01/05/2018
Thứ Ba tuần 5 Phục Sinh
Thánh Giuse thợ
* Là một người thợ ở làng Galilê, thánh Giuse là mẫu gương người Kitô hữu phải noi theo để chu toàn các bổn phận nghề nghiệp, vì thánh Giuse đã làm việc trong tâm tình liên kết với Đức Giêsu. Lao động thì vất vả nhưng cũng đem lại niềm vui. Lao động phục vụ con người nhưng cũng giúp đưa tới gần Thiên Chúa: đó là điều ta học được nơi trường học Nagiarét.
Bài Ðọc I: St 1, 26 -
2, 3
"Hãy sinh sôi
nảy nở cho nhiều đầy mặt đất, và thống trị nó".
Trích sách Sáng Thế.
Thiên Chúa phán:
"Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm
chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất, và tất cả loài bò sát di chuyển
trên mặt đất". Vậy Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh Chúa.
Người tạo thành con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Người tạo thành họ có nam
có nữ. Thiên Chúa chúc phúc cho họ và phán rằng: "Hãy sinh sôi nảy nở cho
nhiều đầy mặt đất, và thống thị nó, hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể
sinh vật di chuyển trên mặt đất".
Thiên Chúa phán:
"Ðây Ta ban cho các ngươi làm thức ăn mọi thứ cây cỏ mang hạt giống trên mặt
đất, và toàn thể thảo mộc sinh trái có hạt tuỳ theo giống. Ta ban mọi thứ cây cỏ
xanh tươi làm thức ăn cho mọi dã thú trên mặt đất, chim trời và toàn thể sinh vật
di chuyển trên mặt đất". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa thấy mọi sự Người
đã làm rất tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu. Thế
là trời đất và mọi vật trang điểm của chúng đã hoàn thành.
Ngày thứ bảy, Thiên
Chúa đã hoàn tất công việc Người đã làm. Và sau khi hoàn tất công việc Người đã
làm, thì ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi. Người chúc phúc và thánh hoá ngày thứ bảy,
vì trong ngày đó Người nghỉ việc tạo thành.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc: Cl 3, 14-15. 17. 23-24
"Tất cả những
gì anh em thực hiện, anh em hãy thành tâm thực hiện như cho Thiên Chúa, chớ
không phải cho người đời".
Trích thư của Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, trên
hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện.
Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em, sự bình an mà anh
em đã được kêu gọi tới để làm nên một thân thể. Anh em hãy cảm tạ Thiên Chúa.
Và tất cả những gì anh
em làm, trong lời nói cũng như trong hành động, tất cả mọi chuyện, anh em hãy
làm vì danh Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha.
Tất cả những gì anh em
thực hiện, anh em hãy thành tâm thực hiện như cho Thiên Chúa, chứ không phải
cho người đời; vì anh em biết rằng anh em sẽ lãnh nhận phần thưởng gia nghiệp
do Thiên Chúa trao ban, nên anh em hãy phục vụ Chúa Kitô.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 89, 2. 3-4.
12-13. 14 và 16
Ðáp: Lạy Chúa, xin củng cố sự nghiệp tay chúng con làm
ra (c. 17c).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Ôi Thiên
Chúa, trước khi núi non sinh đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ nở ra, tự thuở này
qua thuở kia, vẫn có Ngài. - Ðáp.
2) Thực ngàn năm ở trước
thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa
khiến con người trở về bụi đất, Ngài phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người".
- Ðáp.
3) Xin dạy chúng con
biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin
trở lại, chứ còn để tới bao giờ? Xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài! - Ðáp.
4) Xin cho chúng con sớm
được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con được mừng rỡ hân hoan trọn đời sống
chúng con. Xin cho các bầy tôi nhìn thấy sự nghiệp của Chúa, và cho con cháu họ
được thấy vinh quang Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Tv 67, 20
Alleluia, alleluia! -
Chúc tụng Chúa trong mọi ngày, Thiên Chúa là Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, Người vác lấy
gánh nặng của chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 13, 54-58
"Ông ta không
phải là con bác phó mộc sao?"
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở
về quê nhà, giảng dạy dân chúng trong hội đường, họ bỡ ngỡ và nói rằng: "Bởi
đâu ông này khôn ngoan và tài giỏi như thế? Ông không phải là con bác thợ mộc
ư? Mẹ ông không phải là bà Maria? và Giacôbê, Giuse, Simon và Giuđa không phải
là anh em của ông sao? Và tất cả chị em của ông không phải ở nơi chúng ta đó
sao? Vậy bởi đâu ông được mọi điều ấy như thế?" Và họ lấy làm gai chướng về
Người. Nhưng Chúa Giêsu nói với họ: "Không có tiên tri nào được vinh dự
nơi quê hương và nơi nhà mình". Và Người không làm nhiều phép lạ tại đó,
vì họ cứng lòng tin.
Ðó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Đức Giêsu về
quê
Suy niệm:
Sau khi đã chịu phép Rửa,
vào hoang địa để cầu nguyện, ăn chay,
có một ngày nào đó, Đức
Giêsu chia tay Đức Mẹ để lên đường.
Lên đường là bỏ lại
ngôi làng Nazareth dấu yêu với bao kỷ niệm.
Chính tại đây Ngài đã
sống hơn ba mươi năm trong bầu khí gia đình.
Chính tại nơi này,
Ngài đã lớn lên quân bình về thân xác, trí tuệ, tâm linh.
Nazareth như một ngôi
trường lớn, chuẩn bị cho Ngài chững chạc đi sứ vụ.
Tại đây, Đức Giêsu đã
là con bác thợ Giuse (c. 55),
và đã trở thành thợ
theo truyền thống cha truyền con nối.
Ngài đã được dạy nghề
và hành nghề để kiếm sống cho bản thân và gia đình.
Đức Giêsu là một người
thợ tại Nazareth, phục vụ cho nhu cầu dân làng.
Ngài biết đến cái vất
vả của công việc chân tay nặng nhọc.
Đức Giêsu không thuộc
giới trí thức, thượng lưu, quyền quý.
Lao động làm Ngài gần
với người nghèo và thấy sự đơn sơ của tâm hồn họ.
Cũng tại Nazareth, đời
sống cầu nguyện của Đức Giêsu được nuôi dưỡng.
Ngài học được lối cầu
nguyện một mình ở nơi vắng vẻ.
Đức Giêsu có khả năng
thấy sự hiện diện yêu thương của Cha nơi mọi sự,
nơi một bông hoa, nơi
chim trời, nơi ánh nắng và cơn mưa.
Tình thân của Con đối
với Cha ngày càng trở nên sâu đậm.
Ngài tìm ý Cha mỗi lúc
và để Cha chi phối trọn vẹn đời mình.
Hôm nay Đức Giêsu trở
về làng cũ sau một thời gian đi sứ vụ.
Ngài vào lại hội đường
quen thuộc, gặp lại những khuôn mặt đồng hương.
Không rõ trước đây có
lần nào bác thợ Giêsu được mời giảng ở đây chưa.
Nhưng lần này, khi trở
về với tiếng tăm từ những phép lạ làm ở nơi khác,
Đức Giêsu đã khiến dân
làng sửng sốt vì sự khôn ngoan trong lời giảng dạy.
Hai lần họ đặt câu hỏi:
Bởi đâu ông ta được như thế? (cc. 54. 56).
Một câu hỏi rất hay, nếu
được tìm hiểu một cách nghiêm túc.
Câu hỏi này có thể đưa
họ đi rất xa, để gặp được căn tính của Đức Giêsu.
Tiếc thay, dân làng
Nazareth lại không quên được nghề nghiệp của cha Ngài.
Họ nhớ rất rõ họ hàng
gần xa của Ngài là mẹ và các anh chị.
Họ có thể kể tên từng
anh chị em của Ngài, vì đều là bà con lối xóm (c. 55).
Đức Giêsu là người mà
họ biết quá rõ từ thuở ấu thơ.
Làm sao con người bình
thường, ít học đó lại có thể là một vị ngôn sứ?
Làm sao từ ngôi làng
Nazareth vô danh này lại xuất hiện ngôn sứ được?
Và họ vấp ngã vì Đức
Giêsu, nghĩa là họ đã không tin vào Ngài.
Cái biết gần gũi của họ
về Ngài lại trở nên thành kiến
khiến họ không thể tiến
sâu hơn vào mầu nhiệm con người Đức Giêsu.
Người đồng hương của
Ngài đã không trả lời được câu hỏi: Bởi đâu…?
Mỗi con người là một mầu
nhiệm mà ta phải khám phá mãi.
Có những mầu nhiệm lớn
ẩn trong lớp áo tầm thường.
Dân làng Nazareth đã
không nhận ra hồng phúc mà họ đang hưởng.
Chúng ta cũng cần được
giải thoát khỏi những cái biết hẹp hòi,
để thấy mình hạnh phúc
khi sống với người khác gần bên.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã
không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông
thợ thủ công.
Các môn đệ đã không
tin Chúa
khi thấy Chúa chịu
treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin
Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một
con người,
Cũng có lúc chúng con
không tin Chúa
hiện diện dưới hình
bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu
đuối,
trong một Hội thánh
còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn
mình
nơi những gì thế gian
chê bỏ,
để chúng con tập nhận
ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho
chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường
giữa lòng cuộc sống.
Lm. Ant. Nguyễn Cao
Siêu SJ.
Thứ Ba sau Chúa Nhật V Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 14, 18-27
"Các ngài thuật
cho giáo đoàn nghe những gì Thiên Chúa đã làm với các ngài".
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Trong những ngày ấy,
có mấy người Do-thái từ Antiôkia và Icôniô đến xúi giục dân chúng. Họ ném đá
Phaolô, và tưởng rằng Phaolô đã chết, nên kéo ngài ra bỏ ngoài thành. Nhưng
đang khi các môn đồ đứng xung quanh ngài, ngài liền chỗi dậy đi vào thành, và
hôm sau, ngài cùng Barnaba đi sang Ðerbê. Khi đã rao giảng Tin Mừng cho thành
này và dạy dỗ được nhiều người, các ngài trở lại Lystra, Icôniô và Antiôkia, củng
cố tinh thần các môn đồ, khuyên bảo họ giữ vững đức tin mà rằng: "Chúng ta
phải trải qua nhiều nỗi gian truân mới được vào nước Thiên Chúa". Nơi mỗi
hội thánh, các ngài đặt những vị niên trưởng, rồi ăn chay cầu nguyện, trao phó
họ cho Chúa là Ðấng họ tin theo.
Sau đó, các ngài sang
Pisiđia, đi đến Pamphylia. Sau khi rao giảng lời Chúa tại Perghê, các ngài xuống
Attilia, rồi từ đó xuống tàu trở về Antiôkia, nơi mà trước đây các ngài đã được
trao phó cho ơn Chúa để làm công việc các ngài mới hoàn thành. Khi đến nơi, các
ngài tụ họp giáo đoàn, thuật cho họ nghe những gì Thiên Chúa đã làm với các
ngài và đã mở lòng cho nhiều dân ngoại nhận biết đức tin. Các ngài còn ở lại đó
với môn đồ trong một thời gian lâu dài.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 10-11.
12-13ab. 21
Ðáp: Lạy Chúa, các bạn hữu Chúa nhận biết vinh quang nước
Chúa (x. c. 12a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Lạy Chúa, mọi
công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng
Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của
Ngài. - Ðáp.
2) Ðể con cái loài người
nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là nước vĩnh cửu
muôn đời, chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ. - Ðáp.
3) Miệng tôi hãy xướng
lời ca ngợi khen Chúa, mọi loài huyết nhục hãy chúc tụng danh Chúa tới muôn đời.
- Ðáp.
Alleluia: Ga 16, 28
Alleluia, alleluia! -
Thầy bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian, bây giờ Thầy lại bỏ thế gian mà về
cùng Cha. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14, 27-31a
"Thầy ban bình
an của Thầy cho các con".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình
an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng
các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi. Các con đã nghe Thầy nói với các con rằng:
Thầy đi, rồi Thầy sẽ trở lại với các con. Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con
hãy vui mừng vì Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây Thầy nói với
các con trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con tin. Thầy không
còn nói nhiều với các con nữa, vì thủ lãnh thế gian đã đến. Nó không có quyền lực
gì đối với Thầy. Nhưng để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Cha, thì Thầy làm
như Cha đã truyền dạy".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Hiệp nhất và bình an
Các môn đệ ngày xưa đã được nghe Chúa Giêsu chia sẻ tâm tình của Ngài khi
Ngài cùng với các ông ngồi bên cạnh nhau trong bữa tiệc ly. Chúng ta cũng đã
nghe lại những lời thân thương đó mỗi khi chúng ta cùng với Ngài và với nhau
dâng Thánh Lễ. Giáo Hội đặt để những lời thân thương ấy sau kinh Lạy Cha và trước
khi chúng ta đón nhận Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Chúng ta chứng minh được bao bọc
trong bình an của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nhất là chúng ta đã dọn
lòng mình đủ để có Chúa ngự trong lòng chúng ta.
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu thực sự tin rằng Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô
không chấp nhất gì tội lỗi của chúng ta mà dựa trên đức tin của Giáo Hội, của cộng
đoàn dân Chúa đã ban cho chúng ta, cho Giáo Hội được ơn hiệp nhất và bình an.
Chắc chắn là Giáo Hội rất rõ điều Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Thầy ban
cho các con không như thế gian ban tặng". Và chúng ta cũng phải hiểu được
điều đó để hân hoan với bình an mà Chúa ban cho chúng ta. Thế gian là gì trong
nhãn quan của thánh Gioan.
Thế gian là ma quỉ, là mãnh lực của ma quỉ, là thế giới của ma quỉ, là tất
cả những con người và những sinh hoạt đồng lõa với ma quỉ. Bình an của thế gian
này ban tặng là bình an có được do vũ lực, do đàn áp, do chiến tranh, do mưu mô
xảo quyệt, do tội ác, do chiếm đoạt và đe dọa, mong manh biết bao sự bình an tạm
bợ này, chỉ cần một vài thay đổi rất ư là đơn giản thì cũng đủ để cho người ta
mất đi bình an và lại rơi vào hoảng sợ, vào dằn vặt. Ma quỉ và đồng lõa của ma
quỉ vốn dĩ rất quen thuộc với chiến lược trở mặt như trở bàn tay, và vì thế
không ít những người trở thành nạn nhân của sự bình an do chúng tạo nên. Còn
bình an của Chúa ban cho lại là sự bình an của những người được tha thứ tất cả.
Bình an của một con người thấy thanh thản trong thân xác và nhẹ nhàng trong tâm
hồn. Bình an của một cuộc đời có Thiên Chúa. Sự bình an bất chấp những khó
khăn, bất chấp mọi thử thách. Sự bình an của một con người không thấy hổ thẹn
gì khi ngước mắt nhìn lên trời, đưa mắt nhìn chung quanh và nhắm mắt lại nhìn
vào chính mình.
Lạy Cha chí thánh, là con người ai cũng khao khát bình an và có rất nhiều
người thấy hãnh diện vì sự an toàn nhất thời họ có được ở trần gian này, khi họ
dựa cậy vào quyền lực hoặc là do một con người hay của một nhóm người, thực tế
cho thấy bình an ấy quá mong manh. Các con cảm tạ Cha vì sự bình an ban cho
chúng con qua Chúa Giêsu và với tác động của Chúa Thánh Thần. Sự bình an của Ðấng
bị bắt, bị tra tấn, bị bỏ mặc, bị coi là điên khùng và bị treo lên giữa những tử
tội trộm cướp, ngày thứ ba Ngài đã sống lại. Chúng ta thật hạnh phúc vì có được
sự bình an ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Ba Tuần V PS
Bài đọc: Acts
14:19-28; Jn 14:27-31.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải qua gian khổ mới đạt tới vinh quang.
Như người nhà nông phải
vất vả cầy bừa, giầm mưa, dãi nắng, thì hạt giống gieo xuống mới mang lại mùa
màng; đức tin của các tín hữu có được là do sự miệt mài rao giảng của các nhà
truyền giáo. Họ không ngại đường sá xa xôi, cách trở; phải chịu đựng bao nguy
hiểm, bắt bớ, ghen tị, tù đày, ném đá ... để gieo vãi hạt giống đức tin, củng cố
niềm tin, và chờ ngày hạt giống đức tin được sinh hoa kết trái.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn
chứng những điều này. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ tường thuật những khó khăn và
bách hại mà Phaolô và Barnabas phải trải qua trong hành trình rao giảng đức tin
cho Dân Ngoại; nhưng hai ông vẫn kiên trì chịu đựng, đi từ thành này qua thành
khác để gieo vãi hạt giống đức tin, củng cố niềm tin, và thiết lập các giáo
đoàn địa phương. Khi trở về Antioch, các ông tập họp Hội Thánh và tường trình
những gì Thiên Chúa đã thực hiện nơi hai ông. Trong Phúc Âm, mặc dù Chúa Giêsu
biết trước bao nhiêu gian khổ đang chờ Ngài trong Cuộc Thương Khó sắp tới, Ngài
vẫn can đảm tiến tới để đương đầu. Ngài khuyên các môn đệ đừng xao xuyến và sợ
hãi vì Ngài sẽ ban bình an cho các ông, và bảo đảm quyền lực thế gian sẽ không
thắng được quyền lực của Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên
Chúa.
1.1/ Phaolô đi đâu, người
Do-thái theo ông tới đó: "Bấy giờ có những
người Do-thái từ Antioch và Iconium đến Lystra, thuyết phục được đám đông. Họ
ném đá ông Phaolô rồi lôi ông ra ngoài thành, vì tưởng ông đã chết. Nhưng khi
các môn đệ xúm lại quanh ông, ông đứng dậy và vào thành. Hôm sau, ông trẩy đi
Derbe cùng với ông Barnabas."
Chúng ta thấy sự nhẫn
nhục, chịu đựng đau khổ của Phaolô trong việc rao giảng Tin Mừng: vừa thu nhận
được chút kết quả là đối phương theo tới quấy phá; vừa bị đối phương ném đá gần
chết lại chỗi dậy đi qua thành khác rao giảng Tin Mừng.
Điều chúng ta học được
nơi Phaolô và Barnabas trong việc truyền giáo là phải trở lại thăm viếng và củng
cố các giáo đoàn địa phương mình đã thành lập để củng cố tinh thần các môn đệ,
và khuyên nhủ họ giữ vững đức tin. Hai ông nói: "Chúng ta phải chịu nhiều
gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa."
1.2/ Phaolô và Barnabas
hoàn tất cuộc hành trình thứ nhất: Trong cuộc
hành trình này, hai ông bắt đầu từ Antioch của Syria đến Salamis và Paphos của
đảo Cyprus, đến Perga, Antioch của Pisidia, đến Iconium, Lystra, Derbe, và theo
đường cũ trở lại Perga, rồi từ Perga đến Attalia, trở về Pergha và dùng thuyền
trở về Antioch của Syria. Đây là cuộc hành trình ngắn nhất trong 3 cuộc hành
trình của Phaolô rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại. Ông đã đi qua tất cả 8
thành. Trong mỗi Hội Thánh, hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục, và sau khi ăn
chay cầu nguyện, hai ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin.
Khi trở về Antioch,
hai ông tập họp Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với
hai ông, và việc Người đã mở cửa cho các dân ngoại đón nhận đức tin. Rồi hai
ông ở lại một thời gian khá lâu với các môn đệ trước khi bắt đầu cuộc hành
trình thứ hai.
2/ Phúc Âm: Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy
ra, anh em tin.
2.1/ Bình an của Thiên
Chúa: Biết Cuộc Thương Khó đã gần kề, và biết
trước những gì sẽ xảy đến cho các môn đệ, Chúa Giêsu để lại một báu vật cho các
môn đệ: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của
Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng
đừng sợ hãi." Đây cũng là món quà các thiên sứ reo vang trong Ngày Chúa
sinh ra: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện
tâm."
Chúa Giêsu nhấn mạnh sự
khác biệt giữa sự bình an của Thiên Chúa và của con người. Bình an của Thiên
Chúa đến từ trong tâm hồn con người; trong khi sự bình an của thế gian đến từ
bên ngoài. Bình an của Thiên Chúa ban không bao giờ mất được; trong khi sự bình
an của thế gian rất mong manh và dễ vỡ. Chúng ta có thể nhận ra điều này qua
các cuộc chiến tranh tương tàn, và chúng luôn đe dọa con người.
Bình an của Chúa Giêsu
được bảo đảm bởi Thiên Chúa. Ngài tạm rời các môn đệ để về cùng Cha trong ít
ngày; nhưng Ngài lại trở lại với các môn đệ sau Cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Sự
bình an các ông có được là sau khi chứng kiến tất cả những điều này: Nếu Chúa
Giêsu đã chiến thắng thần chết, và đang ngự nên hữu Chúa Cha trên trời để luôn
bầu cử cho các ông, thì chẳng còn gì sợ hãi nữa; và vì thế, các ông luôn có
bình an.
2.2/ Xung đột giữa Thiên
Chúa và thế gian: Sống trong thế gian, Chúa
Giêsu và các môn đệ sẽ bị thế gian ghét bỏ và truy tố, vì không sống theo tiêu
chuẩn và đường lối của thế gian. Chúa Giêsu biết thế gian sắp sửa truy tố Ngài,
và nó cũng sẽ truy tố các môn đệ của Ngài, nên Ngài nói với các môn đệ:
"Thầy sẽ không còn nói nhiều với anh em nữa, bởi vì Thủ Lãnh thế gian đang
đến. Đã hẳn, nó không làm gì được Thầy. Nhưng chuyện đó xảy ra là để cho thế
gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy.
Nào đứng dậy! Ta đi khỏi đây!"
Thế gian tưởng khi họ
tiêu diệt Chúa Giêsu là họ đã dùng sức mình để chiến thắng; nhưng sự thật là họ
đang thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Ngài muốn Chúa Giêsu chịu đau khổ để gánh
tội và mang lại sự sống đời đời cho con người. Khi Chúa Giêsu sống lại vinh hiển,
thế gian sẽ sững sờ kinh ngạc, vì những gì họ tưởng đã chiến thắng, nhưng giờ bị
thua thiệt, vì các tín hữu không còn sống nô lệ cho họ nữa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức tin là một gia sản
vô giá mà Thiên Chúa trao tặng cho chúng ta qua sự cố gắng vượt bực của các nhà
truyền giáo. Họ đã bỏ gia đình và quê hương, chấp nhận bao nhiêu đau khổ và
nghiệt ngã của các xứ truyền giáo để trao cho chúng ta món quà quí giá này. Chúng
ta đừng khinh thường nó.
- Bổn phận của chúng
ta là gìn giữ và củng cố đức tin này sao cho ngày càng lớn mạnh, và cố gắng hết
sức để trao lại cho con cháu và những người chúng ta có trách nhiệm. Nếu chúng
ta đã lãnh nhận cách nhưng không, chúng ta cũng phải rộng rãi cho đi cách nhưng
không.
- Riêng với con cháu
Việt-nam, chúng ta biết để bảo vệ đức tin này, các nhà truyền giáo và cha ông
chúng ta đã phải đổ máu và chịu đựng biết bao bắt bớ, roi đòn, tù đày, tủi nhục.
Hãy sống đức tin làm sao cho xứng đáng với giá máu ấy.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
01/05/2018
THỨ BA TUẦN 5 PS
Th. Giuse Thợ
Mt 13,53-58
Mt 13,53-58
MỘT BÁC THỢ CAO QUÝ
“Ông không phải là con bác thợ sao?” (Mt 13,54)
Suy niệm: Bộ bách khoa Wikipedia cho biết: trên thế giới hiện nay
có 56 thể loại nghề nghiệp, chia thành năm nhóm. Số lượng nghề nghiệp thật
phong phú, phải không bạn? Không hiểu sao Chúa Cha không chọn cho Con mình một
người cha nuôi có một nghề sáng giá hoặc thuộc hàng đẳng cấp trong xã hội, mà
chọn một người thợ mộc! Chắc chắn Đức Giê-su sau này làm nghề thợ mộc do cha
nuôi của mình cũng làm nghề này. Trước mặt Thiên Chúa, nghề thợ mộc có giá trị
không kém gì các nghề xã hội thời ấy cho là cao quý như luật sĩ, thượng tế. Đối
với Ngài, làm nghề nào không quan trọng, quan trọng là cung cách ta
làm. Thánh Giu-se là mẫu gương lao động cho ta qua cung cách siêng năng làm việc
để nuôi sống gia đình, để chia sẻ với tha nhân, và góp phần vào công trình sáng
tạo của Thiên Chúa.
Mời Bạn: “Con người đã luôn cố gắng
phát triển thêm mãi đời sống mình bằng việc làm và tài năng” (Vatican II, Vui Mừng và Hy Vọng). Hãy phát triển đời sống
mình và những người lân cận qua công ăn việc làm và trau dồi tài năng. Đó là những
“nén bạc” mà bạn không được phép dành riêng cho mình!
Chia sẻ: Lao động của bạn có những đặc tính như của thánh Giu-se
không?
Sống Lời Chúa: Tôi ghi nhớ và sống câu Lời
Chúa sau đây: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư
nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga
6,27).
Cầu nguyện: “Lạy
Chúa, xin nhận lời thánh Cả Giu-se chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương Người
để lại là chu toàn nhiệm vụ Chúa đã giao phó, hầu được hưởng niềm vui Chúa đã hứa
cho tôi tớ trung thành”(Lời nguyện ngày
lễ).
(5 phút Lời Chúa)
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
1 THÁNG NĂM
Sự Đảm Bảo Của
Thiên Chúa
Để hiểu dụ ngôn về Người
Mục Tử Tốt Lành, chúng ta cần xác tín khả năng quán thông trước mọi sự của
Thiên Chúa và giá trị vô hạn của chúng ta trước mặt Ngài: “Chúng sẽ không bao
giờ hư mất. Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi … Không ai cướp được chúng khỏi
tay Chúa Cha” (Ga 10, 28 – 29). Lời khẳng định thật mạnh mẽ. Có thể nói, toàn bộ
tấn kịch cứu độ được phản ảnh trong những lời này.
Đức Kitô nói rõ: “Cha
tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì cao trọng hơn tất cả … Tôi và Chúa Cha là một”
(Ga 10, 29 – 30). Xuyên qua Thập Giá và Phục Sinh, mối hiệp nhất thần linh của
Chúa Cha và Chúa Con được bày tỏ trọn vẹn. Mối hiệp nhất này được diễn tả trong
công cuộc sáng tạo con người, trong sự quan phòng cứu độ của Thiên Chúa, và
trong hành động cứu chuộc của Ngài.
Trong hành động cứu
chuộc, một cách nào đó, Thiên Chúa dấn mình trọn vẹn để đảm bảo rằng những gì
mà Ngài đã tạo nên theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài sẽ không bị tước mất khỏi
Ngài. Thiên Chúa đảm bảo rằng hành động cứu độ của tình yêu vĩnh cửu ấy sẽ được
hoàn tất nơi con người.
Giáo Hội là chứng nhân
của tình yêu ấy. Giáo Hội là chứng nhân của công cuộc cứu độ con người được thực
hiện nơi Đức Kitô. Giáo Hội là chứng nhân của Mầu Nhiệm Phục Sinh – qua cuộc phục
sinh này, sứ mạng của Đấng Mục Tử Tốt Lành đã được thực hiện với tầm mức sâu xa
nhất. Trong Sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta nhận được cùng một lời chứng ấy khi
Phao-lô và Barnaba nhắc lại những lời trong Sách Ngôn Sứ Isaia: “Ta sẽ đặt
ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất” (Cv
13, 47).
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Gương Thánh Nhân
Ngày 01-05: Thánh GIUSE THỢ
Thánh Giuse. Cả hai bản
của thánh Mathêu và thánh Luca, đều nói rằng: Ngài thuộc giòng họ David. Nhưng
vào thời khởi đầu công nguyên, miêu duệ cùng giòng giống vương giả này chẳng
còn danh giá và giàu có gì. Vài điều chúng ta biết được về thánh Giuse qua việc
dâng Chúa Giêsu vào đền thờ (Lc 2,24), cho biết rằng Ngài là một người nghèo
khó, không có đặc quyền nào. Gia đình Ngài vốn thuộc về Belem đất Giudêa, nhưng
đã dời về Nazareth đất Galilea nơi Ngài sinh sống bằng nghề thợ mộc (Mt 13,55).
Con người bình thường
được nhắc tới với một chút khinh thường như "bác thợ mộc" ấy lại là
gương mẫu cho mọi Kitô hữu và cách riêng cho những Kitô hữu sống nghề lao động
tay chân. Ngài thật là người công chính như một dụng cụ nhẫn nại của Thiên
Chúa, thực hiện mọi điều Chúa đòi hỏi với một đức tin không nghi nan. Ngài sốt
sắng tuân giữ luật Do thái, trung thành bảo vệ gia đình, Ngài có trách nhiệm,
chấp nhận mọi khó khăn mau mắn vâng theo lệnh truyền, vững chí dưới cơn thử
thách, luôn lặng lẽ đáng kính phục. Nhân tính hấp dẫn của Chúa Kitô với tính
cương trực, lòng can dảm và đức bác ái sâu xa, chắc chắn đã được phát triển
theo gương mẫu và sự nuôi dưỡng Người nhận được từ Thánh cả Giuse.
Dầu vậy, sự cao cả của
thánh nhân ở một mức độ sâu xa hơn từ ngữ vẫn áp dụng cho Người là "Cha
nuôi Chúa Giêsu". Từ ngữ này gợi lên một liên hệ bóng gió nào đó với Chúa
Kitô. Đúng hơn có lẽ phải nói rằng thánh Giuse là Cha của Chúa Giêsu như các
sách Tin Mừng đã là ngần ngại nói như vậy, Chúa Giêsu thực là hoa quả của cuộc
hôn nhân mà thánh Giuse giữ vai trò thiết yếu. Nếu tình phụ tử của Ngài là
trinh khiết thì không phải vì thế mà mối tình ấy thấp hèn hơn tình phụ tử về thể
xác. Liên hệ của người cha trinh khiết với Chúa Giêsu cũng tương tự như mối
liên hệ của Người Mẹ Trinh khiết đối với Người. Cả Đức Mẹ và thánh Giuse đều
góp phần hoàn hảo của mình vào mầu nhiệm nhập thể. Phần đóng góp này còn mở rộng
tới thân thể mầu nhiệm của Ngôi Lời hoá thành nhục thể là Giáo hội. Thánh Giuse
vẫn tiếp tục vai trò của mình trong việc nuôi dưỡng bảo vệ và hướng dẫn Giáo hội.
Bởi đó năm 1870, Đức
Giáo Hoàng Piô IX tuyên xưng thánh Giuse là Đấng bảo trợ của cả Hội Thánh khắp
hoàn cầu. Và đặt lễ kính vào ngày 19 tháng 3 mỗi năm.
Từ vai trò đặc biệt của
thánh Giuse đối với toàn thể Hội Thánh, thánh nhân chắc chắn cũng liên hệ đến từng
người trong thân thể mầu nhiệm này. Thánh nhân đã thi hành sứ mạng của mình
trong cuộc sống lao động như người thợ. Do đó, Ngài có một mối liên hệ đặc biệt
với lớp người đông đảo sống bằng sức lao động chân tay của mình. Năm 1955, Đức
Piô XII đã lập nên lễ thánh Giuse và đặt ngày kính nhớ vào mồng 1 tháng 5, ngày
mà nhiều nước chọn cử hành lễ lao động. Niên biểu không hoàn toàn phổ quát nên
lễ thánh Giuse Thợ cũng được để tự do.
Tuy nhiên, chính Đức
Giáo Hoàng đã nói tới ý nghĩa của lễ này : - "Chắc hẳn chúng ta phải hân
hoan vì Người thợ vô danh ở Nazareth chẳng những là hiện thân cho giá trị lao động
tay chân trước mặt Chúa và Giáo hội mà còn là vị Giám hộ mẫn tiệp của mọi người
và của các gia đình các bạn lao động nữa".
Để nói về quyền năng của
Đấng bảo trợ, Ngài tiếp : - "Không có Vị Giám hộ nào có đủ khả năng Linh
nghiệm truyền thông Phúc âm cho đời sống thợ thuyền hơn bằng thánh Giuse thợ"
Mừng lễ thánh Giuse thợ,
chúng ta hãy nhớ lời vị Cha chung, Đức Piô XII nhắn nhủ, trong bài diễn văn đọc
vào ngày lễ thánh Giuse thợ đầu tiên này : - "Nếu các con muốn được gần
Chúa Kitô, Cha nhắc nhớ các con hôm nay : Ite ad Joseph - Hãy đến với
Giuse" (St 41,55)
(daminhvn.net)
01 Tháng Năm
Giuse Trong Xóm Nhỏ Ðiêu Tàn
"Giuse trong
xóm nhỏ điêu tàn..."
Có lẽ không một người
công giáo Việt Nam nào mà không thuộc nằm lòng bài thánh ca trên đây của cố
linh mục Ðạo Minh, dòng thánh Giuse... Tác giả đã sáng tác ca khúc trong giai
đoạn đau thương của đất nước giữa hai thập niên 40 - 50 và cũng như thánh
Giuse, đã ra đi âm thầm trong một cái chết vô cùng bí ẩn sau ngày thay đổi chế
độ.
Lời ca đơn sơ xuất
phát từ cuộc sống lam lũ qua mọi thời đại của người Việt Nam. Nhưng tâm tình đó
lại càng hợp với hoàn cảnh sống của người Việt Nam hơn bao giờ hết. Với khẩu hiệu
lao động là vinh quang... dường như sau năm 1975, người Việt Nam nào cũng đã
hơn một lầm mồ hôi nhễ nhại với cây cuốc, cái cày hoặc còng lưng trên chiếc
xích lô đạp...
Trong cảnh sống đó,
có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy gần gũi với thánh Giuse, vị thánh được mệnh
danh là người công chính, nhưng đồng thời cũng là con người thinh lặng nhất
trong Phúc Âm. Có rất nhiều thứ thinh lặng. Thinh lặng của những người câm điếc,
bị trói buộc trong bất lực tự nhiên của mình. Thinh lặng trong cô đơn buồn
chán. Thinh lặng trong căm thù oán ghét. Thinh lặng trong khép kín ích kỷ.
Thinh lặng trong kiêu hãnh trước đe dọa, thử thách...
Thánh Giuse đã
thinh lặng trong tinh thần chấp nhận và chiêm niệm. Trong cuộc sống âm thầm tại
Nagiaréth, thánh Giuse đã thinh lặng để chiêm ngưỡng mầu nhiệm nhập thể kỳ diệu
trong con người của Chúa Giêsu. Cuộc đời của thánh Giuse đã bắt đầu bằng một giấc
mơ để rồi tiếp tục trong một giấc mơ triền miên. Nhưng đây không phải là một giấc
mơ của mộng ảo phù du, mà là một giấc mơ trong chiêm niệm về hiện thực...
Trong sự thinh lặng chiêm niệm ấy, từng biến cố nhỏ của cuộc sống đã mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.
Trong sự thinh lặng chiêm niệm ấy, từng biến cố nhỏ của cuộc sống đã mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.
Hôm nay là ngày lao động
Quốc tế. Ngày lao động Quốc tế này gợi lại cả một quá trình tranh đấu của giới
thợ thuyền của Âu Châu vào đầu thế kỷ vừa qua. Từ những bất công xã hội, cuộc đấu
tranh của giới thợ thuyền đã làm trồi dậy phẩm giá của con người và giá trị của
sự cần lao...
Ðối với người Kitô,
ngày Quốc tế lao động này gắn liền với con người của Thánh cả Giuse, quan thầy
và gương mẫu của giới cần lao. Do đó ngày hôm nay đối với chúng ta phải là một
ngày của suy tư và cầu nguyện. Suy tư về ý nghĩa và giá trị những công việc hằng
ngày của chúng ta. Cầu nguyện cho mọi người biết nhận ra sự hiện diện và tác động
và lời kêu mời của Chúa trong cuộc sống...
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét