
Đức Giêsu Kitô, chúng ta cũng trở nên những viên đá sống “xây dựng tòa nhà
thiêng liêng để thành hàng tư tế thánh dâng lễ vật thiêng liêng đẹp lòng Thiên
Chúa” (1Pr 2, 5). Những lễ vật thiêng liêng này được gắn kết với mọi thực tại dệt
nên cuộc sống chúng ta, nhất là gắn kết với lao động con người – vì lao động là
chiều kích nền tảng của cuộc sống con người trên trái đất.
Tôi tưởng cần nêu vài suy tư về giá trị và phẩm cách của lao động con người.
Đức Giêsu Kitô là con của một người thợ mộc. Phần lớn cuộc đời Người, trong kiếp
người, Người cần cù làm việc nối nghiệp của Thánh Giu-se – cha nuôi Người. Bằng
chính nghề thợ mộc của Người, Đức Giêsu cho thấy rằng trong đời sống hằng ngày,
chúng ta được kêu gọi sống phẩm giá của lao động. Bằng lao động, con người tham
dự vào công cuộc sáng tạo của chính Thiên Chúa. Dù làm việc ở nhà máy hay trong
văn phòng, trong bệnh viện hay ngoài đồng ruộng…, ở bất cứ đâu chúng ta cũng
đang góp phần vào công trình tạo dựng của chính Thiên Chúa; điều này đem lại
giá trị và ý nghĩa cho mọi công việc của chúng ta.
“Giá trị lao động của một người được ấn định trước hết không phải bởi loại
công việc mà người ấy làm, nhưng là bởi vì công việc ấy được làm bởi một nhân vị”
(Thông Điệp Laborem exercens, 6). Như vậy, mọi lao động của con người, dù có vẻ
nhỏ nhặt đến đâu, đều phải được hết mực kính trọng, bảo vệ và tưởng thưởng
thích đáng. Nhờ đó, mọi gia đình – và toàn thể cộng đồng xã hội – sẽ có thể sống
trong hòa bình, thịnh vượng và phát triển.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 18-01
Bắt đầu tuần lễ cầu
cho các Kitô hữu hợp nhất
Dt 7, 1-3.15-17; Mc
3, 1-6.
LỜI SUY NIỆM: “Họ rình xem
Đức Giêsu có chữa người ấy ngày Sabát không, để tố cáo Người” (Mc 3,2)
Chúa Giêsu đang ở
trong hội đường, và công việc của Ngài làm là chữa lành cho một người bại tay,
Ngài không những đem lại hạnh phúc cho anh ta, là: được có thêm một bàn tay để
làm việc, mà qua bàn tay được lành, anh sẽ làm ra lương thực thực phầm cho xã hội
và nuôi sống bản thân và người trong gia đình. Nhưng vẫn có người rình xem để tố
cáo, vì Ngài làm công việc này trong ngày Sabát. Khi chúng ta đọc đoạn Kinh
Thánh này, ai cũng phê phán nhóm người Pharisêu đó. Trong cuộc đời của mỗi người,
cần phải tránh hành vi rình xem, tự bản chất của hành vi này đã là không tốt.
Chúa ban cho mỗi một người có hai con mắt, chúng ta cần tận dụng để nhìn ra cái
tốt trong mọi sự, nơi mọi người để học và làm theo, hầu đem lại lợi ích cho
mình đời này và đời sau; phải nhìn ra cái xấu để biết mà tránh, để khỏi bị phê
phán và bị kết án lúc này và mai sau,
Mạnh Phương
18 Tháng Giêng
Tấm Gương Sự Thật
Theo câu chuyện cổ
tích của người Tây Phương về Cô Bạch Tuyết và bảy chú lùn thì Sự Thật chiếu
sáng và nói qua một tấm gương. Khi hoàng hậu, người kế mẫu của Bạch Tuyết nhìn
vào tấm gương sự thật ấy để hỏi về mình, bà được trả lời như sau: "Thưa
hoàng hậu, hoàng hậu là người đẹp nhất hiện nay". Mà quả thật, so sánh với
những người đàn bà đương thời, bà ta là người đẹp nhất.
Nhưng công chúa Bạch
Tuyết mỗi ngày một lớn và trở nên xinh đẹp. Trắng như tuyết, đỏ như máu, đen
như mun: ba màu sắc ấy kết hợp một cách hài hòa để mỗi ngày một gia tăng vẻ đẹp
cho cô bé, dù chỉ mới lên 7 tuổi. Ai cũng nhận thấy rằng cô đã vượt xa người kế
mẫu về sắc đẹp.
Một hôm, hoàng hậu
kế mẫu hỏi ý kiến của chiếc gương Sự Thật một lần nữa. Lần này, tấm gương đã trả
lời: "Thưa hoàng hậu, quả thực hoàng hậu là người xinh đẹp ít ai sánh bằng.
Nhưng hiện nay, công chúa Bạch Tuyết đã đẹp hơn hoàng hậu bội phần. Ðây là điều
mà không ai chối cãi được, 7 chú lùn đã xác định điều đó".
Người kế mẫu không
muốn chấp nhận Sự Thật ấy. Bà không thể nào chấp nhận một đứa con riêng của chồng
được quyền đẹp hơn Bà. Sự ganh ghét đã bắt đầu gặm nhấm tâm hồn bà để rồi bà chỉ
còn có mỗi một ý nghĩ trong đầu: đó là loại bỏ người đối thủ tí hon của bà. Bà
sai người cho thuốc độc vào một trái táo rồi mang đến cho Bạch Tuyết. Cô bé bị
ngộ độc và đã đi vào cõi chết, nhưng vẫn giữ nguyên nét đẹp trên gương mặt. Một
hoàng tử đã say mê nhìn khuôn mặt bất động ấy. Chàng đã đặt trên môi Bạch Tuyết
một chiếc hôn. Trái táo độc rớt khỏi môi và Bạch Tuyết đã được hồi sinh. Người
hoàng hậu kế mẫu nghe điều đó. Sự oán hận và ganh tức đã dồn lên khiến cho người
đàn bà chết tốt.
Tấm gương Sự Thật của
chúng ta chính là Ðức Kitô.
Philatô đã có lần hỏi
Chúa Giêsu: Sự Thật là gì? Chúa Giêsu đã không trả lời cho câu hỏi ấy. Nhưng hẳn
những người môn đệ đã có lần nghe Chúa Giêsu tuyên bố: "Ta là Ðường, là Sự
Thật, và là Sự Sống" đều có thể trả lời cho câu hỏi ấy.
Chúa Giêsu không chỉ là
Sự Thật một cách trừu tượng, một cách trống rỗng, mà là Sự Thật của con người,
đối với con người. Cũng chính Philatô, sau khi đã ra lệnh đánh đòn Chúa Giêsu,
đã đưa Người ra trước dân chúng và tuyên bố: "Này là Người". Này là
người, này là con người, hay đúng hơn là sự thật về con người. Chúa Giêsu đã để
lộ tất cả con người của ngài qua những vết thương trên người. Phải chăng con
người chỉ để lộ nhân tính và tất cả những nét cao quý nhất của mình qua những lằn
roi, qua những vết thương đau vì yêu thương, vì phục vụ?
Chúa Giêsu là tấm
gương Sự Thật của con người. Chỉ qua Ðức Kitô, chúng ta mới có thể nhận diện được
con người đích thực của chúng ta. Nhìn vào Ðức Kitô, tội lỗi và những bất toàn
của chúng ta sẽ hiện ra, nhưng hình ảnh cao quý được Thiên Chúa in trên mỗi người
chúng ta cũng tỏ lộ.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét