18/02/2019
Thứ Hai tuần 6 thường niên
BÀI ĐỌC I: St 4, 1-15.
25
"Cain xông vào giết Abel
em mình".
Trích sách Sáng Thế.
Ađam ăn ở với vợ là
Evà; bà mang thai, sinh ra Cain, và nói rằng: "Nhờ ơn Chúa, tôi sinh được
người con". Bà sinh ra Abel là em. Abel thì chăn chiên, còn Cain thì làm
ruộng. Sau một thời gian, Cain lấy hoa trái đồng ruộng dâng lên cho Chúa. Abel
cũng bắt các con vật đầu đàn và lấy mỡ mà dâng lên cho Chúa. Chúa đoái nhìn đến
Abel và của lễ ông dâng. Còn Cain và của lễ của ông, thì Chúa không nhìn đến,
nên Cain quá căm tức và sụ mặt xuống. Chúa nói với Cain: "Tại sao ngươi
căm tức, tại sao ngươi sụ mặt như thế? Nếu ngươi làm lành, sao ngươi không ngẩng
mặt lên; còn nếu ngươi làm dữ, thì tội đã kề ở cửa ngươi. Lòng ganh tị thúc đẩy
ngươi, ngươi phải chế ngự nó".
Cain nói cùng em là
Abel rằng: "Chúng ta hãy ra ngoài". Và khi hai anh em đã ra tới đồng,
thì Cain xông vào giết Abel em mình. Chúa phán cùng Cain rằng: "Abel, em
ngươi đâu?" Cain thưa: "Tôi đâu có biết! Tôi có phải là người giữ em
tôi đâu?" Chúa phán: "Ngươi đã làm gì? Tiếng máu em ngươi từ đất kêu
thấu đến Ta. Bây giờ, ngươi bị chúc dữ trên phần đất đã mở miệng hút máu em
ngươi do tay ngươi làm đổ ra. Khi ngươi trồng tỉa, đất sẽ không sinh hoa trái
cho ngươi. Ngươi sẽ đi lang thang khắp mặt đất". Cain thưa cùng Chúa rằng:
"Tội ác tôi quá nặng nề, đâu tôi còn đáng tha thứ. Hôm nay Chúa đuổi tôi
ra khỏi mặt đất, tôi sẽ ẩn trốn khỏi mặt Chúa và tôi sẽ đi lang thang trên mặt
đất, nhưng ai gặp tôi, sẽ giết tôi". Chúa bảo: "Không có vậy đâu, hễ
ai giết Cain, thì sẽ bị phạt gấp bảy lần". Rồi Chúa ghi trên Cain một dấu,
để ai gặp hắn, sẽ không giết hắn.
Ađam còn ăn ở với vợ,
bà sinh một con trai đặt tên là Seth, bà nói: "Thiên Chúa đã ban cho tôi một
đứa con trai khác thế cho Abel mà Cain đã giết".
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 49, 1 và 8.
16bc-17. 20-21
Đáp: Hãy hiến dâng
Thiên Chúa lời khen ngợi (c. 14a).
Xướng:
1) Chúa là Thiên Chúa
đã lên tiếng kêu gọi địa cầu, từ chỗ mặt trời mọc lên tới nơi lặn xuống. Ta
không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở
trước mặt Ta luôn. - Đáp.
2) Tại sao ngươi ưa kể
ra những điều huấn lệnh, và miệng ngươi thường nói về minh ước của Ta? Ngươi là
kẻ không ưa lời giáo huấn và ném bỏ lời Ta lại sau lưng? - Đáp.
3) Ngươi ngồi đâu là
buông lời nói xấu anh em, làm tủi nhục cho người con cùng mẹ với ngươi. Ngươi
làm thế, mà Ta đành yên lặng? Ngươi đã tưởng rÄng Ta giống như ngươi? Ta sẽ bắt
lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất cả. - Đáp.
ALLELUIA: Ga 15, 15b
Alleluia, alleluia!
- Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe
biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 8, 11-13
"Tại sao thế hệ này lại
xin điềm lạ?"
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, các người biệt
phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ
trên trời để thử Người. Người thở dài mà nói: "Tại sao thế hệ này lại xin
điềm lạ? Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ
nào". Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia.
Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Dấu lạ của
tình thương
Thánh Marcô đặt cuộc
tranh luận giữa Chúa và những người Biệt phái, sau một loạt phép lạ Chúa Giêsu
đã thực hiện khi bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài. Phép lạ mới nhất là việc hóa
bánh và cá ra nhiều cho đám đông theo Ngài. Những người Biệt phái đã bắt đầu
nghe nói đến hoặc chính mắt họ chứng kiến các phép lạ của Chúa Giêsu, nhưng họ
không tin.
Ở đây, chúng ta thấy
rõ tương quan giữa phép lạ và lòng tin của con người. Chúa Giêsu không làm phép
lạ như một trò ảo thuật; Ngài làm phép lạ trước hết là để biểu lộ quyền năng của
Thiên Chúa, loan báo những dấu chỉ của Nước Trời và kêu gọi lòng tin nơi con
người, do đó phép lạ là một lời mời gọi hơn là một cưỡng bách.
Khi những người Biệt
phái đòi hỏi một dấu lạ, thái độ đó gợi lại sự thử thách mà người Do thái trong
thời kỳ lang thang trong sa mạc cũng đã đòi hỏi nơi Thiên Chúa; thái độ đó cũng
tương tự thái độ của Satan khi đến cám dỗ Chúa Giêsu. Thật thế, Satan đã bảo
Chúa Giêsu hãy gieo mình xuống từ thượng đỉnh Ðền thờ như một cử chỉ vừa ngoạn
mục vừa cả thể. Nhưng Chúa Giêsu đã mượn lời của chính Thiên Chúa nói với dân
Do thái trong Cựu Ước để khước từ cám dỗ của Satan: "Ngươi chớ thử thách
Thiên Chúa là Chúa của ngươi". Trước sự cứng lòng tin của những người Biệt
phái, Chúa Giêsu đã khước từ mọi phép lạ, hay đúng hơn, Ngài không làm phép lạ nào
để nói với họ hơn là cái chết của Ngài trên Thập giá, bởi vì chỉ cái chết ấy mới
có thể lôi kéo mọi người về với Thiên Chúa.
Giáo Hội tiếp tục công
cuộc cứu rỗi của Chúa Kitô; qua cuộc sống của mình, Giáo Hội cũng đang lặp lại
những phép lạ của Chúa Giêsu như một lời mời gọi. Thế nhưng, đâu là dấu chỉ
đáng tin cậy nhất mà Giáo Hội có thể chứng tỏ cho con người thời nay? Với những
phát minh mỗi ngày một tân tiến, con người thời nay dường như vẫn đang tự hào
thực hiện được nhiều phép lạ trong mọi địa hạt. Do đó, đối với con người ngày
nay, không một dấu lạ nào đáng tin hơn nơi Giáo Hội cho bằng chính cái chết của
Chúa Giêsu trên thập giá mà Giáo Hội có thể lặp lại nơi chính mình. Giáo Hội chỉ
đáng tin cậy khi Giáo Hội khước từ vẻ hào nhoáng bên ngoài, để mặc lấy thái độ
vâng lời và phục vụ của Chúa Kitô; Giáo Hội chỉ đáng tin cậy khi Giáo Hội là thể
hiện của một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu của Ðấng sẵn sàng hy sinh và chết
cho người mình yêu.
Dấu lạ cả thể mà có
lẽ con người thời nay đang chờ đợi nơi Giáo Hội chính là dấu lạ của tình thương. Nói như Staline, thế giới này chỉ cần mười người như
thánh Phanxicô Assisi, thì cũng đủ để thay đổi bộ mặt. Người ta mãi mãi vẫn nhớ
khuôn mặt từ tốn, nhân hậu của một Gioan XXIII; hoặc chỉ như một ánh sao băng,
người ta khó mà quên được nụ cười hiện thân của lòng nhân từ nơi Ðức Gioan
Phaolô I; lòng hy sinh quảng đại của Mẹ Têrêsa Calcutta cũng là một dấu lạ cả
thể mà con người thời đại đang tìm thấy nơi Giáo Hội.
Trong sự đóng góp
khiêm tốn của mình trong cuộc sống hiện tại, xin Chúa cho mỗi Kitô hữu chúng ta
luôn ý thức rằng mình đang là một dấu hỏi, một lời mời gọi đối với những người
chưa nhận biết Chúa Kitô.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
LỜI CHÚA MỖI
NGÀY
Thứ Hai Tuần 6 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: Gen
4:1-15, 25; Mk 8:11-13.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cần khiêm nhường biết mình trong mối liên hệ với Thiên
Chúa.
Thiên Chúa không mắc nợ
gì với con người; trái lại, con người mắc nợ mọi sự với Thiên Chúa. Khi con người
tin tưởng nơi Thiên Chúa, con người không thêm điều gì cho Ngài; nhưng niềm tin
nơi Thiên Chúa sẽ giúp con người đạt tới cuộc sống đời đời. Cũng thế, khi con
người làm việc thờ phượng như tham dự Thánh Lễ, đọc kinh, dâng lễ vật, con người
chẳng thêm gì cho Thiên Chúa; nhưng con người sẽ nhận được những lợi ích từ các
việc làm này.
Các Bài Đọc hôm nay
cho thấy những quan niệm sai của con người trong mối liên hệ với Thiên Chúa.
Trong Bài Đọc I, khi Cain dâng lễ vật cho Thiên Chúa và không được Ngài đóai
nhìn tới; ông tức giận với Thiên Chúa và ghen tị với em mình là Abel, vì Ngài
đóai nhìn lễ vật của em ông. Hậu quả là ông đã giết đứa em ruột của mình. Trong
Phúc Âm, các kinh-sư thách thức Chúa Giêsu hãy làm phép lạ để họ có thể tin
Ngài là Thiên Chúa; Chúa Giêsu thở dài vì thái độ thách thức của họ. Ngài từ chối
không làm bất cứ phép lạ nào cho họ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Cain giết Abel, em mình.
1.1/ Nguyên nhân của việc
Cain giết Abel: Cain ghen tị với Abel vì Đức
Chúa đóai nhìn đến lễ vật của Abel, và không đoái nhìn đến lễ vật của ông.
Trình thuật không nêu lý do tại sao Đức Chúa không đóai nhìn lễ vật của Cain,
chúng ta chỉ có thể suy đóan qua truyền thống. Của lễ dâng cho Thiên Chúa phải
kèm theo một tấm lòng yêu mến, chứ không chỉ dâng cho qua lần chiếu lệ như Lề
Luật buộc. Trong thực tế, Abel không phải là nguyên nhân chính sự tức giận của
Abel; nhưng vì sự tức giận của Cain với Thiên Chúa, đã đưa đến sự tức giận của
Cain với em ông. “Giận cá chém thớt” là vậy; vì không làm gì được Thiên Chúa,
nên giết người em yếu đuối để bù lại. Tội giết người này cũng xác nhận bản tính
tội lỗi của con người sau lần sa ngã đầu tiên, tội tổ tông.
Thiên Chúa cắt nghĩa
cho Cain lý do tại sao con người phạm tội: "Tại sao ngươi giận dữ? Tại sao
ngươi sa sầm nét mặt? Nếu ngươi hành động tốt, có phải là ngươi sẽ ngẩng mặt
lên không? Nếu ngươi hành động không tốt, thì tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó
thèm muốn ngươi; nhưng ngươi phải chế ngự nó." Tội lỗi luôn rình chờ con
người, nhưng con người phải sẵn sàng khắc phục nó bằng sự tự chủ và ý hướng
luôn làm điều tốt. Giận dữ và ghen tị sẽ đưa con người đến những tội lỗi lớn
hơn.
1.2/ Cain giết Abel và bản
án của Thiên Chúa: Khi con người muốn phạm tội,
họ tìm nơi hoang vắng để không ai biết việc làm của họ. Cain cũng thế, ông nói
với em là Abel: "Chúng mình ra ngoài đồng đi!" Và khi hai người đang ở
ngoài đồng thì Cain xông đến giết Abel. Nhưng Cain đã quên đi một Đấng, Người
luôn thấu suốt mọi tư tưởng và hành động của ông. Đức Chúa phán với Cain:
"Abel em ngươi đâu rồi?" Cain thưa: "Con không biết. Con là người
giữ em con hay sao?" Giống như sự sa ngã ban đầu, phản ứng đầu tiên của
con người không bao giờ dám nhận trách nhiệm, họ phủ nhận hành động đã làm như
Cain, hay tìm cách tổ tội cho người khác như ông Adam và Bà Evà.
Đức Chúa phán:
"Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta!
Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em
ngươi, do tay ngươi đổ ra. Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng không còn cho
ngươi hoa màu của nó nữa. Ngươi sẽ lang thang phiêu bạt trên mặt đất." Đối
với người Do-Thái, sự sống có được là từ máu, và bắt nguồn từ Thiên Chúa (Lev
17:11-14). Vì Thiên Chúa làm chủ sự sống (Gen 2:7), máu của người vô tội đổ ra
sẽ kêu thấu tới Thiên Chúa. Đất có mối liên hệ mật thiết với con người: con người
sinh ra từ bụi đất và sẽ trở về bụi đất; đất sẽ sinh thực phẩm cho con người;
và tội của con người là lý do làm đất đai sinh gai góc (J).
1.3/ Lòng thương xót của
Đức Chúa cho Cain: Con người phải chịu trách
nhiệm về hành động của mình. Cain suy nghĩ về các hậu quả của việc giết em và
thưa với Đức Chúa: "Hình phạt dành cho con quá nặng không thể mang nổi.
Đây, hôm nay Ngài xua đuổi con khỏi mặt đất. Con sẽ phải trốn tránh để khỏi
giáp mặt Ngài, sẽ phải lang thang phiêu bạt trên mặt đất, và bất cứ ai gặp con
sẽ giết con."
Hình phạt đầu tiên
Cain phải chịu là trốn tránh Thiên Chúa và con người. Xua đuổi khỏi mặt đất là
xua đuổi khỏi nơi hoang vắng, chỗ ở của ma quỉ và tội nhân. Kẻ giết người sẽ
luôn ở trong tình trạng lẩn trốn: trốn Thiên Chúa, con người, và chính mình.
Truyền thống tin Đức Chúa hiện diện cách đặc biệt với dân của Ngài. Không có sự
hiện diện của Đức Chúa, mạng sống con người sẽ luôn bị đe dọa.
(1) Đức Chúa vẫn
thương xót Cain: Người đời đòi “mắt đền mắt, răng đền răng;” và Cain cũng biết
luật vay trả này “bất cứ ai gặp con sẽ giết con.” Nhưng Đức Chúa vẫn tỏ lòng
thương xót cho Cain, Ngài phán: “Bất cứ ai giết Cain sẽ bị trả thù gấp bảy."
Đức Chúa ghi dấu trên Cain, để bất cứ ai gặp ông khỏi giết ông. Dấu đặc biệt
trên trán này chỉ sự bảo vệ của Thiên Chúa.
(2) Đức Chúa đóai
thương đến gia đình Adam: Ông Adam lại ăn ở với vợ. Bà sinh một con trai và đặt
tên là Seth. Bà nói: "Thiên Chúa đã sắp đặt cho tôi một dòng dõi khác thay
cho Abel, vì Cain đã giết nó."
2/ Phúc Âm: Niềm tin dựa trên phép lạ.
(1) Đấng Thiên Sai phải
làm được các phép lạ: Mỗi quốc gia trên địa cầu đều có những sắc thái riêng của
mỗi dân tộc; Thánh Phaolô nói rất đúng về người Do-Thái: “Người Do-Thái tìm kiếm
dấu lạ; trong khi người Hy-Lạp tìm kiếm sự khôn ngoan.” Truyền thống Do-Thái đã
thêu dệt sẵn kiểu mẫu một Đấng Thiên Sai: Ngài là Đấng uy quyền, có khả năng
làm những dấu lạ lùng trong trời đất. Ngài là Chúa của người Do-Thái, nên Ngài
sẽ giúp họ đánh đuổi ngọai bang, và cai trị tòan thế giới. Với kiểu mẫu có sẵn
của Đấng Thiên Sai, những người Pharisees kéo đến với Chúa Giêsu, để thách thức
Người làm một dấu lạ từ trời.
(2) Tại sao Chúa Giêsu
không chịu làm phép lạ? Thứ nhất, Ngài đã làm không biết bao nhiêu phép lạ rồi.
Những người Pharisees này hoặc đã từng chứng kiến, hoặc đã nghe biết về những
phép lạ Ngài đã làm. Thứ đến, phép lạ chỉ giúp khai mở niềm tin. Khi Chúa Giêsu
chữa lành các bệnh nhân, Ngài nhắc nhở cho họ những gì Tiên-tri Isaiah nói về Đấng
Thiên Sai, giờ đây được hiện thực nơi Ngài; mục đích là để giúp họ tin vào
Ngài. Hơn nữa, niềm tin chỉ dựa trên dấu lạ sẽ không vững chắc. Họ cần một sự
hiểu biết chắc chắn về Thiên Chúa và sự quan phòng của Ngài; chứ không phải
theo một Thiên Chúa và các kế họach do họ dựng nên. Nếu niềm tin chỉ dựa trên
phép lạ, niềm tin sẽ lung lay và biến mất khi không nhìn thấy phép lạ nữa. Sau
cùng, Chúa Giêsu không muốn con người điều khiển Thiên Chúa: khi con người cần
gì, Thiên Chúa có bổn phận làm phép lạ ban cho họ điều đó; mà không cần biết điều
họ xin có tốt hay không!
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần khiêm
nhường biết mình trong mối tương quan với Thiên Chúa. Tất cả những việc thờ phượng
chúng ta làm là cho lợi ích của cá nhân chúng ta, chứ không thêm gì cho Thiên
Chúa.
- Khi cầu xin điều gì
không được, chúng ta hãy xét xem điều đó có đúng ý Thiên Chúa không. Đừng bao
giờ có thái độ giận dữ trả thù bằng cách bỏ đạo hay làm hại những người được
Thiên Chúa phù hộ.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
18/02/2019
THỨ HAI TUẦN 6 THƯỜNG NIÊN
Mc 8,14-21
Mc 8,14-21
“MEN” NÀO CHO TA “SAY”?
“Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pha-ri-sêu và men
Hê-rô-đê.” (Mc 8,15)
Suy niệm: Từ thời Ai
Cập cổ đại, người ta đã dùng men để làm bánh mì, làm rượu. Mãi đến năm 1857 nhà
khoa học Louis Pasteur mới khám phá ra rằng men thực ra là một thứ vi sinh vật
thuộc loài nấm, âm thầm mọc rễ đâm chồi bên trong các chất hữu cơ và biến chất
chúng. Có những loài men hữu ích loài người biết được và sử dụng, nhưng cũng có
hàng ngàn thứ men có hại như men chua, men thối làm hư hỏng thức ăn, thậm chí
gây nhiễm độc chết người. Chúa Giê-su cho biết về mặt thiêng liêng cũng có nhiều
thứ “men.” Có thứ “men Nước Trời” mà người môn đệ Ki-tô đem thấm nhập vào trong
thúng bột thế giới và âm thầm làm nó dậy men. Cũng có thứ men mà Chúa cảnh giác
các môn đệ phải coi chừng, loại bỏ: men Pha-ri-sêu và men Hê-rô-đê.
Mời Bạn: Men
Pha-ri-sêu và men Hê-rô-đê vẫn còn sinh sôi nảy nở trong thời đại chúng ta. Đó
là thói kiêu căng giả hình, đánh mất lòng nhân nghĩa. Đó là “men” thực dụng, nặng
về tiền bạc và vật chất, sống hưởng thụ và ích kỷ, “men” dâm ô, qua sách báo
phim ảnh xấu khiến chúng ta vì đam mê chúng mà trở nên lãnh đạm thù nghịch với
tình yêu Chúa và ơn cứu độ của Ngài. Bạn đang “say” thứ men nào, “men trần tục”
hay “men Ki-tô”?
Sống Lời Chúa: Cổ võ trong
cộng đoàn bạn một chiến dịch loại bỏ “men” xấu (phim ảnh xấu, gương xấu…) và “cấy
men” tốt (việc làm gương sáng…).
Cầu nguyện: Lạy Chúa
Giê-su, Chúa đã giao cho con sứ mạng làm men để biến đổi trần gian nên thánh.
Xin Lời Chúa và Thánh Thể Chúa gìn giữ con khỏi men xấu và giúp con sống thánh
thiện giữa đời.
(5 phút Lời Chúa)
Tìm một dấu lạ từ trời
(18.2.2019 – Thứ Hai Tuần 6 Thường niên)
Suy niệm:
Ai cũng dễ bị hấp dẫn
bởi cái lạ thường, cái khác thường.
Còn cái bình thường, như thường, thì ít hấp dẫn, lắm khi tẻ nhạt.
Chỉ cần nghe đâu đó có hiện tượng khác thường là người ta đổ xô đến,
lắm khi chẳng cần suy nghĩ để biết có thực không, có đáng tin không.
Còn cái bình thường, như thường, thì ít hấp dẫn, lắm khi tẻ nhạt.
Chỉ cần nghe đâu đó có hiện tượng khác thường là người ta đổ xô đến,
lắm khi chẳng cần suy nghĩ để biết có thực không, có đáng tin không.
Đức Giêsu đã làm nhiều
phép lạ trong mấy năm sứ vụ.
Những phép lạ đó không nhằm ra oai biểu diễn quyền uy,
cũng không nhằm lôi kéo sự tôn vinh của dân chúng.
Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc đền thờ :
một cám dỗ làm điều ngoạn mục để thu hút quần chúng.
Ngài cũng từ chối xuống khỏi thập giá :
một hành vi đủ làm bẽ mặt những kẻ giết ngài.
“Cứ xuống khỏi thập giá để chúng ta thấy và tin” (Mc 15, 32).
Đức Giêsu không mua niềm tin của đám đông bằng sự phản bội Cha.
Ngài đã ở lại trên thập giá như một người có vẻ thua cuộc…
Những phép lạ đó không nhằm ra oai biểu diễn quyền uy,
cũng không nhằm lôi kéo sự tôn vinh của dân chúng.
Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc đền thờ :
một cám dỗ làm điều ngoạn mục để thu hút quần chúng.
Ngài cũng từ chối xuống khỏi thập giá :
một hành vi đủ làm bẽ mặt những kẻ giết ngài.
“Cứ xuống khỏi thập giá để chúng ta thấy và tin” (Mc 15, 32).
Đức Giêsu không mua niềm tin của đám đông bằng sự phản bội Cha.
Ngài đã ở lại trên thập giá như một người có vẻ thua cuộc…
Kitô giáo không đặt nền
trên những chuyện dị thường, ma quái.
Đức Giêsu đã làm phép lạ chữa bệnh và trừ quỷ
vì ngài chạnh lòng thương trước nỗi khổ đau của con người,
vì ngài muốn đáp lại lòng tin quá lớn của bệnh nhân,
và vì ngài muốn cho thấy Nước Thiên Chúa đã đến rồi.
Phép lạ lớn nhất của Đức Giêsu là Tình Yêu.
Đức Giêsu đã làm phép lạ chữa bệnh và trừ quỷ
vì ngài chạnh lòng thương trước nỗi khổ đau của con người,
vì ngài muốn đáp lại lòng tin quá lớn của bệnh nhân,
và vì ngài muốn cho thấy Nước Thiên Chúa đã đến rồi.
Phép lạ lớn nhất của Đức Giêsu là Tình Yêu.
Các ông Pharisêu không
phủ nhận chuyện Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ.
Sau này các thượng tế cũng nhìn nhận :
“Hắn đã cứu được người khác…” (Mc 15, 31).
Nhưng họ thấy điều đó vẫn không đủ hoành tráng và gây ấn tượng.
Họ đòi một dấu lạ từ trời, một dấu lạ lớn hơn để họ tin vào ngài.
Đức Giêsu đã mạnh mẽ từ chối đòi hỏi ấy.
Sau này các thượng tế cũng nhìn nhận :
“Hắn đã cứu được người khác…” (Mc 15, 31).
Nhưng họ thấy điều đó vẫn không đủ hoành tráng và gây ấn tượng.
Họ đòi một dấu lạ từ trời, một dấu lạ lớn hơn để họ tin vào ngài.
Đức Giêsu đã mạnh mẽ từ chối đòi hỏi ấy.
Làm sao chúng ta nhìn
ra được những điều bình thường, nho nhỏ
mà Chúa vẫn làm cho chúng ta mỗi ngày ?
Nhiều khi chúng ta vẫn đòi những điều lạ lùng hơn, lớn lao hơn.
Như người Pharisêu, chúng ta chẳng hề mãn nguyện.
Chúng ta vẫn muốn thử Thiên Chúa, bởi lẽ chúng ta không tin Ngài.
Xin cho tôi thấy được sự kỳ diệu của Tình Yêu
nơi những điều tưởng như là tự nhiên của cuộc sống.
mà Chúa vẫn làm cho chúng ta mỗi ngày ?
Nhiều khi chúng ta vẫn đòi những điều lạ lùng hơn, lớn lao hơn.
Như người Pharisêu, chúng ta chẳng hề mãn nguyện.
Chúng ta vẫn muốn thử Thiên Chúa, bởi lẽ chúng ta không tin Ngài.
Xin cho tôi thấy được sự kỳ diệu của Tình Yêu
nơi những điều tưởng như là tự nhiên của cuộc sống.
Cầu nguyện:
Lạy Cha là Đấng tạo
hóa nhân từ,
Xin cho chúng con thấy sự hiện diện của Cha
Trong vũ trụ vô cùng lớn,
Trong những hạt tử vô cùng nhỏ,
Và trong bộ óc vô cùng phức tạp của con người.
Cha từ ái biết bao
Khi ban cho chúng con một thế giới đầy màu sắc.
Mầu xanh cỏ non, mầu hồng trái chín,
Mầu vàng mặt trời xế chiều.
Cha từ ái biết bao
Khi ban cho chúng con một thế giới đầy hương thơm.
Hương của đồng lúa mới, của hoa bưởi, hoa cau,
Tiếng gió rì rào qua kẽ lá.
Cha từ ái biết bao
Khi ban cho chúng con một thế giới đầy hương thơm.
Hương của đồng lúa mới, của hoa bưởi, hoa cau,
Hương thơm của nắng xuân dìu dịu.
Xin cho chúng con thấy sự hiện diện của Cha
Trong vũ trụ vô cùng lớn,
Trong những hạt tử vô cùng nhỏ,
Và trong bộ óc vô cùng phức tạp của con người.
Cha từ ái biết bao
Khi ban cho chúng con một thế giới đầy màu sắc.
Mầu xanh cỏ non, mầu hồng trái chín,
Mầu vàng mặt trời xế chiều.
Cha từ ái biết bao
Khi ban cho chúng con một thế giới đầy hương thơm.
Hương của đồng lúa mới, của hoa bưởi, hoa cau,
Tiếng gió rì rào qua kẽ lá.
Cha từ ái biết bao
Khi ban cho chúng con một thế giới đầy hương thơm.
Hương của đồng lúa mới, của hoa bưởi, hoa cau,
Hương thơm của nắng xuân dìu dịu.
Chúng con ca ngợi
đôi tay khéo léo của Cha
Khi tạo nên sự trong ngần ngời sáng của viên ngọc,
Sự lộng lẫy phong phú của muôn loài hoa lan,
Sự rực rỡ hài hòa nơi đôi cánh của loài bướm,
Và nhất là sự đẹp đẽ cao cả nơi con người.
Khi tạo nên sự trong ngần ngời sáng của viên ngọc,
Sự lộng lẫy phong phú của muôn loài hoa lan,
Sự rực rỡ hài hòa nơi đôi cánh của loài bướm,
Và nhất là sự đẹp đẽ cao cả nơi con người.
Dưới lòng đất, trên
núi cao,
Giữa biển sâu, trong rừng vắng,
Chỗ nào chúng con cũng thấy bóng dáng Cha.
Giữa biển sâu, trong rừng vắng,
Chỗ nào chúng con cũng thấy bóng dáng Cha.
Xin cho chúng con
Biết chung sống với thiên nhiên này
Như một người bạn, một quà tặng cha ban,
Biết giữ gìn ngôi nhà trái đất
Để nó khỏi hư hỏng, cạn kiệt,
Và biết chia sẻ cho nhau bao tài nguyên còn tiềm ẩn.
Ước gì đến ngày cả trái đất, cả vũ trụ này
Và muôn loài cha đã dựng nên
Được cùng với cả nhân loại chúng con
Vui hưởng tự do và vinh quang trong Nước Cha. Amen
Biết chung sống với thiên nhiên này
Như một người bạn, một quà tặng cha ban,
Biết giữ gìn ngôi nhà trái đất
Để nó khỏi hư hỏng, cạn kiệt,
Và biết chia sẻ cho nhau bao tài nguyên còn tiềm ẩn.
Ước gì đến ngày cả trái đất, cả vũ trụ này
Và muôn loài cha đã dựng nên
Được cùng với cả nhân loại chúng con
Vui hưởng tự do và vinh quang trong Nước Cha. Amen
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Hai
18 THÁNG HAI
Bạn Có Nghe Ngài Gõ
Cửa?
“Các ngươi hãy hết
lòng trở về với Ta” (Ge 2, 12). Đó là tiếng gọi của Thiên Chúa cho riêng từng
người trong Giáo Hội. Thiên Chúa kêu gọi mỗi chúng ta trở về với Ngài. Đấy là sứ
điệp của mọi mùa Chay. Đó là lý do tại sao mùa Chay được gọi là một ‘nhịp mạnh’.
Trong mùa này, hơn bất cứ lúc nào khác, chính Thiên Chúa nói với chúng ta. Ngài
kêu gọi. Ngài gõ vào cánh cửa tâm hồn ta.
Thiên Chúa muốn chiếm
lấy chúng ta. Tình yêu của Ngài dành cho chúng ta thật quá đỗi thâm trầm, vì
Ngài biết từng người trong chúng ta đến tận những đáy sâu thẳm nhất. Ngài biết
rằng mãi mãi chúng ta còn khắc khoải bao lâu chưa trở lại cùng Ngài. Vì thế,
đây cũng là một tình yêu ‘hay ghen’(cf. Ge 2, 18). Tình yêu ‘hay ghen’ ấy của
Thiên Chúa làm nên bầu khí của mùa Chay, từ Thứ Tư Lễ Tro cho đến Tam Nhật
Thánh.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
18 Tháng Hai
Hai Biển Hồ
Palestina có tới hai biển hồ... Hai biển hồ
này hoàn toàn khác nhau. Một biển hồ thường được gọi là biển hồ Galilêa. Ðây là
một biển hồ rộng lớn với nước trong xanh mà người ta có thể uống và cá cũng có
thể sống trong đó. Xung quanh hồ này là những vườn cây và thảm cỏ xanh tươi.
Nhà cửa cũng mọc lên rất nhiều xung quanh biển hồ này... Chúa Giêsu đã gặp gỡ với
những người môn đệ đầu tiên của Ngài tại đây và Ngài cũng nhiều lần đi thuyền
xuyên qua biển hồ này.
Biển hồ thứ hai tại Palestina là Biển
Chết. Ðúng như tên gọi của nó, không có sự sống nào trong cũng như xung quanh
biển hồ này. Nước mặn đến nỗi mà người cũng có thể trở thành bệnh hoạn nếu uống
phải. Mùi hôi thối từ Biển Chết xông lên khiến không ai muốn sống gần đó.
Có điều kỳ lạ là hai biển hồ này đều
nhận nước từ cùng một nguồn là sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào biển hồ
Galilêa rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch khác. Hồ Galilêa nhận lãnh để
rồi chia sẻ cho những hồ khác, nhờ đó nước của nó luôn luôn trong sạch và mang
lại sức sống cho cây cỏ, muôn thú cũng như con người.
Biển Chết cũng nhận nước từ sông
Jordan, nhưng nó giữ lấy riêng cho nó do đó nước của nó trở thành mặn chát và
hôi thối.
Thánh Phaolô đãghi lại lời vàng ngọc của Chúa Giesu như sau: "Cho thì có
phúc hơn nhận lãnh". Thật ra, càng trao ban, người ta càng nhận lãnh trở lại
nhiều hơn.
Một
đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lợi. Một ánh lửa chia sẻ là một ánh
lửa tỏa lan. Một vết dầu thả lỏng là một vết dầu loang. Ðôi môi có hé mở mới
thu nhận được nhiều nụ cười. Bàn tay có mở rộng trao ban, tâm hồn mới tràn ngập
vui sướng...
Càng trao ban, càng được nhận lãnh: đó là một định luật sống của con người
trong mọi lĩnh vức. Tất cả con người chúng ta, tất cả sự sống của chúng ta, tất
cả tài năng của chúng ta, tất cả những gì chúng ta có: tất cả đều do Chúa ban tặng.
Thiên Chúa ban tặng tất cả cho chúng ta để chúng ta trao ban cho người khác và
như vậy, chúng ta mới cảm nhận được hạnh phúc đích thực... Cũng như biển hồ
Galilêa tiếp nhận nước từ dòng sông Jordan để rồi ban tặng cho những sông lạch
xung quanh và nhờ đó, trở thành trong xanh tươi tốt, cũng thế, sự sống chúng ta
lãnh nhận từ Thiên Chúa chỉ trở thành tươi tốt nếu nó được chia sẻ và trao ban
cho người khác. Càng giữ lấy riêng cho mình, sự sống trong chúng ta sẽ héo tàn
và chết dần chết mòn
Trích sách Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét