24/04/2018
Thứ Ba tuần 4 Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 11, 19-26
"Họ cũng rao
giảng Chúa Giêsu cho người Hy-lạp".
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Trong những ngày ấy,
vì cơn bách hại xảy ra nhân dịp Têphanô bị giết, có nhiều người phải sống tản
mác, họ đi đến Phênixê, Cyprô và Antiôkia, họ không rao giảng lời Chúa cho một
ai ngoài những người Do-thái. Nhưng một ít người trong họ quê ở Cyprô và
Xyrênê; khi đến Antiôkia, họ cũng rao giảng Chúa Giêsu cho người Hy-lạp nữa. Và
tay Chúa ở với họ; nên có đông người tin trở về với Chúa. Tin đó thấu tai Hội
Thánh Giêrusalem, nên người ta sai Barnaba đến Antiôkia. Khi đến nơi và thấy việc
ơn Chúa thực hiện, ông vui mừng và khuyên bảo mọi người hãy vững lòng tin nơi
Chúa; Barnaba vốn là người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin. Và có đoàn người
đông đảo tin theo Chúa. Vậy Barnaba đi Tarxê tìm Saolô. Gặp được rồi, liền đưa
Saolô về Antiôkia. Cả hai ở lại tại Hội Thánh đó trọn một năm, giảng dạy cho quần
chúng đông đảo; chính tại Antiôkia mà các môn đồ lần đầu tiên nhận tên là Kitô
hữu.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 86, 1-3.
4-5. 6-7
Ðáp: Hỡi muôn dân, hãy ngợi khen Chúa (Tv 116, 1a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Chúa yêu cơ
sở Ngài thiết lập trên núi thánh; Ngài yêu cửa nhà Sion hơn mọi cư xá nhà
Giacóp. Hỡi thành trì của Thiên Chúa, thiên hạ đang nói những điều hiển hách về
ngươi. - Ðáp.
2) Ta sẽ kể Rahab và
Babel vào số người thờ phượng Ta, kìa Philitinh, Tyrô và dân Êthiôpi: những người
này đã sinh ra tại đó. Và thiên hạ sẽ nói về Sion rằng: "Riêng từng người
và hết mọi người đã sinh tại đó, chính Ðấng Tối Cao đã củng cố thành này".
- Ðáp.
3) Chúa sẽ ghi chép
vào sổ sách của chư dân rằng: "Những người này đã sinh ra tại đó". Và
khi ca vũ, người ta sẽ ca rằng: "Mọi nguồn vui thú của tôi đều ở nơi
ngươi". - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúa
Kitô, Ðấng tác tạo mọi loài, đã sống lại và đã xót thương nhân loại. -
Alleluia.
Phúc Âm: Ga 10, 22-30
"Tôi và Cha
Tôi là một".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, người ta mừng
lễ Cung Hiến tại Giêrusalem. Bấy giờ là mùa đông. Chúa Giêsu đi bách bộ tại đền
thờ, dưới cửa Salômôn. Người Do-thái vây quanh Người và nói: "Ông còn để
chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Ðức Kitô, thì xin ông nói rõ cho
chúng tôi biết". Chúa Giêsu đáp: "Tôi đã nói với các ông mà các ông
không tin. Những việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi, làm chứng về Tôi. Nhưng các
ông không tin, vì các ông không thuộc về đàn chiên tôi. Chiên Tôi thì nghe tiếng
Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ
không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi. Ðiều mà
Cha Tôi ban cho Tôi, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi
tay Cha Tôi. Tôi và Cha Tôi là một".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Ta Và
Cha Là Một
"Ta ban cho chúng
được sự sống đời đời, Ta ban cho những ai tin Ta có sự sống đời đời, không ai
cướp được chúng khỏi tay Ta. Ta và Cha là một" (Ga 10,28-30).
Ðây là một thực tại
cao cả nơi cuộc sống của những người tin vào Chúa, và Chúa Giêsu muốn mạc khải
cho những người Do Thái đến hỏi Chúa: "Ông để chúng tôi phân vân đến bao
giờ nữa, nếu ông là Ðức Kitô thì hãy nói trắng ra cho chúng tôi biết" (Ga
10,24). Thánh Gioan đã đặt những lời mạc khải trên của Chúa Giêsu về thực tại đời
sống Ðức Tin của người Kitô hữu vào dịp lễ cung hiến Ðền Thờ Giêrusalem, và như
ta đã biết, cổng đền thờ là nơi các thầy thông luật Do Thái đến để giải thích lề
luật cho dân chúng, do đó Chúa Giêsu đến đây để giảng dạy cho dân chúng. Nhưng
hơn ai hết, Chúa Giêsu là một vị thầy hơn mọi vị thầy thông luật của Israel thời
đó, vì Con Thiên Chúa Lam Người đã hiện diện nơi đó không những để giảng dạy lề
luật, mà còn là Ðấng thay thế cho các bậc thầy vĩnh viễn. Như lời Chúa đã phán:
"Chúng con không có vị thầy nào khác vì Thầy là Ðường, là Sự Thật và là Sự
Sống" (Ga 14,6).
Hơn nữa, dịp tụ họp
dân chúng nơi cổng Salomon ở đền thờ là dịp lễ cung hiến đền thờ Giêrusalem. Lễ
cung hiến đền thờ có ý nghĩa gì đối với người Do Thái? Thưa, đây là một trong
những lễ trọng của người Do Thái vì để ghi dấu đền thờ Giêrusalem trước đó đã bị
ô uế, bị xúc phạm, nay thánh hiến lại để bắt đầu trở lại sinh hoạt tôn giáo. Lễ
cung hiến đền thờ nhắc cho người dân nhớ lại sự phục hưng tôn giáo được những sứ
giả của Chúa là anh em Macabê thực hiện vào năm 146 trước Chúa Giáng Sinh. Vào
năm 170 đền thờ đã bị vua Syria làm ô uế, làm nơi dâng lễ vật cho thần ngoại
bang Hy Lạp vì thế mà đã xúc phạm đến Thiên Chúa chân thật. Giờ đây đền thờ
cung hiến được lại là để nhắc nhớ lại khung cảnh tôn giáo và địa điểm cung
thánh giảng dạy là cổng Salomon.
Như vậy, thánh Gioan
muốn nhắc lại một cách kín đáo cho các độc giả của ngài về chương trình hay những
ý định sâu xa của Chúa Giêsu, đó là lúc Chúa Giêsu muốn mạc khải sự thật về ơn
cứu rỗi, hầu khai mạc một thời đại mới, thời đại phục hưng tôn giáo dựa trên đức
tin vào Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa.
Khi ấy ở Giêrusalem dịp
cung hiến đền thờ bấy giờ là vào mùa đông, và Chúa Giêsu đã đi đi lại lại ở cổng
đền thờ Salomon. Sau những câu nhập đề mô tả khung cảnh tôn giáo như vậy, thánh
Gioan kể tiếp thắc mắc của người Do Thái, bấy giờ người Do Thái vây quanh Chúa
Giêsu và hỏi: "Ông để chúng tôi phân vân đến bao giờ nữa, nếu ông là Ðức
Kitô thì hãy nói trắng ra cho chúng tôi biết".
Thánh Gioan thường
dùng từ ngữ những người Do Thái để chỉ những kẻ không tin Chúa, không những
không tin mà còn có ý đồ xấu bắt bẻ lời Chúa và âm mưu làm hại Người. Xem ra họ
muốn tìm hiểu về Chúa nhưng thực sự là họ có ý đồ xấu, muốn nghe chính Chúa nói
mình là Con Thiên Chúa, là Ðấng Kitô để tố cáo Ngài. Nói phạm thượng và tội phạm
thượng là tội đáng bị xử tử theo luật Do Thái, họ muốn có bằng cớ thêm để tố
cáo "Ông này là người mà dám xưng mình là Con Thiên Chúa" (Ga 5,18).
Ðó là lời tố cáo sau này được nói lên khi luận xử Chúa Giêsu trước khi đóng
đinh Ngài vào Thập Giá như chúng ta đã biết.
Chúa Giêsu đã phơi trần
âm mưu của họ: "Ta đã nói với anh em rồi mà anh em không tin, vì các anh
không phải là chiên Ta" (Ga 10,25-27). Lời nói và việc làm của Chúa mà người
Do Thái thấy tận mắt tai nghe từ khi Chúa Giêsu rao giảng cho đến lúc này đã
quá đủ mạc khải Ngài là ai rồi. Nếu những kẻ nghe và nhận thấy Chúa Giêsu có một
tâm hồn sẵn sàng, đó là tâm hồn yêu thương gắn bó với người chủ chăn. Không có
thái độ nội tâm sẵn sàng thì không có thái độ đón nhận Lời Chúa mạc khải và
cũng không tin nhận Ngài. Mà nếu không tin nhận Chúa làm sao có được sự sống đời
đời, làm sao gắn bó kết hợp mật thiết với Chúa được. Còn đối với những kẻ tin
nhận Chúa thì được một lời bảo đảm vô cùng quan trọng: "Không ai có thể cướp
khỏi Cha được" (Ga 10,29-30).
Sống tin tưởng vào
Chúa là một bảo đảm chắc chắn cho những ai yêu mến Ngài. Lạy Chúa, xin cho con
luôn kết hợp với Chúa trong mọi nơi, mọi lúc của cuộc đời. Amen.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần IV PS
Bài đọc: Acts
11:19-26; Jn 10:22-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ai thuộc về
đoàn chiên của Thiên Chúa nghe tiếng Chúa Giêsu.
Có những tiếng nói hay
tiếng cười đã quá quen thuộc khiến con người chẳng cần nhìn cũng nhận ra người
đang nói hay đang cười là ai. Chẳng hạn, khi Chúa Giêsu hiện ra với Mary Magdala,
Chúa chỉ cần gọi một tiếng ngắn ngủi: “Mary.” Bà nhận ra ngay và kêu lên: “Lạy
Thầy!” Trong mối liên hệ giữa Thiên Chúa với con người cũng thế. Vì Thiên Chúa
dựng nên con người giống hình ảnh và các đức tính của Ngài, con người theo tính
tự nhiên dễ hướng chiều về sự thật, về yêu thương và tha thứ, và nhất là về
Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người.
Các Bài Đọc hôm nay muốn
nói lên mối liên hệ mật thiết giữa Thiên Chúa và con người. Trong Bài Đọc I,
Sách CVTĐ tường thuật sự thành công trong việc rao giảng Tin Mừng của các môn đệ
Chúa: Vì có bàn tay Chúa ở với họ, nên một số đông đã tin và trở lại cùng Chúa;
không chỉ những người Do-thái, mà còn rất nhiều Dân Ngoại. Chính tại Antioch mà
lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố
với các đối phương của Ngài: "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết
chúng và chúng theo tôi."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Vì có bàn tay Chúa ở với họ, nên một số đông đã tin và trở
lại cùng Chúa.
1.1/ Tin Mừng bắt đầu được
loan truyền ra ngoài lãnh thổ của Do-thái:
Sau cuộc bách hại xảy ra nhân vụ ông Stephanô, các môn đệ phải tản mác đi đến tận
miền Phoenicia, đảo Cyprius và thành Antioch. Họ không rao giảng Lời Chúa cho
ai ngoài người Do-thái. Nhưng trong nhóm, có mấy người gốc Cyprius và Cyrene;
những người này, khi đến Antioch, đã giảng cho cả người Hy-lạp nữa, loan Tin Mừng
Chúa Giêsu cho họ.
Điều làm chúng ta ngạc
nhiên là sự trở lại của rất nhiều người và trong nhiều trường hợp rất ly kỳ,
như sự trở lại của Phaolô, của viên Thái Giám người Ethiopia, và của viên Đại Đội
Trưởng người Roma. Trình thuật hôm nay cho chúng ta lý do chính xác của các cuộc
trở lại: "Vì có bàn tay Chúa ở với họ, nên một số đông đã tin và trở lại
cùng Chúa." Nói cách khác, những người này luôn khao khát sự thật, khao
khát được biết về Thiên Chúa, và khao khát được sống muôn đời; nên khi họ nghe
những lời các môn đệ của Chúa rao giảng Tin Mừng, họ nhận ra ngay những khao
khát của họ được đáp ứng, nên họ tuyên xưng đức tin và chịu Phép Rửa.
1.2/ Chính tại Antioch mà
lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu: Khi
Hội Thánh tại Jerusalem nghe tin nhiều người trở lại tại Antioch, họ cử ông
Barnabas đi Antioch để thành lập cộng đoàn tại đó. "Khi tới nơi và thấy ơn
Thiên Chúa như vậy, ông Barnabas mừng rỡ và khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó
cùng Chúa, vì ông là người tốt, đầy ơn Thánh Thần và lòng tin. Và đã có thêm một
đám rất đông theo Chúa." Tên của ông Barnabas có nghĩa "con của
khuyên nhủ," vì ông được Chúa ban cho có biệt về "khuyên nhủ."
Điều này cho ta thấy người mục tử phải là người sống gần gũi với Thiên Chúa,
trước khi có thể dẫn dắt con người đến với Thiên Chúa. Nếu người mục tử không
nghe được tiếng Thiên Chúa, làm sao ông có thể giảng giải cho dân và khuyên nhủ
họ đến với Ngài?
Sau đó, ông Barnabas
trẩy đi Tarsus tìm ông Phaolô. Khi tìm được rồi, ông đưa ông Phaolô đến
Antioch. Hai ông cùng làm việc trong Hội Thánh ấy suốt một năm và giảng dạy cho
rất nhiều người. Sứ vụ của hai ông tại Antioch khởi sự cho sứ vụ rao giảng Tin
Mừng đặc biệt cho Dân Ngoại. Chính tại Antioch mà lần đầu tiên các môn đệ được
gọi là Kitô hữu. Danh xưng này có nghĩa là những người theo Đức Kitô. Để theo
Ngài, họ cần biết nghe và thực hành những gì Ngài giảng dạy, chứ không phải chỉ
là Kitô hữu trên danh nghĩa. Nói cách khác, họ là những môn đệ của Đức Kitô, và
có bổn phận phải họa lại cuộc đời của Ngài cho người khác thấy và tin vào Ngài.
2/ Phúc Âm: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng
theo tôi.
2.1/ Người Do-thái thắc mắc
về căn tính của Chúa Giêsu: "Khi ấy, ở
Jerusalem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Bấy giờ là mùa Đông. Đức
Giêsu đi đi lại lại trong Đền Thờ, tại hành lang Solomon. Người Do-thái vây
quanh Đức Giêsu và nói: "Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến
bao giờ? Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết."
Ngày lễ Cung Hiến Đền Thờ cũng là ngày lễ hội ánh sáng (Hanukka) của người
Do-thái. Họ cử hành lễ để tôn vinh ánh sáng vì ngày trở nên ngắn và đêm tối trở
nên dài hơn (tháng 12). Ánh sáng và bóng tối có một ý nghĩa đặc biệt trong
Gioan.
Tại sao cũng những lời
rao giảng của Chúa Giêsu, mà có người tin vào Ngài, và có những người không tin
vào Ngài? Thái độ cần phải khiêm nhường khi đi tìm sự thực là điều quan trọng,
vì nếu đã hãnh diện biết rồi, còn cần gì phải đi tìm nữa! Khi người Do-thái hỏi
Chúa Giêsu câu hỏi như trên, họ không có ý nhiệt thành muốn đi tìm sự thực;
nhưng coi Chúa Giêsu như lý do làm họ phải nhức đầu, và họ không muốn thay đổi
lề lối suy nghĩ của họ. Với một thái độ như thế, làm sao họ có thể học hỏi những
gì Chúa Giêsu muốn mặc khải cho họ! Lý do khác làm họ cứng lòng vì họ muốn ở
trong bóng tối (Jn 3:19-20).
2.2/ Mối liên hệ giữa
Chúa Giêsu với Chúa Cha, và với con người:
(1) Liên hệ giữa Chúa
Giêsu và con người: Chúa Giêsu thẳng thắn cho họ biết lý do tại sao họ không
nghe Ngài: "Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc
tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng các ông không
tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi. Chiên của tôi thì nghe tiếng
tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không
bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi." Họ
không tin Chúa Giêsu không phải vì không có các lý do chắc chắn để tin; nhưng
vì họ từ chối không chịu lắng nghe và suy nghĩ những gì Chúa Giêsu đã nói và đã
làm. Họ muốn thấy dấu lạ, Chúa Giêsu đã làm nhiều dấu lạ. Họ muốn nghe lời chân
lý, Chúa Giêsu đã mặc khải bao nhiêu sự thật của Thiên Chúa. Nếu những người
thiện chí muốn đi tìm sự thật, họ đã nhận ra Ngài đến từ Thiên Chúa từ lâu rồi.
Nhưng họ đã nhìn và đã nghe đến độ Chúa phải dùng lời tiên tri Isaiah mà nói:
"Chúng ra đui mù và lòng chúng ra chai đá, kẻo mắt chúng thấy và lòng
chúng hiểu được mà hoán cải, rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành" (Jn 12:40).
(2) Liên hệ giữa Chúa
Giêsu với Chúa Cha: Chúa nói: "Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn
hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một."
Trong Kế Hoạch Cứu Độ,
con người được Chúa Cha ban cho Chúa Giêsu bằng cách tạo cơ hội để họ nghe Chúa
Giêsu rao giảng; đồng thời ban Thánh Thần để họ nhận ra sự thật và thúc đẩy họ
tin vào Đức Kitô. Vì thế, cả hai: Chúa Cha và Chúa Con đều hoạt động cho cùng một
mục đích là để con người có thể tin vào Đức Kitô và được hưởng cuộc sống muôn đời.
Khi các tín hữu đã tin vào Đức Kitô, Ngài sẽ bảo vệ họ; nếu họ trung thành nghe
tiếng Ngài hướng dẫn, không một quyền lực nào có thể động đến các tín hữu, và
cuộc sống muôn đời là của họ (Jn 6:39-40).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta có bổn phận
loan truyền Lời Chúa cho mọi người và cho mọi dân tộc trên thế giới; vì tất cả
được Thiên Chúa dựng nên và có khả năng để đón nhận sự thật.
- Chúng ta là đoàn
chiên của Đức Kitô, chúng ta phải biết lắng nghe để nhận ra tiếng của Ngài, và
theo sự hướng dẫn của Ngài, thì mới mong tránh được mọi nguy hiểm trong cuộc đời.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
24/04/2018 - THỨ BA TUẦN 4 PS
Th. Phi-đen Dich-ma-ring-gân, linh mục
Ga 10,22-30
VIỆC LÀM MINH CHỨNG
“Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì xin nói công khai cho chúng tôi
biết.” Đức Giê-su đáp: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những
việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi.” (Ga 10,24-25)
Suy niệm: Trả lời cho viên sĩ quan
cai ngục về nguồn gốc của mình, cha Kolbe dõng dạc nói: “Tôi là một linh mục
Công Giáo”. Lời tuyên bố này được minh chứng bằng những việc bác ái ngài thực
hiện trong tù, đặc biệt bằng hành động chết thay cho một người bạn tù đáng
thương. Những hành vi bác ái ấy minh chứng cha Kolbe thuộc về Thiên Chúa và là
môn đệ Chúa Giê-su. Chúa Giê-su luôn thể hiện nguồn gốc của mình thuộc về Chúa
Cha, bằng lời giảng dạy và việc làm. Đời sống của Ngài khiến những người đương
thời nhìn nhận nơi Ngài không có điều gì gian dối, là “người vô tội” và là “Con
Thiên Chúa”. Việc của Ngài làm chứng minh nguồn gốc của Ngài.
Mời Bạn: Chúng ta là Ki-tô hữu, là
những người được chọn để thuộc về Thiên Chúa. Trong khuôn viên nhà thờ quen thuộc,
chúng ta dễ dàng để tuyên xưng như thế. Nhưng có những lúc rất ngại để nói mình
là Ki-tô hữu, vì những việc chúng ta làm nghịch lại với nguồn gốc và ơn gọi của
mình. Bạn sẽ nói thế nào về nguồn gốc Ki-tô hữu của bạn khi bạn không sống phù
hợp với đức tin?
Chia sẻ: Người ta hãnh diện về vị trí, tài năng, nguồn gốc của họ.
Tại sao bạn ngại ngùng nói về nguồn gốc Ki-tô hữu của bạn?
Sống Lời Chúa: Quyết tâm thực hiện Lời
Chúa dạy qua một việc làm cụ thể.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su
Phục Sinh, xin giúp con mạnh dạn sống Lời Chúa dạy, để con vui sướng khi tỏ dấu
con thuộc về Chúa.
(5 Phút Lời Chúa)
Không ai cướp được chúng (24.4.2018 – Thứ ba Tuần 4 Phục sinh)
Theo Chúa đâu phải để tránh bão, nhưng để vượt qua cơn bão. Theo Chúa đâu phải để khỏi bị cám dỗ, nhưng để thắng cơn cám dỗ.
Suy niệm:
Có những Kitô hữu theo
đạo để mong tránh sóng gió của cuộc đời.
Nhưng đã có lần con
thuyền chở Đức Giêsu và môn đệ gặp bão lớn,
nước tràn vào khiến
thuyền gần chìm, làm môn đệ hốt hoảng.
Theo Chúa đâu phải để
tránh bão, nhưng để vượt qua cơn bão.
Theo Chúa đâu phải để
khỏi bị cám dỗ, nhưng để thắng cơn cám dỗ.
Cuộc sống của người Kitô
hữu không tránh khỏi những khó khăn
mà những người không Kitô
hữu phải đối mặt mỗi ngày.
Hơn nữa, người Kitô hữu
còn gặp nhiều khó khăn hơn.
Có những cơn bão ập đến bất
ngờ chỉ vì họ là Kitô hữu.
Làm chiên trong đàn chiên
của Đức Giêsu
không có nghĩa là được
hưởng một sự êm ả dễ chịu.
Được ở trong ràn chiên
của Chúa,
không có nghĩa là được
yên ổn, chẳng bị ai quấy phá.
Đức Giêsu đã nói đến
chuyện kẻ trộm, kẻ cướp, leo tường mà vào (c.10).
Chúng đến để ăn trộm,
giết hại và phá hủy đàn chiên (c. 10).
Khi được dẫn đi ăn nơi
đồng cỏ, chiên còn phải đối đầu với sói dữ.
“Sói cướp lấy chiên và
làm cho chiên tán loạn” (c. 12).
Đức Giêsu khẳng định mình
không phải là người làm thuê,
nên khi sói đến, Ngài
không bỏ chiên mà chạy.
Chiên là điều quý giá đối
với Ngài đến độ Ngài dám nói nhiều lần:
“Tôi hy sinh mạng sống
mình cho đoàn chiên” (cc. 11.15.17.18.).
Và thực sự Ngài đã làm
điều đó trên thập giá.
Rõ ràng bảo vệ đoàn chiên
là chuyện mấy chẳng dễ dàng.
Nếu Đức Giêsu, người mục
tử nhân hậu mà bất khuất,
đã phải hy sinh mạng sống
cho đoàn chiên,
thì hẳn cuộc chiến giằng
co phải rất là ác liệt.
Kẻ thù của chiên chẳng
phải là kẻ kém cỏi tầm thường.
Trong cuộc chiến để bảo
vệ chiên, còn có sự hiện diện của Cha.
Chiên là của Cha và Cha
đã giao chiên cho Đức Giêsu (c. 29).
Cha và Con cùng hợp tác
để bảo vệ đoàn chiên,
không để ai cướp chiên ra
khỏi vòng tay che chở của mình (cc. 28-29).
Cha và Con một lòng một ý
trong nhiệm vụ này (c. 30).
Việc bảo vệ chiên còn kéo
dài mãi đến tận thế.
Chúng ta làm gì để cộng
tác với Chúa trong việc bảo vệ mình khỏi sói dữ?
Hãy tin vào Giêsu và nhận
ra giọng nói của Giêsu để khỏi bị lừa.
Hãy theo sát sự dẫn đường
của Giêsu, vị Mục tử đã chiến thắng cái chết.
Và hãy tin vào Chúa Cha,
Đấng mạnh mẽ hơn tất cả (c. 29).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào
thế giằng co liên tục.
Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,
lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau
lẫn lộn.
Có khi vàng chỉ là lớp mạ
bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,
giữ được vị mặn của muối,
và sức tác động của men,
để đem đến cho thế gian
một linh hồn, một sức
sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,
chỉ sợ mình bỏ sống đạo
vì bị quyến ru bởi bao
thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng
chúng con mang dòng máu
của các vị tử đạo,
những người đã đặt Chúa
lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,
thì xin cho chúng con cảm
thấy niềm vui
của người được diễm phúc
nên giống Chúa. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
24 THÁNG TƯ
Phó Thác Cho Quyền
Lực Cứu Độ Của Đức Kitô
Ơn cứu chuộc bắt đầu với
Thập Giá và được hoàn thành nơi cuộc Phục Sinh. Chiên Con đã cứu chuộc bầy
chiên. Đức Kitô vô tì tích đã giao hòa các tội nhân với Chúa Cha.
Và, con người đã được
giải thoát khỏi sự chết và được trao ban lại sự sống. Và, con người đã được giải
phóng khỏi tội lỗi và được trao ban lại tình yêu. Hỡi tất cả những ai còn đang
chìm trong bóng tối của sự chết, xin hãy lắng nghe: Đức Kitô đã sống lại! Hỡi tất
cả những ai còn đang bị đè nặng dưới ách của tội lỗi, xin hãy lắng nghe: Đức
Kitô đã vượt thắng tội lỗi nơi Thập Giá và nơi cuộc Phục Sinh của Người! Hãy
phó thác sự sống của anh em cho Người!
Hỡi con người của thế
giới hôm nay! Hãy qui phục Đức Kitô, qui phục quyền lực của Người! Càng khám
phá ra những nẻo đường tội lỗi sau lưng mình, anh em càng ý thức hơn sự chết khủng
khiếp như thế nào. Anh em hãy đặt mình trong quyền năng cứu độ của Đức Kitô!
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 24/4
Thánh Fiđêlê
Sigmaringen linh mục tử đạo
Cv 11,
19-26; Ga 10, 22-30.
LỜI SUY NIỆM: “Cha tôi, Đấng
đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai được cướp được chúng khỏi
tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một.”
Đây là một lời khẳng định
của Chúa Giêsu đối với những ai tin và thuộc về Người, sự an toàn của mỗi người
không chỉ được quyền năng của Người bảo vệ, mà còn có sự bảo vệ của chính Chúa
Cha, với lời khẳng định này của Người, Người còn cho chúng ta biết được Người với
Chúa Cha là một. Điều này được làm sáng tỏ trong Tin Mừng của Gioan: “Để tất cả
nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta.
Như vậy thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con.” (Ga 17,21)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa
đã yêu mến và vâng lời Chúa Cha trọn vẹn và đã đón nhận chúng con vào vòng tay
quyền năng yêu thương tha thứ của Chúa, xin cho mỗi người trong chúng con luôn
yêu mến và tạ ơn Chúa với đời sống vâng phục Chúa và yêu thương nhau.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 24-04
Thánh FIDÊLÊ Đệ
SIGMARINGA
Tử Đạo - (1528 -
1622)
Thánh Fidelê, tên thật
là Marê Rey, sinh ra năm 1528 ở Sigmaringa nước Đức. Sau những ngày trong tuổi
thơ ấu trong trắng vô tội, Ngài được gởi đi học tại đại học tại Friburg, Thụy
Sĩ. Để tự chủ, Marê thực hiện nhiều việc bỏ mình nghiêm ngặt. Khi đã hoàn tất cấp
bậc tiến sĩ về triết học, Ngài đã tỏ ra rất mực khôn ngoan đến nỗi người ta gọi
Ngài là triết gia Kitô giáo.
Năm 1604, công tước
Stotzngen xin Ngài hứơng dẫn cho con mình và hai nhà quí phái khác trong một cuộc
du hành khắp các vương quốc Âu Châu để học hiểu. Cuộc du hành kéo dài sáu năm.
Marê đã khuyên nhủ họ nhiều điều không thể quên được. Ngài thúc giục họ phải biết
thắng vượt chính mình: - Sống xa hoa nhẹ dạ, người ta bất xứng với vinh quang
thực mà chỉ chinh phục được bằng nỗ lực và bằng việc chà đạp vui thú dưới chân.
Sau cuộc viễn du những
nhà quí phái trẻ muốn Ngài đừng bỏ họ. Ngài đã theo học luật. Và sau khi nhận bằng
tiến sĩ luật Ngài lập văn phòng luật sư ở Colmar. Ngài quyết thực thi đức ái đến
nỗi Ngài được gọi là luật sư của dân nghèo. Nhưng nghề nghiệp đã cứu giúp Ngài
khám phá ra được những bất lương của cuộc đời. Quyết định theo đuổi đời sống
hoàn hảo, Ngài tới gõ cửa dòng Phanxicô. Năm 1612 Ngài được danh hiệu Fiđêlê.
Vị luật sư trở thành
thầy dòng làm cho ma quỉ tức giận. Trước các cơn cám dỗ, thày Fiđêlê bối rối,
nhưng thử thách tan biến khi Ngài đến giải bày nỗi lòng với một linh mục giàu
kinh nghiệm, Người đã dạy Ngài cầu nguyện nhiều hơn,
Fiđêlê đã khẩn cầu tha
thiết. - Lạy Chúa cứu chuộc con, xin trả lại niềm vui cần thiết và bình an tâm
hồn. Xin hãy tẩy sạch mọi nghi ngờ để ý Chúa được thực hiện và để con thắng vượt
quân thù, thắng con người và những đam mê của con.
Fiđêlê nỗ lực hy sinh
hãm mình cho đến khi Thiên Chúa ban lại bình an cùng ánh sáng cho Ngài. Từ đó
thánh nhân luôn trung thành quảng đại hiến mình cho Chúa. Ngài nói: - Thật bất
hạnh nếu tôi là một chiến sĩ dưới quyền thủ lãnh đầu đội mão gai, mà lại chiến
đấu một cách yếu hèn.
Khi được chọn làm bề
trên tu viện ở Weltkirvhen, Ngài được ơn làm phép lạ để hoán cải người ta. Gặp
thời dịch tể, Ngài hết mình phục vụ các bệnh nhân. Người ta thấy Ngài ở khắp
nơi, trong nhà thương, ở tư gia, chạy trên đường phố, săn sóc thân xác linh hồn
mọi người và thường chữa lành cho cả hồn lẫn xác.
Lạc giáo tàn phá miền
Grisons. Đức giáo hoàng giao cho thánh Fiđêlê trách nhiệm đối phó với nhón người
theo pháí Calvin. Thánh nhân giã từ tu viện, để lại bao nhiêu là xúc động, Ngài
từ biệt dân Weltkirchen như đi chịu tử đạo.
Nhưng với các bạn đồng
hành, Ngài khích lệ: - Nào chúng ta lên đường tới nơi mà Chúa kêu gọi và mùa gặt
thúc bách.
Ngài giảng cho dân
chúng, dạy người nghèo, thông truyền giáo lý cho trẻ em.
Để cứu một linh hồn,
Ngài cũng sẵn sàng đi chân không vượt qua mọi sỏi đá tuyết sương. Những người
Thệ phản bực tức vì sự anh dũng của thánh nhân nên họ quyết thủ tiêu Ngài. Thư
từ Ngài viết còn ghi: - Thày Fiđêlê sẽ sớm làm mồi cho sâu bọ.
Một lần kia, sau bài
giảng hùng hồn, thánh nhân xin bạn mình ngồi tòa giải tội vì Ngài phải đi
Seewis không biết có điều gì sẽ xảy ra, nhiều người lo lắng cầu nguyện cho
Ngài.
Một người đã hỏi : - Nếu
các người theo lạc giáo tấn công thì Cha làm sao ?
Thánh Fiđêlê trả lời :
- Tôi sẽ làm như các vị tử đạo. Tôi sẽ vui mừng đón nhận cái chết vì tình yêu
Chúa và coi đó như một ân huệ lớn lao dành cho tôi.
Ngài thường nói : - Lạy
Chúa, con phải chịu khó với Chúa nếu con muốn được hoàn toàn thuộc về Chúa.
Tại Seewis, Ngài rung
chuông tập họp dân chúng lại. Một riếng súng nổ, nhưng không trúng Ngài. Trên
đường về Grisch, Ngài bị một nhóm binh sĩ lạc giáo xông vào đánh đập, Ngài chỉ
nói được trong hơi thở yếu ớt: - Tôi hiến mạng sống tôi để các bạn nhận biết đức
tin của tổ tiên chúng ta.
Bị đập, Ngài vẫn gắng
gượng để thốt lên : - Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con. Lạy Mẹ Maria, xin
giúp đỡ con.
Và Ngài đã xin Thiên
Chúa tha cho kẻ thù mình và gục ngã dưới lưỡi gươm ngày 24 tháng 04 năm 1622.
(daminhvn.net)
24 Tháng Tư
Hạt Táo
Tại một xứ Hồi giáo
nọ, có một người đàn ông bị vua truyền lệnh treo cổ vì đã ăn cắp thức ăn của một
người khác. Như thường lệ, trước khi bị treo cổ, tù nhân được nhà vua cho phép
xin một ân huệ. Kẻ tử tội bèn xin với nhà vua như sau: "Tâu bệ hạ, xin cho
thần được trồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nảy mầm,
thành cây và có trái ăn ngay tức khắc. Ðây là một bí quyết mà cha thần đã truyền
lại cho thần. Thần tiếc là bí quyết này không được truyền lại cho hậu thế".
Nhà vua truyền lệnh
cho chuẩn bị mọi sự sẵn sàng để sáng hôm sau người tử tội sẽ biểu diễn cách trồng
táo. Ðúng giờ hẹn, trước mặt nhà vua và các quan văn võ trong triều đình, tên
trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói: "Chỉ có người nào chưa hề ăn cắp hoặc lấy
của người khác, người đó mớico thể trồng được hạt giống này. Vì đã từng ăn trộm
nên tôi không thể trồng được hạt giống này".
Nhà vua tin người tử
tội, nên mới quay sang nhìn vị tể tướng, có ý nhờ ông ta làm công tác ấy. Nhưng
sau một hồi do dự, vị tể tướng mới thưa: "Tâu bệ hạ, thần nhớ lại lúc còn
niên thiếu, thần cũng đã có lần lấy của người khác... Thần cảm thấy mình không
đủ điều kiện để trồng hạt táo này". Nhà vua đảo mắt nhìn quanh các quan
văn võ đang cómặt, ông nghĩ bụng: may ra quan thủ kho trong triều đình là người
nổi tiếng trong sạch có thể hội đủ điều kiện. nhưng cũng giống như vị tể tướng,
quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố trước mặt mọi người rằng, ông
cũng đã có một lần gian lận trong chuyện tiền bạc. không còn tìm được người nào
có thể thực hiện được bí quyết trồng cây ấy, nha vua định cầm hạt giống đến cho
vào lỗ đã đào sẵn. Nhưng ông cũng chợt nhớ rằng lúc còn niên thiếu, ông cũng có
lần đánh cắp một báu vật của vua cha...
Lúc bấy giờ, người
tử tội chỉ vì ăn cắp thức ăn, mới chua xót thốt lên: "Các ngài là những kẻ
quyền thế cao trọng. Các ngài không hề thiếu thốn điều gì. Vậy mà các ngài cũng
không thể trồng được hạt giống này, bởi vì các ngài cũng đã hơn một lần lấy của
người khác. Còn tôi, một con người khốn khổ, chỉ lỡ lấy thức ăn của người khác
để ăn cho đỡ đói qua ngày, thì lại bị các ngài nghị án treo cổ...". Nhà
vua và cả triều thần nghe như xốn xáo trong lương tâm. Ông ra lệnh phóng thích
cho người ăn trộm.
Lời cầu chúc
"bình an" của Ðức Kitô Phục Sinh là một thứ hạt táo được gieo vào tâm
hồn chúng ta. hạt giống bình an đó chỉ có thể nảy mầm thành cây và mang lại hoa
trái là nếu mỗi người ai cũng dọn sẵn đất đai cho nó. Ðất đai thuận tiện để cho
hạt giống của Bình An ấy được nảy mầm, chính là lòng sám hối thực sự. Sám hối
nghĩa là biết chấp nhận chính bản thân và sãn sàng cảm thông, tha thứ cho người
khác. Có nhận ra những yếu đuối bất toàn của mình, con người mới dễ dàng cảm
thông và tha thứ cho người. Và có cư sử như thế, chúng ta mới thấy được hạt giống
Bình An nảy mầm trong tâm hồn chúng ta và mang lại hoa trái cho người xung
quanh...
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét