Trang

Chủ Nhật, 1 tháng 4, 2018

02-04-2018 : THỨ HAI - TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH


02/04/2018
Thứ hai tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH


Bài Ðọc I: Cv 2, 14. 22-32
"Thiên Chúa đã cho Ðức Kitô phục sinh, và tất cả chúng tôi làm chứng về Người".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: "Hỡi các người Do-thái và tất cả những ai ở Giêrusalem, xin hãy biết điều này và lắng nghe lời tôi! Hỡi những người Israel, xin hãy nghe những lời này:
"Ðức Giêsu Nadarét là người đã được Thiên Chúa chứng nhận giữa anh em bằng những việc vĩ đại, những điều kỳ diệu và những phép lạ, mà Thiên Chúa đã dùng Người để thực hiện giữa anh em, như chính anh em đã biết. Theo như Thiên Chúa đã định và biết trước, Người đã bị nộp, và anh em đã dùng tay kẻ độc ác mà hành hạ rồi giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã giải thoát Người khỏi những đau khổ của cõi chết mà cho Người phục sinh, vì không thể nào để cho Người bị cầm giữ trong đó. Vì chưng, Ðavít đã nói về Người rằng:
'Tôi hằng chiêm ngưỡng Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu tôi, để tôi không nao núng. Vì thế, lòng tôi hân hoan, miệng lưỡi tôi hát mừng, và xác tôi yên nghỉ trong niềm cậy trông; vì Chúa không để linh hồn tôi trong cõi chết, và không để Ðấng Thánh của Chúa thấy sự hư nát. Chúa đã cho tôi biết con đường sự sống và cho tôi tràn đầy hân hoan tận hưởng nhan thánh Chúa'.
"Hỡi anh em, xin cho phép tôi được bạo dạn nói với anh em về tổ phụ Ðavít rằng: ngài đã băng hà, đã được an táng và lăng tẩm của ngài còn nằm giữa chúng ta cho đến ngày nay. Nhưng vì ngài là tiên tri, và biết Thiên Chúa đã thề hứa với ngài sẽ cho một người trong dòng dõi ngài ngồi trên ngai vàng của ngài, nên thấy trước, ngài đã nói về việc Chúa Kitô phục sinh, vì Người không phải bị bỏ rơi trong cõi chết, và xác Người không bị huỷ diệt. Ðức Giêsu đó, Thiên Chúa đã cho sống lại; chúng tôi hết thảy xin làm chứng về điều ấy".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 9-10. 11
Ðáp: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa; con thưa cùng Chúa: "Ngài là chúa tể con. Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con". - Ðáp.
2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. - Ðáp.
3) Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ: ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong Âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài thấy sự hư nát. - Ðáp.
4) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! - Ðáp.

Alleluia: Tv 117, 24
Alleluia, alleluia! - Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 28, 8-15
"Hãy đi nói với anh em đến Galilêa mà gặp Ta ở đó".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, các bà vội ra khỏi mồ vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Chúa. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: "Chào các bà". Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: "Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó họ sẽ gặp Ta".
Ðang khi các bà lên đường, thì mấy người lính canh vào thành báo tin cho các thượng tế biết tất cả những gì đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ lão, và sau khi đã bàn định, họ cho lính một số tiền lớn và bảo rằng: "Các anh hãy nói rằng: Ban đêm khi chúng tôi đang ngủ, thì môn đệ ông đến lấy trộm xác ông. Nếu việc này đến tai tổng trấn, chúng tôi sẽ thương lượng với ông, không để các anh phải phiền hà đâu". Bọn lính canh nhận tiền và đã làm y như họ căn dặn chúng. Bởi thế, lời đó được phao truyền nơi người Do-thái cho đến ngày nay.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Hãy Về Báo Tin Cho Các Anh Em Ta
Cách đây hai thế kỷ, giả sử như có một lon bia hay có một lon thực phẩm tươi, chắc chắn người ta vẫn không dám yên tâm thưởng thức những món ăn uống tiện dụng này. Ngày nay, chúng ta yên tâm thưởng thức là nhờ công trình nghiên cứu của ông Louis Paster, nhà ký sinh trùng học người Pháp sống vào thế kỷ XIX. Ông đã nghiên cứu các vi sinh để rồi dùng chúng hoặc tiêu diệt chúng. Dùng vi sinh trong việc tiêm các thuốc chủng ngừa, chữa bệnh chó dại, hoặc tiêu diệt chúng trong các quá trình lên men trong đồ ăn, thức uống. Ðây là những đóng góp lớn lao cho toàn thể gia đình nhân loại.
Tuy nhiên, ông còn có các đóng góp khác ít được ai nhắc đến, đó là những đóng góp cho niềm tin. Trong lúc các bạn đồng nghiệp nhìn vào kính hiển vi chỉ thấy có một số tế bào liên kết với nhau, chẳng có gì hơn nữa, thì trái lại, khi nhìn vào chiếc kính hiển vi, Louis Paster lại reo lên: "Thật kỳ diệu! Còn một điều gì ẩn nấp ở đàng sau nữa: đó là Thượng Ðế".
Anh chị em thân mến!
Qua những khám phá nhà bác học thời danh Louis Paster đóng góp cho nhân loại, chúng ta có thể rút ra được nhiều điều, đặc biệt là cách nhìn các diễn biến và thái độ phải có trước các diễn biến ấy. Cùng một sự kiện, nhưng mỗi nhà bác học lại có một cái nhìn khác nhau. Cùng một tìm tòi khám phá, những mỗi người lại đạt được kết quả riêng biệt.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng đề cập đến hai thái độ khác nhau trước biến cố Chúa Kitô Phục Sinh. Một bên là các phụ nữ và một bên là nhóm lính canh. Ðối diện với họ đều là ngôi một trống. Với nhóm phụ nữ, ngôi một trống là dấu chỉ Tin Mừng Phục Sinh và là khởi điểm cho niềm hy vọng. Tuy lo âu, nhưng họ vội vã đi báo tin vui cho các môn đệ. Nhóm lính canh, họ cũng được nhìn thấy ngôi mộ trống và điều đó không lạ gì đối với họ. Vì thế, ngôi mộ trống không là khởi điểm và tin tưởng của niềm tin, mà còn khiến cho họ càng rời xa niềm tin, càng muốn khỏa lấp niềm tin. Lời đồn đãi ấy vẫn còn vang dội đối với người Do Thái cho đến ngày nay.
Với sự kiện Chúa sống lại, lời nói của nhóm lính canh là những chứng từ có thể đáng tin cậy, vì họ là những người canh giữ mồ đêm hôm ấy. Nếu không vì sợ hãi quyền lực của hội đường Do Thái hoặc không vì chút lợi lộc, tiền của thì chắc chắn họ sẽ là sứ giả loan Tin Mừng Phục Sinh.
Trước Tin Mừng Phục Sinh ai cũng vội vã: các bà thì loan tin cho các môn đệ, còn nhóm lính canh thì vội vã báo tin cho hội đường Do Thái. Ai cũng vội vã, nhưng tùy thái độ mỗi bên mà Tin Mừng Phục Sinh được công bố hay bị dập tắt. Người Kitô hữu cũng là những người được đối diện với Tin Mừng Phục Sinh. Họ được trao cho nhiệm vụ loan báo lại cho người khác biết tin vui này. Chắc chắn lời nói của họ là những chứng từ giá trị, vì họ đã được đón nhận sức sống Phục Sinh của Ðức Kitô.
Tuy nhiên, như nhóm lính canh, có thể vì sợ hãi trước những áp lực trần thế, hoặc vì sức quyến rũ của chức tước, lợi lộc... họ đành tâm phản bội Tin Mừng. Vì thế cho đến hôm nay, họ còn hiểu biết lệch lạc về Chúa Kitô, về Giáo Hội.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh, Ðấng đã chiến thắng quyền lực của tội lỗi, ban cho mỗi người chúng ta lòng tin yêu và can đảm. Tin yêu để chúng ta nhận biết được sự hiện diện của Ngài qua các biến cố cuộc sống, dù cho có vẻ trống vắng, u buồn như ngôi mồ trống của Ðức Kitô. Và khi nhận ra được Ngài, chúng ta sẽ can đảm loan truyền Ðức Kitô cho tất cả mọi người, bất chấp mọi gian lao thử thách.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được bắt chước các tông đồ cũng như các phụ nữ nhiệt thành tìm kiếm Chúa trong yêu mến và hăm hở ra đi rao truyền tin vui Phục Sinh của Chúa Kitô. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)



LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Hai Tuần BNPS
Bài đọcActs 2:14, 22-32; Mt 28:8-15.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy rao giảng Tin Mừng “Chúa đã sống lại” khắp thế gian.
Để tin một điều là sự thật, chúng ta có nhiều cách: hoặc chính chúng ta chứng kiến, hoặc qua các chứng nhân, hoặc qua hậu quả mà nó để lại. Không ai nhìn thấy Chúa sống lại từ mộ đi ra, nhưng các chứng nhân nhìn thấy Chúa sau khi Ngài sống lại. Chúng ta nhờ những chứng nhân này, hậu quả của sự kiện Chúa sống lại trên con người họ, và những lời Kinh Thánh để tin “Chúa đã sống lại thật.”
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh biến cố Chúa Giêsu sống lại. Trong Bài Đọc I, thánh Phêrô và các Tông đồ làm chứng Chúa sống lại qua những dữ kiện thực tế và lời tiên tri của Vua David trong Thánh Vịnh 16. Trong Phúc Âm, sứ thần của Chúa làm chứng Chúa Giêsu sống lại, và chính Chúa Giêsu xuất hiện với các phụ nữ và truyền họ mang tin Ngài sống lại cho các Tông đồ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa đã phác họa Kế hoạch Cứu Độ qua cái chết và sự sống lại của Đức Kitô.
1.1/ Đức Kitô là Đấng Thiên Sai: Vấn đề cốt yếu mà Phêrô phải minh chứng cho người Do-thái là Đấng Thiên Sai phải ngang qua con đường đau khổ, cái chết, và sống lại vinh quang; vì người Do-thái mong muốn một Đấng Thiên Sai uy quyền, họ không thể chấp nhận một Đấng Thiên Sai chịu đau khổ. Phêrô chứng minh điều này đầu tiên bằng những sự kiện thực tế đã xảy ra, sau đó ông chứng minh bằng lời Kinh Thánh.
Về những sự kiện thực tế, ông nhắc lại những gì Đức Kitô đã làm giữa họ: “Đức Giêsu Nazareth, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó.”
Thiên Chúa đã tiền định cái chết và sống lại của Đức Kitô: “Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi.”
1.2/ Vua David đã nói tiên tri về sự chết và sự sống lại của Đức Kitô: Việc Chúa Giêsu sống lại làm trọn lời tiên báo của Vua David.
(1) Thánh Vịnh 16:8-11: Tác giả TĐCV trích dẫn lời TV 16 như sau: “Tôi luôn nhìn thấy Đức Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu, để tôi chẳng nao lòng. Bởi thế tâm hồn con mừng rỡ, và miệng lưỡi hân hoan, cả thân xác con cũng nghỉ ngơi trong niềm hy vọng. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan.”
Câu quan trọng là câu 10 của TV 16, các học giả tranh luận: Lời này áp dụng cho Vua David hay Đức Kitô? Giải thóat cho khỏi cái chết bất tử và phục hồi sự liên hệ thần linh hay giải thóat cho khỏi sự hư nát sau khi chết? Vì chữ “hư nát, shahat” có thể dịch là sự hủy họai như bản LXX hay dịch đơn giản là vực thẳm.
(2) Phêrô cắt nghĩa lời Thánh Vịnh: Vua David là nhân vật có thật: “Thưa anh em, xin được phép mạnh dạn nói với anh em về tổ phụ David rằng: người đã chết và được mai táng, và mộ của người còn ở giữa chúng ta cho đến ngày nay.” Đức Kitô là giòng dõi Vua David: “Nhưng vì là ngôn sứ và biết rằng Thiên Chúa đã thề với người là sẽ đặt một người trong dòng dõi trên ngai vàng của người.” Đức Kitô hòan thành lời tiên tri của Vua David khi Ngài sống lại từ cõi chết sống lại: “Người đã không bị bỏ mặc trong cõi âm ty và thân xác Người không phải hư nát.”
“Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng.”
2/ Phúc Âm: Chúa đã thực sự sống lại.
2.1/ Chúa Giêsu truyền các bà loan Tin Mừng cho các Tông-đồ.
(1) Sứ thần loan báo Tin Mừng Phục Sinh: Những bà đồng hành với Chúa trong Cuộc Thương Khó của Ngài ra mộ từ sáng sớm để niệm xác Chúa. Vừa tới nơi, họ thấy một sự thể ngòai sức tưởng tượng: Tảng đá mà các thượng tế đã niêm phong đã được mở ra dưới con mắt ngạc nhiên và run rẩy của các lính canh gác, một sứ thần của Thiên Chúa trắng như tuyết đang ngồi trên tảng đá và nói với các bà: “Đừng sợ! Tôi biết các bà đang tìm gì, Chúa Giêsu đã bị đóng đinh. Ngài không còn ở đây; vì Ngài đã sống lại như lời Ngài đã nói. Hãy đến và nhìn nơi Ngài đã nằm. Hãy đi ngay và nói cho các môn đệ biết: Ngài đã sống lại từ cõi chết. Và Ngài đi trước các ông tới Galilee; tại đó họ sẽ gặp Ngài” (Mt 28:1-7). Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giêsu hay.
(2) Chúa Giêsu hiện ra với các bà: Trên đường đi, bỗng Chúa Giêsu đón gặp các bà và nói: "Chào chị em!" Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. Bấy giờ, Đức Giêsu nói với các bà: "Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilee. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó."
Thương yêu Chúa không phải giữ Chúa ở với mình, nhưng phải loan Tin Mừng của Chúa để mọi người cùng tin vào Chúa. Chúng ta sẽ thấy điều quan trọng này được nhắc đi nhắc lại trong những ngày tới. Mọi người cần được nghe Tin Mừng Phục Sinh: cuộc sống không chỉ chấm dứt với cái chết ở đời này, nhưng mở rộng đến cuộc sống muôn đời mai sau với Thiên Chúa.
2.2/ Kế hoạch bưng bít sự thật:
(1) Trước khi Chúa sống lại: Người Do-thái đến gặp quan Philatô và yêu cầu ông sai lính canh giữ mộ Chúa Giêsu cẩn thận, vì khi còn sống Chúa đã tuyên bố Ngài sẽ sống lại sau ba ngày. Họ sợ các môn đệ của Chúa sẽ đến đánh cắp xác rồi phao tin là Chúa đã sống lại; lúc đó họ sợ sự sai trá sẽ nguy hại hơn trước. Philatô nói với họ: “Các ông có lính của Đền Thờ, hãy sai họ đi và canh chừng cẩn mật như các ông có thể làm.” Họ đi và niêm phong tảng đá vào cửa, và đặt lính canh giữ mộ (x/c Mt 27:62-66).
(2) Sau khi Chúa sống lại: Trong khi các bà đi báo cho các môn đệ biết tin mừng Chúa sống lại; có mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các thượng tế biết mọi việc đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn, và bảo quân lính: "Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác. Nếu sự việc này đến tai quan Tổng Trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự." Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do-thái cho đến ngày nay.
Khi con người đã làm điều sai trái, họ sẽ tiếp tục làm điều sai trái, sự sai trái này sẽ kéo theo sự sai trái khác. Người Do-thái tìm lý do gian trá “Chúa phạm thượng” để bắt Chúa, rồi lại tìm một cớ gian khác “Ông này xưng mình là Vua” để xin Philatô buộc Chúa chống lại Caesar, giờ lại dùng tiền để bịt miệng lính canh giữ mồ Chúa. Không phải họ không biết sự thật, nhưng họ cố tình ở trong sự gian trá, vì ghen ghét và vì những lợi lộc họ đang được hưởng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- “Chúa đã thực sự sống lại.” Chúng ta phải tin điều này và loan báo cho mọi người biết Tin Mừng Phục Sinh; đồng thời phải sống và làm chứng cho mọi người biết: có cuộc sống đời sau.
- Như mưu mô của các thượng tế trong trình thuật hôm nay, ma quỉ và thế gian vẫn đang tìm các để bưng bít sự thật này bằng tiền của và hưởng thụ vật chất.

Tìm hiểu Ga 20,1-2: “Lúc sáng sớm, khi trời còn tối”, Ma-ri-a Mác-đa-la ra mộ để làm gì?
Bản văn Ga 20,1-2 (dịch sát theo bản Hy Lạp)

1 Vào ngày thứ nhất trong tuần, Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ lúc sáng sớm, khi trời còn tối, bà thấy tảng đá đã bị lấy ra khỏi mộ. 2 Bà liền chạy đến với Si-môn Phê-rô và người môn đệ khác – người Đức Giê-su thương mến –, bà nói với các ông: “Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu.”

Nội dung
Dẫn nhập 1) Tại sao có chi tiết “trời còn tối”?  2) Tại sao không cho biết lý do ra mộ để làm gì? 3) Tại sao Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ một mình? 4) Tại sao thấy một đàng kể lại một nẻo?  Kết luận

Dẫn nhập 
Tam nhật vượt qua tưởng niệm biến cố Thương khó – Phục Sinh của Đức Giê-su. Sau khi được mai táng, Người rời khỏi sân khấu lịch sử, không ai thấy Người nữa. Ít lâu sau, các môn đệ xuất hiện loan báo Người đã Phục Sinh, Người là Chúa và ai tin vào Người thì được cứu. Đó là tin vui lớn lao cho nhân loại. Nhưng giữa hai biến cố lịch sử: “Đức Giê-su đã chết” và “các môn đệ khẳng định Người đã Phục Sinh”, điều gì đã xảy ra?
Các Tin Mừng thuật lại biến cố Phục Sinh xoay quanh ngôi mộ và những cuộc hiện ra của Người. Trình thuật Tin Mừng Gio-an kể lại những gì xảy ra vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần với những chi tiết lạ lùng. Xin chia sẻ đôi nét về nhân vật Ma-ri-a Mác-đa-la trong trình thuật Ga 20,1-2.
“Lúc sáng sớm, khi trời còn tối”, Ma-ri-a Mác-đa-la ra mộ để làm gì? Câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại không dễ trả lời, vì bản văn Ga 20,1-2 ngắn ngọn để lại đằng sau nhiều thắc mắc. Bản văn không cho biết Ma-ri-a Mác-đa-la ra mộ “để viếng xác” hay “để ướp xác” Đức Giê-su. Vậy, Ma-ri-a Mác-đa-la ra mộ để làm gì? Tại sao lại đi một mình? Tại sau không vào mộ? Và còn nhiều “tại sao” khác nữa. Đọc song song bốn Tin Mừng sẽ thấy cách trình bày độc đáo, ngắn ngọn và lạ thường của Tin Mừng Gio-an.
Mc 16,1-4       1 Ngày sa-bát vừa hết, Ma-ri-a Mác-đa-la, Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và Sa-lô-mê mua dầu thơm (arôma) để đến ướp xác (aleiphô) Người [Đức Giê-su]. 2 Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, các bà ra mộ lúc mặt trời mọc. 3 Các bà nói với nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ cho chúng ta đây?” 4 Và  ngước mắt lên, các bà thấy tảng đá đã lăn ra, vì tảng đá ấy rất lớn.
Mt 28,1-2 1 Sau ngày sa-bát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a, đi viếng (theôrêsai) mộ (ton taphon). 2 Thình lình, đất rung chuyển dữ dội: thiên sứ của Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên…
Lc 24,1-2 1 Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm (arôma) đã chuẩn bị sẵn. 2 Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ.
Ga 20,1-2 1 Vào ngày thứ nhất trong tuần, Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ lúc sáng sớm, khi trời còn tối, bà thấy tảng đá đã bị lấy ra khỏi mộ. 2 Bà liền chạy đến với Si-môn Phê-rô và người môn đệ khác – người Đức Giê-su thương mến –, bà nói với các ông: “Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu.”
Theo Tin Mừng Mác-cô, có ba bà đi ra mộ và có mục đích rõ ràng, họ đã “mua dầu thơm (arôma) để đến ướp xác (aleiphô) Đức Giê-su” (Mc 16,1). Theo Tin Mừng Mát-thêu, có hai bà ra mộ ra mộ và cũng có mục đích rõ ràng: “để viếng (theôrêsai) mộ (ton taphon)” (Mt 28,1). Động từ “theoreô” ở lối vô định, dịch sát: “để quan sát”, “để xem” mộ Đức Giê-su. Theo Tin Mừng Lu-ca, bản văn cho biết là “các bà” nhưng không cho biết tên của họ. Lc 23,55 nói đây là “những người phụ nữ đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê”. Các bà ra mộ “mang theo dầu thơm (arôma) đã chuẩn bị sẵn” (Lc 24,1), hiểu ngầm là để ướp xác Đức Giê-su. Nhưng Tin Mừng Lu-ca không nói ra điều này để đề cao việc “mang theo dầu thơm (arôma) đã chuẩn bị sẵn”. Dầu thơm này đã được các bà chuẩn bị ngay sau khi táng xác Đức Giê-su. Lc 23,56 kể: “Các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày sa-bát, các bà nghỉ lễ như Luật truyền”. Các Tin Mừng Mác-cô, Mát-thêu và Gio-an không có chi tiết chuẩn bị dầu thơm này.
So với các Tin Mừng khác, Tin Mừng Gio-an chỉ nói ngắn ngọn: “Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ (mêmeion)”. Có ba chi tiết mới so với các Tin Mừng Nhất Lãm: 1) Chi tiết về thời gian được làm rõ và nhấn mạnh: “Lúc sáng sớm, khi trời còn tối”. Cụm từ “khi trời còn tối” chỉ có trong Tin Mừng Gio-an. 2) Chỉ một mình Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ. 3) Không cho biết ra mộ để làm gì.
Ngoài ra còn một số chi tiết riêng của Tin Mừng Gio-an. Đó là sau khi thấy tảng đá đã lăn ra Ma-ri-a Mác-đa-la không vào mộ mà lại chạy đi nói với với Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến: “Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu.” Điều lạ là Ma-ri-a Mác-đa-la đã không nói “điều chị thấy” mà nói “điều chị nghĩ” (điều chị ấy giả thiết là thế). Tại sao ra mộ một mình (số ít) mà khi kể cho hai một đệ lại xưng là “chúng tôi” (số nhiều)? 
Cách kể chuyện lạ lùng trong Ga 20,1-2 đặt ra cho độc giả nhiều câu hỏi, xin gợi ý giải đáp bốn câu hỏi sau: 1) Tại sao có chi tiết “trời còn tối”?  2) Tại sao không cho biết ra mộ để làm gì? 3) Tại sao Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ một mình? 4) Tại sao “thấy” một đàng “thuật lại” một nẻo?

1) Tại sao có chi tiết “trời còn tối”?  
Bản văn nói rõ lúc Ma-ri-a Mác-đa-la đi ra mộ là “sáng sớm, khi trời còn tối”. Đã “sáng” nhưng vẫn còn “tối”. Chi tiết này cho biết là vào thời điểm rất sớm. Hình như Ma-ri-a thao thức, chờ trời sáng để đi ra mộ sớm bao nhiêu có thể được.
Đồng thời, bối cảnh trình thuật cho phép hiểu “trời còn tối” theo nghĩa biểu tượng. “Thời còn tối” gợi đến “bóng tối trong lòng” chị. Bóng đêm của sự chết vẫn còn đè nặng tâm hồn Ma-ri-a Mác-đa-la, lòng trí của chị vẫn còn ở trong bóng tối của biến cố Thương Khó. Đó là lý do khiến Ma-ri-a không nhận Đức Giê-su Phục Sinh trong trình thuật tiếp theo (Ga 20,11-18). Chị đã khóc và chỉ mong tìm lại xác Đức Giê-su vì nghĩ người ta lấy mất xác Chúa (Ga 20,11). Ở Ga 20,1, chi tiết “tối trời”, “tối lòng” cho thấy Ma-ri-a hoàn toàn ở về phía con người, biến cố Đức Giê-su chết đang ám ảnh lòng trí của chị. Thực ra, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối và lòng lòng Ma-ri-a cũng tối.
Tóm lại, chi tiết “trời còn tối” gợi lên hai điều độc đáo: 1) Lòng gắn bó của Ma-ri-a với Đức Giê-su, chị đi ra mộ rất sớm. Tất cả những gì chị làm đã bộc lộ lòng mến của chị dành cho Thầy. 2) Gợi ý đến bóng tối về cái chết của Thầy trong lòng chị, chị không nghĩ gì khác ngoài cái chết của Thầy.
 
2) Tại sao không cho biết lý do ra mộ để làm gì? 
Bản văn không cho biết Ma-ri-a ra mộ để làm gì. Ma-ri-a Mác-đa-la của Tin Mừng Gio-an không mang dầu thơm ra mộ để ướp xác Đức Giê-su như trong Tin Mừng Mác-cô hay Lu-ca. Theo thần học Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su đã được án táng đúng theo tục lệ chôn cất của người Do Thái: Thi hài Đức Giê-su đã được “quấn bằng băng vải tẩm thuốc thơm” (19,39) với một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương mà Ni-cô-đê-mô mang tới (19,40). Như thế, không cần “mang dầu thơm ra ướp xác Đức Giê-su” nữa vì đã làm ở Ga 19,39-40 rồi. 
Bản văn cũng không nói Ma-ri-a “đi viếng mộ” như trong Tin Mừng Mát-thêu. Sự kiện Tin Mừng Gio-an thuật lại việc Ma-ri-a đến mộ mà không nói rõ lý do, giúp người đọc nhận ra một lý do sâu xa hơn. Mạch văn cho phép hiểu, Ma-ri-a ra mộ chỉ đơn giản là vì lòng mến, lòng gắn bó với Thầy, ước mong gặp lại Thầy, được ở bên cạnh Thầy, dù Thầy đã chết.
 
3) Tại sao Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ một mình? 
Khác với trình thuật Nhất Lãm, theo Tin Mừng Gio-an chỉ có một mình Ma-ri-a Mác-đa-la đến mộ. Điều này ăn khớp với những điểm thần học mà Tin Mừng Gio-an muốn trình bày. Việc Ma-ri-a Mác-đa-la đến mộ một mình chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ và trao đổi riêng giữa Đức Giê-su Phục Sinh và Ma-ri-a Mác-đa-la trong đoạn văn tiếp theo (Ga 20,11-18). Đây là một đoạn văn quan trọng mô tả cách thức và điều kiện để con người có thể nhận ra Đấng Phục Sinh và cách thức Đấng Phục Sinh bày tỏ Người ra cho con người.
Như thế nhân vật Ma-ri-a Mác-đa-la trở thành nhân vật biểu tượng. Hành trình Ma-ri-a nhận ra Đấng Phục Sinh cũng là hành trình của độc giả qua mọi thời đại. Hai câu mở đầu Tin Mừng Phục Sinh theo Tin Mừng Gio-an (Ga 20,1-2) mời gọi độc giả cùng sống với tâm trạng của Ma-ri-a Mác-đa-la, mời gọi độc giả gắn bó với Đức Giê-su, bày tỏ lòng mến đối với Người cho dù lòng mình vẫn tối tăm mù mịt. “Lòng mến dành cho Thầy” là bước khởi đầu nền tảng để nhận ra Người mình yêu mến đã Phục Sinh.
 
4) Tại sao thấy một đàng kể lại một nẻo?  
Điều lạ lùng trong bản văn là Ma-ri-a Mác-đa-la “thấy tảng đá đã bị lấy ra khỏi mộ” (Ga 20,1b), nhưng chị không kể lại “điều mình thấy” mà kể lại “điều mình nghĩ”. Chị kể với Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su yêu mến: “Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu.”
Lời này gợi lại trình thuật Mt 28,12-13: “Các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn và bảo: ‘Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác’.”
Có thể nói cách hài hước rằng: Ý tưởng “lấy trộm xác Đức Giê-su” là của Ma-ri-a Mác-đa-la trong Tin Mừng Gio-an chứ không phải của các thượng tế và kỳ mục trong Tin Mừng Mát-thiêu. Điểm khác nhau là Ma-ri-a Mác-đa-la giả thiết là “Người ta” đã lấy Chúa khỏi mộ (Ga 20,2) còn giả thuyết của các thượng tế và kỳ mục là “các môn đệ của Đức Giê-su” đã lấy trộm xác Đức Giê-su (Mt 28,13).
Độc giả ngạc nhiên là chính Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã bày tỏ lòng mến và lòng gắn bó với Đức Giê-su mà lại đưa ra giả thuyết “bị lấy trộm xác”, trong khi điều chị thấy chỉ là “tảng đá đã bị lấy ra khỏi mộ”.
Điều này mang ý nghĩa thần học quan trọng về biến cố Đức Giê-su Phục Sinh. Thực vậy, không chỉ các thượng tế và kỳ mục là những người không tin, mà kể cả Ma-ri-a Mác-đa-la và các môn đệ, không ai có thể nghĩ đến việc Đức Giê-su đã Sống Lại. Điều mọi người có thể nghĩ tới khi đứng trước ngôi mộ trống là “Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ.” Ma-ri-a Mác-đa-la tin vào giả thuyết của mình đến nỗi chị đã hỏi chính Đức Giê-su Phục Sinh về xác chết của Người, vì tưởng Đấng Phục Sinh là người làm vườn (Ga 20,15).
Như thế, nhận ra Đức Giê-su đã Phục Sinh là một ơn ban từ trên. Chính Đức Giê-su đã tỏ ra cho Ma-ri-a Mác-đa-la và các môn đệ biết Người đã sống lại, còn chính họ không thể tự mình nhận biết. Nhưng làm thế nào để có thể nhận ra Đức Giê-su Phục Sinh, khi được Người bày tỏ cho biết? Đó là hãy sống những gì rất “người”, “rất nhân bản” như Ma-ri-a Mác-đa-la đã sống, đã làm, đã thấy, đã nghĩ và đã nói ra trong Ga 20,1-2, nhất là lòng mến, lòng gắn bó mà chị đã dành cho Đức Giê-su.
 
Kết luận
Những phân tích trên cho thấy nhiều điểm độc đáo của bản văn Gio-an cũng như những hàm ẩn thần học phong phú. Chúng ta không đi tìm thực tế lịch sử đã xảy ra như thế nào, vì điều này vượt khỏi khả năng chủ quan (không phải là nhà sử học) và khách quan (không có tài liệu lịch sử đúng nghĩa về biến cố), điều chúng ta có là “ý nghĩa của biến cố” hay “cách hiểu biến cố” mà các bản văn Tin Mừng thuật lại cho chúng ta. Mỗi Tin Mừng thuật lại một cách khác nhau để chuyển tải ý nghĩa mặc khải của biến cố đã xảy ra, điều này cho thấy sự phong phú về ý nghĩa của biến cố. Nhiệm vụ của độc giả là đọc ra được ý nghĩa của trình thuật muốn nhắn gửi cho độc giả qua cách thức kể chuyện trong bản văn. Có thể tóm kết gợi ý trả lời bốn câu hỏi trên như sau:
1) Tin Mừng Gio-an đưa vào chi tiết “trời còn tối” vừa để cho độc giả thấy sự gắn bó và lòng mến của Ma-ri-a Mác-đa-la dành cho Đức Giê-su, vừa thoáng cho thấy chị đang bị bóng tốt của sự chết đè nặng trong lòng.
2) Bản văn không cho biết lý do rõ ràng của việc Ma-ri-a Mác-đa-la để độc giả nhận ra một lý do sâu xa hơn: Tình yêu dành cho Thầy và ước mong được hiện diện với Thầy.  Qua nhân vật Ma-ri-a, bản văn mời gọi độc giả cũng sống như thế để có cơ may nhận ra Đức Giê-su đã Sống Lại.
3)  Ma-ri-a Mác-đa-la đến mộ một mình, trước hết là để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ riêng với Đức Giê-su trong đoạn văn sau (Ga 20,11-18), thứ đến là khi “ra mộ một mình”, nhân vật Ma-ri-a Mác-đa-la trở thành biểu tượng cho cuộc gặp gỡ giữa độc giả và Đức Giê-su Phục Sinh. Có thể chính độc giả cũng nghĩ đến giả thuyết: “Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ” chứ làm gì có chuyện Sống Lại. Độc giả được mời gọi đến với Đức Giê-su đã chết với tấm lòng của một con người, muốn hiện diện với Người dù trên bình diện lịch sử Nguời đã thất bại và đã chết. Chỉ khi sống bằng lòng mến như Ma-ri-a Mác-đa-la, độc giả mới có cơ may nhận ra Đấng Phục Sinh, khi được Người tỏ cho biết.
4) Ma-ri-a Mác-đa-la thấy “tảng đá đã bị lấy ra khỏi mộ” nhưng lại nói: “Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ” để làm lộ ra biến cố Đức Giê-su Phục Sinh là biến cố “vượt ra ngoài”, “vượt lên trên” lịch sử. Không ai dám nghĩ tới, cho dù trong Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giê-su đã báo trước ba lần biến cố Phục Sinh này cho các môn đệ.
Như thế tự nó, biến cố Phục Sinh không để lại dấu vết trong lịch sử. Không ai có bằng chứng hiển nhiên về biến cố Đức Giê-su đã Phục Sinh. Mãi mãi biến cố Đức Giê-su Sống Lại là biến cố của lòng tin. Người Ki-tô hữu tin Đức Giê-su đã Sống lại là nhờ lời chứng của các Tông Đồ và nhờ lời chứng của Hội Thánh thuật lại trong các sách Tin Mừng. Đến lượt người tin qua mọi thời đại, họ được mời gọi sống và làm chứng như thế nào đó, để người khác nhìn vào thì có thể tin là Đức Giê-su đã Sống Lại, tin là Người đang sống, đang ở với và đang hoạt động trong người tin và trong Hội Thánh.
Những gợi ý trả lời cho bốn câu hỏi trên đây chỉ là những đề nghị, những định hướng để độc giả tiếp tục suy tư và đọc  bản văn, nhờ đó rút ra từ bản văn những điều mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, nghĩa là đọc lại chuyện ngày xưa để thêm sức sống cho ngày nay.
Xem phân tích đoạn văn tiếp theo (Ga 20,3-9) trong bài tìm hiểu về “thấy” và “tin” của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến:
“Ông đã thấy và đã tin”. Ai thấy? Thấy gì? Tin gì?

Mừng Lễ Chúa Phục Sinh, ngày 24 tháng 04 năm 2011 Giu-se Lê Minh Thông, O.P. http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/  -  email: josleminhthong@gmail.com 
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.


02/04/2018
THỨ HAI TUẦN BÁT NHẬT PS
Mt 28,8-15
ALLÊLUIA! CHÚA ĐÃ PHỤC SINH


“Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó.” (Mt 28,10)

Suy niệm: Sự kiện khủng khiếp của buổi chiều thứ Sáu vẫn còn in đậm nét trong tâm khảm của những môn đệ và các người phụ nữ đi theo Chúa Giê-su. Chưa hết khiếp sợ, giờ đây các phụ nữ ra mộ Chúa từ sáng sớm ngày đầu tuần lại phải một phen kinh hoàng khi chứng kiến những sự phi thường nơi mộ Ngài. Nhưng rồi chính Đức Ki-tô, Đấng Phục Sinh, đã xuất hiện trấn an họ đừng sợ. Ngài đã từng trấn an họ như thế khi họ ở trên thuyền gặp cơn sóng to gió lớn, khi Ngài đi trên mặt nước Biển Hồ mà đến với họ (Mt 14,24-27). Giờ đây cũng chính Ngài đã sống lại, hiện ra với họ và đem lại cho họ niềm vui và hy vọng. Niềm vui không dừng lại ở đó: họ mau mắn ra đi loan báo cho các “anh em của Thầy” để họ cũng được thấy Thầy.

Mời Bạn: Chúa Ki-tô đã phục sinh, Ngài vẫn đang sống và hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Ngài mời gọi bạn đến với Ngài, để ở với Ngài, để được Ngài đồng hành trên hành trình đức tin nơi dương thế, tiến về cuộc đoàn tụ hạnh phúc vĩnh cửu trên Thiên quốc. Mời bạn đến với Đức Ki-tô để không còn sợ hãi, để hưởng trọn niềm vui có Chúa ở cùng.

Chia sẻ: Bạn có cảm nghiệm Chúa Ki-tô Phục Sinh hiện diện trong cuộc đời bạn không? Niềm vui Phục Sinh có giúp bạn vượt qua được những nỗi lo sợ trong cuộc sống hàng ngày không?

Sống Lời Chúa: Dành ít phút ở một mình hoặc trước Thánh Thể, chiêm ngắm và tâm sự với Chúa Ki-tô phục sinh để cảm nghiệm và xác tín Ngài đang hiện diện và ở với bạn.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Ki-tô Phục Sinh, xin ở lại với chúng con mọi ngày trong suốt cuộc đời chúng con.
(5 phút Lời Chúa)


“Chào ch em!” (2.4.2018 – Th hai trong Tun Bát nht Phc sinh)
Đc Giêsu phc sinh đã hin ra cho các ph n trước tiên. Nhìn thy ngôi m trng chưa đ, còn cn gp chính Đng phc sinh. 


Suy nim:
Trong bốn sách Tin Mừng, các phụ nữ luôn được kể là người ra viếng mộ trước tiên.
Trong Tin Mừng Mátthêu, đó là hai bà có cùng tên Maria.
Sau khi được thiên thần giao nhiệm vụ loan báo gấp cho các môn đệ
về sự phục sinh và cuộc hẹn gặp của Thầy ở Galilê (28, 7),
các bà đã mau mắn lên đường, vội vã rời bỏ ngôi mộ trống.
Ngôi mộ này là nơi các bà đặt tình cảm thân thương,
vì đây là nơi đặt xác của người Thầy yêu dấu
Bây giờ ngôi mộ không còn xác Thầy nữa, Thầy đã được trỗi dậy rồi,
nên ngôi mộ chẳng phải là nơi các bà dừng lại mà khóc lóc than van.
Nó trở nên một bằng chứng về sự sống lại của Thầỵ
Ngôi mộ trống thực sự đã đem lại một niềm vui vô bờ bến.
Chính những mất mát lại là dấu hiệu cho một sự hiện diện viên mãn hơn.
Vì thế vừa sợ hãi lại vừa hết sức vui mừng,
các bà chạy đi loan báo cho các môn đệ điều mình vừa nghe nói.
Trên con đường hối hả đi gặp các môn đệ,
các bà không ngờ mình lại là người đầu tiên được gặp Chúa phục sinh.
Điều mới nghe thiên thần nói, bây giờ được thấy tận mắt.
Thánh Mátthêu chỉ nói một cách đơn sơ: “Đức Giêsu gặp các bà” (c. 9).
Không thấy mô tả Đức Giêsu oai phong rực rỡ như thế nào.
Có vẻ Ngài gặp các bà lần này như Ngài đã từng gặp bao lần trong quá khứ.
Các bà nhận ra ngay vị Thầy được sống lại
cũng là vị Thầy chịu đóng đinh mà mình đã đi theo từ Galilê.
Chính Đức Giêsu ngỏ lời chào trước: “Chị em hãy vui lên.”
Lời chào này cũng là lời chào bình thường hằng ngày vào thời đó.
Vì thế các bà đã bạo dạn tiến lại gần, ôm chân và bái lạy Thầỵ
Như vậy các bà có thể thấy được và đụng chạm được Đấng phục sinh.
Các bà còn có thể nghe được lời dặn dò của Ngài.
Lời này giống lời thiên thần, chỉ có điều Ngài gọi các môn đệ là anh em:
“Hãy đi và báo cho anh em của Thầy...” (c. 10).
Các môn đệ vẫn được gọi là anh em ngay cả khi họ đã bỏ rơi Ngài.
Khi gọi họ là anh em, Đức Giêsu đã muốn tha thứ mọi vấp ngã của họ.
Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra cho các phụ nữ trước tiên.
Nhìn thấy ngôi mộ trống chưa đủ, còn cần gặp chính Đấng phục sinh.
Khi trở về gặp các môn đệ, các bà sẽ là những người làm chứng tuyệt vời.
Không chỉ là ngôi mộ trống với lời chứng của thiên thần,
mà còn là lời chứng của chính họ, của người đã chứng kiến tận mắt và đụng chạm.
Đức Giêsu phục sinh dám nhờ các phụ nữ làm chứng,
dám nhờ các phụ nữ đi loan Tin Mừng cho các môn đệ của mình,
dù thời của Ngài người ta không tin lời chứng của phụ nữ.
Chúng ta không quên những đóng góp của các phụ nữ cho Giáo Hội từ thời đầu.
Mong vai trò ấy vẫn được đề cao và tôn trọng.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu phục sinh
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên
chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.

Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.

Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.

Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.

Lúc chúng con vất vả suốt đêm
mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
2 THÁNG TƯ
Sự Thật Sẽ Giải Phóng Các Ngươi
Đấng đã chết trên Thập Giá từng tuyên bố: “Các ngươi sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ngươi” (Ga 8,32). Chính đó là lý do thúc đẩy Đức Giêsu tiến tới với thập giá. Nơi Thập Giá, sự thật về tội lỗi con người, về tội lỗi của thế gian được kết đọng lại. Và dù con người có cố gắng phủ nhận sự thật đó mấy đi nữa, dù con người ngày nay có cố gắng xóa bỏ cảm thức tội lỗi khỏi lương tâm mình mấy đi nữa, Thập Giá vẫn luôn luôn làm chứng cho sự thật đó.
“Vì Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban chính Con Một Ngài, để những ai tin vào Người thì không phải hư mất, song được sự sống đời đời” (Ga 3,16). Ngôi Lời bị đóng đanh! Chúa Con đã đến thế gian không phải để xét xử thế gian nhưng là để cứu độ thế gian” (Ga 12,47).
Hỡi con người của buổi bình minh thiên niên kỷ mới! Xin đừng lẩn tránh sự phán xét của Thập Giá Chúa Kitô. Thập Giá là sự phán xét cứu độ. Thập Giá là lời trao ban sự sống đời đời. Lời cứu độ này được thốt lên – một lần cho tất cả – giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa không rút lại lời này. Lời này không tan biến.


Hạnh Các Thánh
Thánh Phanxicô ở Paola
    (1416-1507)


    Thánh Phanxicô ở Paola là một người chân thành yêu quý sự chiêm niệm cô độc và ao ước duy nhất của ngài là trở nên "người thấp hèn nhất trong nhà Chúa." Tuy nhiên, khi Giáo Hội kêu gọi ngài làm việc phục vụ xã hội, ngài đã trở nên một nhà hoạt động phi thường và có ảnh hưởng đến đường hướng của nhiều quốc gia.

    Sau khi tháp tùng cha mẹ trong chuyến hành hương đến Rôma và Assisi, Phanxicô bắt đầu cuộc sống ẩn tu trong một cái hang hẻo lánh ở ven biển gần Paola. Trước khi ngài 20 tuổi, đã có một môn đệ đầu tiên muốn theo lối sống của ngài. Mười bảy năm sau, khi số môn sinh ngày càng gia tăng, Phanxicô đặt ra một quy luật cho cộng đoàn khắc khổ của ngài và xin Giáo Hội chuẩn nhận. Từ đó phát sinh tổ chức các Ẩn Tu của Thánh Phanxicô Assisi, được Toà Thánh chấp thuận năm 1474.

    Vào năm 1492, Phanxicô đổi tên cộng đoàn thành "Minims" vì ngài muốn họ trở nên những người bé mọn nhất trong nhà Chúa. Sự khiêm tốn là tiêu chuẩn của các tu sĩ này cũng như cuộc đời của Phanxicô. Ngoài các lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời, Phanxicô còn thêm một bó buộc thứ tư là luôn luôn ăn chay. Ngài tin rằng sự hãm mình quyết liệt rất cần thiết để phát triển tâm linh.

    Ðó là ý muốn của Phanxicô khi trở nên một vị ẩn tu chiêm niệm, nhưng ngài tin rằng Thiên Chúa đã gọi ngài trong đời sống tông đồ. Ngài bắt đầu dùng các ơn sủng được Chúa ban, tỉ như ơn làm phép lạ và nói tiên tri, để giúp đỡ dân Chúa. Là một người bảo vệ người nghèo và người bị áp bức, Phanxicô chọc giận vua Ferdinand của Naples vì ngài khiển trách cả hoàng gia.

    Theo lời yêu cầu của Ðức Giáo Hoàng Sixtus IV, Phanxicô đến Pháp để giúp vua Louis XI chuẩn bị từ trần. Trong thời gian giúp đỡ nhà vua, Phanxicô đã có cơ hội ảnh hưởng đến chiều hướng chính trị của quốc gia này. Ngài giúp vãn hồi nền hoà bình giữa Pháp và Anh qua sự khuyến khích cuộc hôn nhân giữa hai hoàng tộc, và giữa Pháp và Tây Ban Nha bằng cách thúc giục vua Louis XI trả lại một số đất chiếm đóng.

    Phanxicô đã sống một cuộc đời lâu dài để ca ngợi và mến yêu Thiên Chúa. Ngài từ trần khi chín mươi mốt tuổi, vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1507.

    Lời Bàn

    Cuộc đời của Thánh Phanxicô ở Paola là câu trả lời rõ ràng cho thế giới quá sôi động. Ngài là một người chiêm niệm được kêu gọi để hoạt động xã hội và chắc rằng ngài phải cảm thấy sự căng thẳng giữa đời sống cầu nguyện và việc phục vụ xã hội. Tuy nhiên, sự căng thẳng này không làm mất đi hiệu quả của đời sống thánh nhân, vì ngài biết đưa kết quả của sự chiêm niệm vào trong hoạt động xã hội. Ngài đáp ứng lời mời gọi của Giáo Hội một cách sẵn sàng và tốt đẹp là nhờ có nền tảng vững chắc của sự cầu nguyện và hãm mình. Khi ngài đến trong thế gian, không phải ngài hoạt động nhưng chính Ðức Kitô hoạt động trong ngài -- là "người hèn mọn nhất trong nhà Thiên Chúa."
    

    Trích từ NguoiTinHuu.com


02 Tháng Tư

Ve Sầu Kêu Ve Ve
    
    "Ve sầu kêu ve ve, suốt mùa hè. Ðến kỳ gió bấc thổi, nguồn cơn thật bối rối...".

    Trên đây là bốn câu đầu trong bài thơ mà cụ Nguyễn Văn Vỉnh đã dịch từ chuyện ngụ ngôn "Con ve và con kiến" của thi sĩ Pháp La Fontaine.

    Ở Việt Nam chúng ta cũng như tại nhiều nước trên thế giới, cứ mỗi độ hè về là ve sầu xuất hiện và kêu inh ỏi.

    Theo sinh vật học thì có đến 23 loại ve sầu, mỗi loại có chu kỳ khác nhau: loại 2 năm, loại 3 năm. loại 17 năm v.v... Trước khi xuất hiện trên mặt đất, ve đã làm kiếp nhộng sống ngầm dưới đất đến 17 năm. Ngay sau khi ra khỏi trứng, nhộng đã chui xuống đất và sống yên lặng 17 năm.

    Sinh vật học còn cho rằng, khi chu kỳ 17 năm chấm dứt, các con nhộng này có thể nghe được một tín hiệu bí mật kêu chúng ra khỏi lòng đất và hàng trăm triệu con nhộng đã đáp lại tiếng kêu gọi đó, bò lên mặt dất, tìm cây cối hay vật gì thẳng gốc với mặt đất để bám chặt vào, rồi lột voe, biến thành con ve với hai cánh dài để bay... Nhưng cuộc sống của ve rất ngắn ngủi: vì chúng chỉ sống được năm tuần lễ vừa đủ để làm một công tác duy nhất làđẻ trứng rồi chết.

    Kiếp sống của con ve sầu có thể làm cho chúng ta liên tưởng đến cuộc đời của Chúa Giêsu: trong 33 năm sống kiếp con người, Ngài đã sống ẩn dật đến 30 năm.

    Nếu đối với kiếp ve sầu, 17 năm sống dưới đất như nhộng không phải là vô ích, thì với Chúa Giêsu, 30 năm sống ẩn dật của Ngài cũng mang một ý nghĩa và giá trị đặc biệt. Kiếp sống lam lũ của người thợ mộc, những vất vả trong cuộc sống hằng ngày: tất cả đều mặc cho cuộc sống con người một ý nghĩa.

    Chúa Giêsu đến để chiếu rọi ánh sáng vào cuộc sống con người. Ánh sáng đầu tiên đã được chiếu rọi vào cuộc sống chúng ta chính là những năm tháng ẩn dật ấy của Chúa Giêsu. Trong ánh sáng ấy, chúng ta sẽ hiểu dược dù nghèo hèn đến đâu, dù tối tăm đến đâu, công việc từng ngày của chúng ta là những đóng góp vào công cuộc cứu rỗi của Chúa. Con ve sầu phải tôi luyện trong suốt 17 năm trời mới có thể xuất hiện để sinh ra một mầm sống mới. Những lam lũ vất vả từng ngày của người Kitô chúng ta cũng có sức mang lại mầm sống mới cho rất nhiều người.

    Ước gì ánh sáng của Chúa Giêsu chiếu rọi vào cuộc sống của chúng ta, để, dù vất vả lao nhọc và đau khổ từng ngày, chúng ta luôn vui vẻ tiến bước vì tin rằng cuộc sống của chúng ta đang mang lại sức sống cho nhiều người.


    
    Trích sách Lẽ Sống


Lectio Divina: Mátthêu 28:8-15
Th Hai 2 Tháng Tư, 2018
Th Hai trong Tun Bát Nht Phc Sinh        


1.  Li nguyn m đu

Ly Thiên Chúa hng sng ca chúng con,
Tâm hn chúng con vui mng và hân hoan
Và chúng con cm thy an bình trong đc tin ca mình
Rng chúng con có mt Đng hng sng đ mà tin tưởng vào, là Chúa Giêsu Kitô, Đng đã sng li t cõi chết.
Xin hãy đ Người ch cho chúng con con đường ca s sng,
Xin cho chúng con sng trong nim hân hoan vì s hin din ca Người
Và ban cho chúng con ân sng được làm chng nhân,
Đ cho chúng con có th công b vi c cuc đi chúng con
Rng Chúa Giêsu là Thiên Chúa đã sng li, Chúa hng sng ca chúng con
Bây gi và muôn đi.

2.  Bài Đc Tin Mng Mátthêu 28:8-15

Khi y, các bà vi ra khi m va s hãi va hn h vui mng, chy báo tin cho các nhóm môn đ Chúa.  Và này Chúa Giêsu đón gp các bà, Người nói:  Chào các bà”.  Các bà lin li gn ôm chân Người và phc ly.  By gi Chúa Giêsu bo:  Các bà đng s.  Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phi tr v Galilêa, ri đó h s gp Ta.
Đang khi các bà lên đường, thì my người lính canh vào thành báo tin cho các thượng tế biết tt c nhng gì đã xy ra.  Các thượng tế lin hp vi các k lão, và sau khi đã bàn đnh, h cho lính mt s tin ln và bo rng:  Các anh hãy nói rng:  Ban đêm khi chúng tôi đang ng, thì môn đ ông đến ly trm xác ông.  Nếu vic này đến tai tng trn, chúng tôi s thương lượng vi ông, không đ các anh phi phin hà đâu.  Bn lính canh nhn tin và đã làm y như h căn dn chúng.  Bi thế, li đó được phao truyn nơi người Do Thái cho đến ngày nay.

3.  Suy Nim
  Chúa Phc Sinh!  Bài Tin Mng hôm nay mô t kinh nghim v S Phc Sinh mà các môn đ ca Chúa Giêsu đã tri qua.  Trong phn m đu sách Tin Mng ca mình, trong li gii thiu v Chúa Giêsu, thánh Mátthêu đã nói rng Chúa Giêsu là Đng Êmmanuel, Thiên-Chúa--cùng-chúng-ta (Mt 1:23).  Gi đây, ti phn kết, tác gi thông tri và làm gia tăng điu chc chn này v đc tin, vì ông tuyên xưng rng Đc Giêsu đã sng li (Mt 28:6) và Người s vi chúng ta luôn mãi, cho đến ngày tn thế! (Mt 28:20).  Trong các mâu thun ca đi sng, s tht này đã b nghi ng, tranh cãi rt nhiu.  Phe đi lp không phi là thiếu.  Nhng k thù, các thượng tế Do Thái, t bào cha cho mình chng li Tin Mng Phc Sinh và đánh tiếng rng thi th Chúa đã b các môn đ đánh cp (Mt 28:11-13).  Điu này cũng đang xy ra ngày nay.  Mt mt, n lc ca nhiu người sng và làm chng cho s sng li.  Mt khác, có rt nhiu k ác nhân chng phá s sng li và chng li s sng.
  Trong sách Tin Mng Mátthêu, s tht v vic Phc Sinh ca Chúa Giêsu được k li qua ngôn ng tượng trưng, trong đó mc khi ý nghĩa tim n ca s kin.  Thánh s Mátthêu nói v mt đt rung chuyn, v tia chp lóe ra và các thiên s công b vic chiến thng cái chết ca Chúa Giêsu (Mt 24).  Đó là ngôn ng khi huyn, rt ph biến vào thi y, đ loan báo rng thế gian cui cùng đã được biến đi bi quyn năng ca Thiên Chúa!  Nim hy vng ca người nghèo kh, nhng người được tái khng đnh đc tin ca h, đã được ng nghim:  Chúa đang sng gia chúng ta!
  Mt 28:8:  Nim vui mng Chúa Phc Sinh đã ln át ni s hãi.  Vào sáng sm Chúa Nht, ngày th nht trong tun, hai người ph n đã đi viếng m, bà Maria Mađalêna và Maria m ông Giacôbê, cũng được gi là bà Maria kia.  Đt nhiên mt đt rung chuyn d di và mt thiên thn hin ra như ln chp.  Các lính canh là nhng người đang gác m cũng đã run lên vì s hãi đến ni chết ngt đi.  Các người ph n đã ht hong nhưng thiên thn đã trn an các bà, loan báo s chiến thng cái chết ca Chúa Giêsu và sai h đi gp các môn đ Chúa Giêsu ti Galilêa.  Và ti Galilêa, h s có th được thy Người ln na.  Mi vic bt đu t đó; h đã nhn được s mc khi ln lao v Chúa Phc Sinh.  Nim hân hoan ca s Sng Li đã bt đu ln át ni s hãi.  Vì thế, li loan báo s sng và s sng li bt đu theo cách này.
  Mt 28:9-10:  Chúa Giêsu hin ra vi các ph n.  Các bà ra đi ngay lp tc.  Trong lòng các bà, s s hãi trn ln vi hân hoan.  Đây là nhng tình cm đin hình ca nhng người đã có mt kinh nghim sâu sc v Mu Nhim Thiên Chúa.  Đt nhiên, Chúa Giêsu đã đón gp các bà và nói vi h:  Hãy vui mng lên!”  Và các bà lin ôm ly chân Người và phc ly Người.  Đó là thái đ ca người tin tưởng và chp nhn s hin din ca Thiên Chúa, ngay c khi ngc nhiên và điu vượt quá kh năng hiu biết ca loài người.  Bây gi, Chúa Giêsu ra lnh cho các bà đi báo vi các anh em ti Galilêa:  Các bà đng s.  Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phi tr v Galilêa, ri đó h s gp Ta.
  Mt 28:11-15:  Óc tinh ranh hoc la đo ca nhng k thù ca Tin Mng.  Phe chng đi mà Chúa Giêsu đã phi đi mt trong cuc sng ca Người, bây gi li dy lên mt ln na sau khi Chúa Phc Sinh.  Các thượng tế gp và cho tin các lính canh.  H phi loan tin rng các môn đ đã ly trm xác ca Chúa Giêsu, và điu này đ làm vô hiu tt c mi li nói v s sng li.  Các thượng tế không chp nhn Tin Mng Phc Sinh.  H ưa tin rng đó là s ba đt t phía các môn đ nam cũng như n ca Chúa Giêsu.
  S quan trng ca li chng ca các bà.  S hin din ca nhng người ph n ti lúc chết, lúc mai táng và ti lúc sng li ca Chúa Giêsu thì quan trng.  H là nhng nhân chng v cái chết ca Chúa Giêsu (Mt 27:54-56).  Ti lúc mai táng, các bà vn còn ngi trước m và vì thế, các bà có th làm chng v đa đim mà Chúa đã được mai táng (Mt 27:61).  Gi đây, vào sáng Chúa Nht, các bà li có mt đó ln na.  Các bà biết rng ngôi m trng thc s là ngôi m ca Chúa Giêsu!  Kinh nghim sâu sc v cái chết và s sng li mà các bà có, đã biến đi đi sng các bà.  Chính các bà đã tr thành nhng nhân chng có đ tư cách v s Phc Sinh trong các Cng Đoàn Kitô hu.  Đây là lý do ti sao h nhn được lnh phi đi thông báo:  Chúa Giêsu đang sng!  Người đã sng li t cõi chết!

4.  Mt vài câu hi gi ý cho vic suy gm cá nhân
  Kinh nghim v s sng li mà tôi có trong đi tôi là gì?  trong tôi đã có mt lc nào mà c gng chng li kinh nghim v s sng li không?  Tôi đã phn ng ra sao?
–  Ngày nay, s v ca cng đoàn chúng ta, ca chúng ta, các môn đ ca Chúa Giêsu là gì?  Chúng ta có th rút ra được sc lc, sc mnh và lòng can đm t nơi nào đ hoàn thành s v ca mình?

5.  Li nguyn kết
Con chúc tng CHÚA hng thương ch dy,
Ngay c đêm trường, lòng d nhn nh con.
Con luôn nh có Ngài trước mt,
Được Ngài bên, chng nao núng bao gi.
(Tv 16:7-8)




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét