28/04/2018
Thứ Bảy tuần 4 Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 13, 44-52
"Ðây chúng tôi
quay về phía các dân ngoại".
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Ðến ngày Sabbat sau, hầu
hết cả thành đều đến nghe lời Thiên Chúa. Các người Do-thái thấy đám đông dân
chúng, thì đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy.
Phaolô và Barnaba can đảm nói rằng: "Phải giảng lời Thiên Chúa cho các
ngươi trước tiên, nhưng vì các ngươi từ chối lời Thiên Chúa và tự cho mình
không xứng đáng sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía các dân ngoại; vả
lại Chúa đã truyền lệnh cho chúng tôi rằng: Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân,
để ngươi nên ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất". Nghe vậy, các dân ngoại
hân hoan ca tụng lời Chúa; những ai được Chúa tiền định hưởng sự sống đời đời,
thì tin theo, nên lời Chúa được rao giảng khắp cả vùng.
Những người Do-thái
xúi giục các phụ nữ khá giả đã tòng giáo, các thân hào trong thành, bắt bớ
Phaolô và Barnaba, rồi trục xuất hai ngài ra khỏi ranh giới xứ họ. Còn hai
ngài, sau khi phủi bụi chân lại cho họ, hai ngài đi đến Icôniô. Còn các môn đồ
thì đầy hân hoan và Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 1.
2-3ab. 3cd-4
Ðáp: Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của
Thiên Chúa chúng ta (c. 3c).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca mừng
Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người
đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. -
Ðáp.
2) Chúa đã công bố ơn
cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại
lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa
cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng
Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.
Alleluia: Cl 3, 1
Alleluia, alleluia! -
Nếu anh em sống lại làm một với Ðức Kitô, thì anh em hãy tìm kiếm những sự cao
siêu trên trời, nơi Ðức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14, 7-14
"Ai thấy Thầy
là xem thấy Cha".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy.
Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người".
Philipphê thưa:
"Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng
con". Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Philipphê, Thầy ở với các con bấy
lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại
nói: Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và
Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói,
nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở
trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin, vì các việc Thầy đã làm.
Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc
Thầy đã làm; người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha.
Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh hiển
trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy sẽ làm
cho".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Cầu
nguyện nhân danh Chúa.
Thường tình chúng ta
không tiếc lời ca ngợi kẻ xa lạ vì đã làm được những việc đáng kể, nói ra nhiều
câu chí lý, có một hành động đáng phục. Trong khi đó chúng ta lại rất hà tiện lời
khen đối với người sống gần bên cạnh, trong chính tập thể chúng ta, dù người đó
không những đã làm, đã nói, đã sống, mà còn hơn cả những người được ca ngợi,
nhưng lại sống xa chúng ta. Ðây có thể phần nào là hoàn cảnh sống của các môn đệ,
nhất là của Philipphê. Họ đã sống gần Chúa Giêsu, Thầy của mình, bao nhiêu năm
qua, nhưng dường như họ vẫn chưa hiểu Chúa và mối tương quan của Ngài với Thiên
Chúa Cha. Chính vì thế, mà trong câu nói của Chúa Giêsu cho các môn đệ có mang
chút ít sự chua xót và trách móc: "Thầy đã ở với các con lâu rồi mà các
con không biết Thầy sao? Hỡi Philipphê, ai xem thấy Thầy thì cũng xem thấy Cha.
Hãy tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy. Ít nhất, các con hãy tin điều
đó vì thấy các việc Thầy đã làm".
Thật thế, không thiếu
những dấu chỉ cho chúng ta biết mối quan hệ thâm sâu và đặc biệt giữa Chúa Giêsu
và Thiên Chúa Cha. Ðặc biệt trong đoạn Phúc Âm vừa đọc trên, chúng ta có thể
ghi nhận một dấu chỉ đặc biệt, đó là Chúa Giêsu qua Chúa Thánh Thần mà Ngài sẽ
ban xuống, sẽ ban cho các môn đệ làm những việc cả thể hơn nữa. Họ sẽ hành động
nhân danh Chúa, sẽ khai sinh một cộng đoàn mới, một Giáo Hội của Chúa. Nhưng chắc
chắn các môn đệ sẽ gặp khó khăn và phương thế để vượt qua những khó khăn là cầu
nguyện, cầu nguyện nhân danh Chúa. Hai lần trong cùng một đoạn văn vừa đọc,
Chúa Giêsu đã yêu cầu các môn đệ của Ngài hãy cầu nguyện, cầu nguyện hết lòng
tin tưởng, cầu nguyện nhân danh Chúa. Chúng ta có xác tín về những gì Chúa
Giêsu giãi bày cho chúng ta hay không?
Lạy Chúa, trong ánh
sáng phục sinh của Chúa, chúng con được mạc khải cho biết thực thể đúng thực của
Chúa, là Ðấng sống hiệp nhất với Thiên Chúa Cha, nhưng đồng thời không bỏ quên
chúng con. Chúa muốn chúng con hướng về Chúa. Xin đừng để chúng con đi tìm một
vì Thiên Chúa khác, mà quên chính Chúa, là Ðấng luôn luôn hiện giữa chúng con mọi
nơi mọi lúc.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần IV PS
Bài đọc: Acts
13:44-52; Jn 14:7-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy dùng cơ hội
Thiên Chúa cho để mang ơn cứu độ đến mọi người.
Trong hành trình rao
giảng Tin Mừng của Phaolô và Barnabas, các ông đã gặp rất nhiều trở ngại và chống
đối từ phía người Do-thái. Lý do: họ không muốn bị mất ảnh hưởng trên đám đông
và không muốn tất cả Dân Ngoại được làm con Thiên Chúa. Lẽ ra họ phải dùng đặc
quyền Thiên Chúa ban để mang nhiều người về với Ngài; nhưng họ lại để tính ích
kỷ và ghen tị ngăn cản người khác, và ngay cả họ, đến với Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay
xoay quanh việc làm sao cho Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa được hoàn thành.
Trong Bài Đọc I, Phaolô dùng lời tiên-tri Isaiah để chứng minh Ơn Cứu Độ không
chỉ giới hạn cho người Do-thái, mà cho tất cả mọi người. Trong Phúc Âm, Chúa
Giêsu tuyên bố với các môn đệ: Họ sẽ làm các việc lớn hơn Ngài làm là mang Ơn Cứu
Độ của Ngài cho đến tận cùng trái đất.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Kế Hoạch Cứu Độ là cho tất cả mọi người: Do-thái cũng như
Dân Ngoại.
1.1/ Dân Ngoại cũng được
hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa: Sách Tiên
Tri Isaiah, được viết khoảng 750 BC, đã viết về Kế Hoạch Cứu Độ như sau: Thiên
Chúa phán: "Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc
Jacob, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy,
này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận
cùng cõi đất" (Isa 49:6). Người Tôi Trung đây là chính Đức Kitô, Ngài đến
để cứu dân tộc Israel trước hết; nhưng không phải chỉ có họ mà thôi, mà còn
muôn dân tộc, cho đến khi Ơn Cứu Độ được lan tràn đến tận cùng cõi đất.
Vì thế, chúng ta không
lạ gì khi Thiên Chúa thúc đẩy "gần như cả thành Antioch, Pisidia tụ họp
nghe lời Thiên Chúa." Bấy giờ ông Phaolô và ông Barnabas mạnh dạn lên tiếng:
"Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa,
nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời
đời, thì đây chúng tôi quay về phía Dân Ngoại." Phaolô cũng dùng lời
tiên-tri Isaiah trên để áp dụng vào chính ông và vào các nhà rao giảng Tin Mừng,
vì chính họ cũng làm cho lời tiên báo này được thành tựu.
Nghe Phaolô cắt nghĩa
Kinh Thánh và Kế Hoạch Cứu Độ, Dân Ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và tất cả
những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời, đều tin theo. Lời
Chúa lan tràn khắp miền ấy.
1.2/ Người Do-thái ghen tức
và ngược đãi Phaolô và Barnabas: Thấy những
đám đông như vậy nghe Phaolô rao giảng, người Do-thái sinh lòng ghen tức. Họ phản
đối những lời ông Phaolô nói và nhục mạ ông. Điều này đã xảy ra cho Chúa Giêsu
vì hai lý do:
(1) Họ không muốn đối
phương của họ có ảnh hưởng trên đám đông; vì nếu đám đông theo đối phương, họ sẽ
không còn ảnh hưởng trên đám đông.
(2) Họ không muốn ai
được phép bằng họ, và họ ghen tị khi thấy người khác bằng mình. Truyền thống
Do-thái quan niệm chỉ có họ mới là con Thiên Chúa. Nếu Dân Ngoại cũng là con
Thiên Chúa, họ đâu còn chi đặc biệt nữa!
Vì thế, người Do-thái
sách động nhóm phụ nữ hượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong
thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phaolô và ông Barnabas, và trục xuất hai ông
ra khỏi lãnh thổ của họ. Hai ông liền giũ bụi chân phản đối họ và đi tới
Iconium.
2/ Phúc Âm: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.
2.1/ Chúa Cha và Chúa
Giêsu là một: Con người chưa bao giờ thấy
Thiên Chúa; nhưng khi con người thấy Chúa Giêsu, con người thấy Chúa Cha, vì
như thánh Phaolô nói: "Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình."
Trong mẩu đối thoại giữa Chúa Giêsu và Philip, Chúa Giêsu xác tín điều này.
- Ông Philíp yêu cầu:
"Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn
nguyện."
- Đức Giêsu trả lời:
"Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philíp, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy
Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: "Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa
Cha?""
Chúa Giêsu muốn chứng
minh cho Philip 2 điều:
(1) Chúa Giêsu là Lời
của Chúa Cha: "Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở
trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng
Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình."
(2) Những việc Chúa
Giêsu làm là theo ý của Chúa Cha: "Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa
Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy
làm." Không ai có thể làm những việc Chúa Giêsu đã làm, nếu Thiên Chúa không
ở với người ấy.
2.2/ Các Tông-đồ có thể
làm những việc Chúa Giêsu làm và những việc lớn hơn nữa: Chúa Giêsu tuyên bố: "Thật, Thầy bảo thật anh em, ai
tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn
làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha."
- Những việc Chúa
Giêsu làm: rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh tật, khử trừ ma quỉ, cho kẻ chết
sống lại, đào tạo môn đệ ... Các Tông đồ làm được tất cả những điều này nhân
danh Đức Kitô, chứ không nhân danh sức riêng của mình; vì các ông biết rõ sức
con người không thể làm những chuyện đó. Lời bảo trợ của Chúa Giêsu bảo đảm sức
mạnh này: "Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ
làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin
Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó."
- Những việc lớn hơn
đây là làm sao cho tất cả mọi người tin vào Đức Kitô để được cứu độ. Để thực hiện
điều này, Chúa Giêsu cần sự cộng tác của con người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải làm mọi
cách để làm sao Tin Mừng Cứu Độ được lan truyền khắp nơi theo ý của Đức Kitô
mong muốn.
- Chúng ta phải loại bỏ
tính ích kỷ và ghen tị trong khi loan báo Tin Mừng, thì Lời Chúa mới có thể lan
rộng và sinh hoa kết trái đến tận cùng trái đất được.
- Chúng ta đừng để bất
cứ một trở ngại nào ngăn cản chúng ta trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng, vì Đức
Kitô đã hứa với chúng ta: "Bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin,
thì Thầy sẽ làm."
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
28/04/2018 - THỨ BẢY TUẦN 4 PS
Th. Lu-y Ma-ri-a Gri-nhông Mông-pho, linh mục
Ga 14,7-14
BIẾT – THẤY – TIN
“Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là
chúng con mãn nguyện.” (Ga 14,8)
Suy niệm: Đối với người Do Thái, Lề
Luật là trung tâm và nguồn mạch của đời sống đạo, vì Luật là chuẩn mực để thi
hành giao ước Thiên Chúa đã ký kết với Dân riêng Ngài. Đức Giê-su lại dạy các
môn đệ đến với Thiên Chúa không còn phải qua Luật, mà là nơi một ngôi vị bằng
xương bằng thịt là chính Ngài: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.” Chúa Cha không
còn tỏ mình ra một cách uy nghi như trong Cựu Ước, mà Ngài tỏ mình ra nơi con
người của Chúa Con. Thế nhưng, “thấy - biết” Đức Giê-su chưa đủ, còn phải tin
vào lời và việc Ngài làm. Từ nay, nơi chốn cho con người gặp gỡ Thiên Chúa, để
đón nhận tình thương và lòng thương xót của Ngài chính là Đức Ki-tô. “Chỉ khi
ta gặp được Thiên Chúa hằng sống trong Chúa Ki-tô, ta mới hiểu được sự sống là
gì. Không có gì đẹp hơn là được nối kết lại, được ngạc nhiên sửng sốt bởi Phúc
âm, bởi Chúa Ki-tô.” (Đức Bênêđitô XVI)
Mời Bạn: Để thấy, biết, tin vào
Chúa Giê-su, bạn cần phải chuẩn bị trí tuệ và con tim. Trí tuệ để học hỏi,
chiêm ngưỡng vẻ đẹp và tình thương của Chúa qua Lời Chúa, các Bí tích; còn con
tim để yêu mến. Hãy là một Ki-tô thứ hai để là con đường đưa dẫn người khác đến
với Sự thật và Sự sống, bằng cách tích cực dấn thân nơi môi trường, trong bậc sống
của bạn!
Sống Lời Chúa: Hôm nay tôi cầu nguyện cho
mình và một ai đó, được nhận biết tình thương của Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin tỏ
cho con thấy Chúa vẫn luôn yêu thương và hiện diện trong cuộc sống này. Xin
giúp con lan tỏa tình thương ấy cho những người xung quanh. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Làm những việc lớn hơn nữa (28.4.2018 – Thứ bảy Tuần 4 Phục sinh)
Như Đức Giêsu, điều vĩ đại mà chúng ta có thể làm cho thế giới hôm nay là yêu thương, yêu như Thầy đã yêu, yêu đến hiến mạng.
Suy niệm:
Sau khi ông Tôma hỏi Thầy
Giêsu về đường (Ga 14, 5),
thì ông Philípphê lại xin
Thầy cho các môn đệ thấy Chúa Cha (c. 8).
Không rõ Philípphê muốn
thấy Thiên Chúa theo kiểu nào,
bởi lẽ theo niềm tin
chung của người Do Thái
không ai thấy Thiên Chúa
chí thánh mà sau đó còn sống được (x. Xh 33, 20).
Dù sao khát vọng được
thấy Thiên Chúa là ước mơ chính đáng.
Thiên Chúa đã thỏa mãn
ước mơ mà Ngài đã đặt vào lòng con người.
Nơi Đức Giêsu, là Ngôi
Lời nhập thể và là Con Thiên Chúa,
chúng ta có thể thấy được
Thiên Chúa bằng mắt phàm.
“Ai thấy Thầy là thấy
Chúa Cha” (c. 9).
Nhìn ngắm khuôn mặt Thiên
Chúa nơi Đức Giêsu
chúng ta chẳng những
không phải chết, nhưng được sống.
Theo quan niệm của người
Do Thái,
sứ giả là đại diện trọn
vẹn cho người sai mình.
Đức Giêsu đã là sứ giả
cho Cha một cách tuyệt vời.
Ngài là một với Thiên
Chúa, Đấng sai Ngài :
“Thầy ở trong Chúa Cha,
và Chúa Cha ở trong Thầy” (c. 11).
Các lời Ngài nói, Ngài
không tự mình nói.
Các việc Ngài làm, Ngài
không tự mình làm.
“Nhưng Chúa Cha, Đấng
luôn ở trong Thầy,
chính Người làm những
việc của mình” (c. 10).
Nhìn những việc Đức Giêsu
làm, chúng ta nhận ra đó là việc của Cha.
Cha làm việc của Cha qua
Con của mình là Đức Giêsu.
“Ai tin vào Thầy, người
đó sẽ làm được những việc Thầy làm.
Người đó còn làm được
những việc lớn lao hơn nữa,
bởi vì Thầy đến cùng Chúa
Cha” (c. 12).
Chúng ta vẫn ở trong mùa
Phục sinh, mùa của sự sống chiến thắng.
Đức Giêsu đã về với Chúa
Cha và được vào trong vinh quang.
Khi tin vào Ngài, khi gắn
bó với một Đấng phục sinh quyền năng như thế,
chúng ta có thể làm được
những điều như Ngài đã làm:
trừ quỷ, chữa bệnh, hoàn
sinh kẻ chết (Mc, 16, 17-18; Cv 9, 34.40).
Và như Đức Giêsu, điều vĩ
đại mà chúng ta có thể làm cho thế giới hôm nay
là yêu thương,
yêu như Thầy đã yêu, yêu đến hiến mạng.
Hãy mạnh dạn nhân danh
Đức Giêsu mà xin,
vì biết thế nào Ngài
cũng làm cho người gắn bó với Ngài.
Tất cả để Cha được tôn
vinh nơi Con (c. 14).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con biết con,
xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi
sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến
cho con
và biết chọn theo chân
Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để
con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để
con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa
đời đời. Amen.
(Thánh Âu-Tinh)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
28 THÁNG TƯ
Chúng Ta Là Đàn
chiên Do Ngài Dẫn Dắt
Vào thời đại Thánh
Kinh, người mục tử không chỉ là một người lãnh đạo mà còn là một người bảo vệ cẩn
mật và chuyên chăm. Anh ta quan tâm tới sự sống của đàn chiên. Anh ta dẫn đàn
chiên tới những đồng cỏ và suối nước. Anh ta bảo vệ đàn chiên cho khỏi những kẻ
rình rập và thú dữ. Anh ta lo phòng tránh mọi mối nguy hiểm cho đàn chiên.
Người mục tử là một vị
cứu tinh. Chiên có thể tín nhiệm vào anh ta với một tấm lòng đơn sơ – như chúng
ta ngày nay tín thác vào Chúa Kitô vậy – bởi vì anh ta cung cấp cho chiên cuộc
sống an toàn và phong phú. Thật dễ nhận ra nơi người mục tử uy quyền của Thiên
Chúa, Đấng là Thủ Lĩnh Tối Cao. Ngài trao ban sự tốt lành và ân sủng, Ngài quan
tâm tới con người và trở thành sự đỡ nâng vững chắc của con người. Vâng, chúng
ta thuộc về Ngài. Ngài đã dựng nên chúng ta. Chúng ta là dân Ngài. Chúng ta là
đàn chiên do Ngài dẫn dắt. Đức Kitô đã gọi các môn đệ Người là “của tôi”, vì
“Cha tôi … đã ban chúng cho tôi” (Ga 10,29).
Mỗi tín hữu đều đã được
Chúa Cha trao cho Chúa Con bằng một cách thế đặc biệt. Chúa Con đã trở thành
con người để đảm nhận lấy mối ưu tư của Chúa Cha đối với con người: mối ưu tư của
người mục tử đối với đàn chiên. Mối quan tâm của một người mục tử có thể so
sánh với sự quan phòng từ phụ của Thiên Chúa như được trình bày trong Thánh
Kinh. Sự quan phòng này trở thành một thực tại sống động đối với chúng ta xuyên
qua Chúa Con – là Đức Kitô.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 28/4
Thánh Phêrô Chanel,
linh mục tử đạo
Thánh Luy Grignion
Montfort linh mục
Cv 13, 44-52; Ga
14, 7-14.
LỜI SUY NIỆM: “Nếu anh em
nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó.”
Đây là một lời khẳng định
của Chúa Giêsu đối với bất cứ ai tin tưởng vào Người mà cầu xin cho mình, hay
cho người anh em, đây cũng là một đặc ân lớn lao cho những ai tin vào Người. Điều
này cũng đòi hỏi mỗi người khi cầu xin với sự nhân danh Người, chúng ta phải có
tâm hồn chân thành, khiêm tốn và vâng phục, đặt ý Chúa trên hết như người phung
hủi đã cầu xin Người “Nếu Thầy muốn..”
Lạy Chúa Giêsu, xin
cho trong mọi lời cầu xin của chúng con đều quy hướng về Chúa và làm vinh danh
Chúa trong mọi hoàn cảnh và mọi môi trường chúng con đang sống.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 28-04
Thánh PHÊRÔ CHANEL
Linh Mục (1803 -
1841)
Phêrô Chanel sinh ngày
12 tháng 7 năm 1803 tại Cuet. Hồi nhỏ, Phêrô chăn chiên quanh vùng Belley. Một
linh mục chú ý tới Ngài, lo dạy dỗ và đưa Ngài vào chủng viện Brou. Ngày 15
tháng 7 năm 1827 Ngài được thụ phong linh mục. Trước hết Ngài được bổ nhiệm làm
phó xứ Ambere, sau đó làm cha sở Crozet. Năm 1831, Ngài nhập Hội dòng Maria và
đi truyền giáo ở Ocenia.
Thánh nhân tới đảo
Futuna với cha Maria Niziep ở tại hòn đảo hoang vẫn còn tập tục ăn thịt người
này, Ngài đã dốc toàn lực mở mang nước Chúa. Một tu sĩ phụ tá luôn sát cánh với
Nhà truyền giáo đã kể lại như sau:
"Làm việc dưới sức
nóng nung của trong ánh sáng mặt trời, Ngài trở về nhà ướt đẫm mồ hôi, đói
khát, nhọc mệt, nhưng vẫn vui tươi nhanh nhẹn, tâm hồn sảng khoái như vừa trở về
từ một nơi hạnh phúc. Đây không phải chỉ có một lần mà dường như ngày nào cũng
vậy".
"Người không từ
chối người dân Futuna điều gì cả. Đối với những ai bắt bớ Ngài, Ngài luôn tha
thứ và không khước từ họ, dù cho họ có dốt nát hủ lậu đi nữa. Ngài luôn hiền dịu
đối với mọi người".
Thật lạ lùng gì khi
dân chúng gọi Ngài là "Người phúc hậu" chính Ngài đã thường nói với
các bạn : - Trong cuộc truyền giáo khó khăn thế này chúng ta phải thánh thiện mới
được.
Rao giảng Chúa Kitô và
Phúc âm, Ngài đã chỉ nhận được những kết quả nhỏ nhoi. Dầu vậy, Ngài cũng xác
quyết rằng: việc truyền giáo là việc của loài người và đồng thời cũng là của
Thiên Chúa nữa. Gương và lời Chúa đã nói: "Người lo gieo và người khác sẽ
gặt". Nên thánh nhân luôn nỗ lực rao giảng giáo lý Kitô giáo và chống lại
việc sùng bái của các thần dữ. Nhiệt tình của Ngài đã gây nên nhiều ghen ghét
đe dọa tới chính mạng sống Ngài.
Hôm trước ngày qua đời
thánh nhân còn nói: - Kitô giáo được gieo trồng trên đảo sẽ không bị tiêu diệt
với cái chết của tôi, vì đây không phải là việc của loài người mà là của Thiên
Chúa.
Ngày 28 tháng 4 năm
1241 thánh Phêrô bị sát hại. Nhưng ít lâu sau toàn thể dân đảo Futuna đã trở lại
đạo công giáo, đức tin từ Futuna lấn sang các đảo lân cận ở Oceania và thánh
Phêrô được tôn kính như một vị tử đạo tiên khởi.
(daminhvn.net)
28 Tháng Tư
Thắp Lên Ngọn Ðèn Cũ
Trong một cuộc phỏng
vấn, Mẹ Têrêxa thành Calcutta đã thuật lại một sự kiện như sau: Ở Úc Châu có một
người thổ dân Aborigines kia sống trong một hoàn cảnh thật thảm thương. Ông
cũng đã khá cao niên rồi, sống trong một túp lều xiêu vẹo. Khởi đầu câu chuyện
tôi nói với ông:
- Ðể tôi dọn dẹp
nhà và sửa soạn giường ngủ cho ông. Ông ta trả lời một cách hững hờ:
- Tôi đã quen sống
như vậy rồi.
- Nhưng ông cũng cảm
thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp. Sau cùng ông ta bằng lòng để
tôi dọn dẹp nhà cửa lại cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp
nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ hóng. Tôi hỏi ông:
- Có bao giờ ông thắp
đèn này chưa? Ông ta trả lời một cách cộc lốc:
- Nhưng thắp đèn cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu. Tôi sống ở đây đã từ lâu không hề trông thấy một người nào cả. Tôi hỏi ông:
- Nhưng thắp đèn cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu. Tôi sống ở đây đã từ lâu không hề trông thấy một người nào cả. Tôi hỏi ông:
- Nếu như các nữ tu
đến thăm ông thường xuyên, ông có vui lòng thắp đèn lên không?
- Dĩ nhiên rồi.
Từ ngày đó các nữ
tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Từ đó ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn
dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa. Trước khi chết ông nhờ
các nữ tu ghé thăm nhắn tin cho tôi:
- Xin nhắn với Mẹ
Têrêxa, bạn tôi rằng, ngọn đèn mà Mẹ đã thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu
sáng. Ðó chỉ là một việc nhỏ mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một
tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi.
Chúng ta đều cảm nghiệm
được niềm vui sướng vì được yêu thương, được chính Chúa thương yêu. Và chúng ta
cũng hiểu được giới răn của Chúa: "Hãy thương yêu nhau, như Thầy yêu
thương các con".
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét