01/04/2019
Thứ hai tuần 4 Mùa Chay
BÀI ĐỌC I: Is 65, 17-21
“Thiên hạ sẽ không còn nghe tiếng
khóc lóc và than van nữa”.
Trích sách Tiên tri
Isaia.
Thiên Chúa phán: “Này
Ta tác tạo trời mới, đất mới; người ta sẽ không còn nhớ lại dĩ vãng, và cũng sẽ
không bận tâm đến dĩ vãng nữa. Nhưng các ngươi hãy hân hoan và nhảy mừng cho đến
muôn đời trong các việc Ta tác tạo, vì đây Ta tác tạo một Giêrusalem hân hoan
và một dân tộc vui mừng. Ta sẽ hân hoan ở Giêrusalem, sẽ vui mừng nơi dân Ta,
và từ đây người ta sẽ không còn nghe tiếng khóc lóc và than van nữa. Ở đó sẽ
không còn trẻ nhỏ chết yểu, không còn người già chết sớm nữa, vì người chết
trăm tuổi cũng còn gọi là chết trẻ, người không sống đến trăm tuổi, kể là bị
chúc dữ. Họ sẽ xây cất nhà cửa và cư ngụ ở đó, sẽ trồng nho và ăn trái nho”. Đó
là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 29, 2 và 4.
5-6. 11e-12a và 13b
Đáp: Lạy Chúa, con
ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).
Xướng:
1) Lạy Chúa, con ca tụng
Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Ngài
đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống
mồ. – Đáp.
2) Các tín đồ của
Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài
chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. Chiều
hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng vui hoan hỉ. – Đáp.
3) Lạy Chúa, xin nhậm
lời và xót thương con, lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi
lời than khóc thành khúc nhạc cho con, lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ
tán tụng Chúa tới muôn đời. – Đáp.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC
ÂM: Lc 15, 18
Tôi muốn ra đi trở
về với cha tôi và thưa người rằng: Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến
cha.
PHÚC ÂM: Ga 4, 43-54
“Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu bỏ
Samaria mà đến Galilêa. Chính Người đã nói: “Không vị tiên tri nào được kính nể
nơi quê hương mình”. Khi Người đến Galilêa, dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã
chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự
lễ.
Người trở lại Cana xứ
Galilêa, nơi Người đã biến nước thành rượu. Bấy giờ có một quan chức nhà vua ở
Capharnaum có người con trai đang đau liệt. Được tin Chúa Giêsu đã bỏ Giuđêa đến
Galilêa, ông đến tìm Người và xin Người xuống chữa con ông sắp chết. Chúa Giêsu
bảo ông: “Nếu các ông không thấy những phép lạ và những việc phi thường, hẳn
các ông sẽ không tin”. Viên quan chức trình lại Người: “Thưa Ngài, xin Ngài xuống
trước khi con tôi chết”. Chúa Giêsu bảo ông: “Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi”.
Ông tin lời Chúa Giêsu nói và trở về.
Khi xuống đến sườn đồi
thì gặp gia nhân đến đón, báo tin cho ông biết con ông đã mạnh. Ông hỏi giờ con
ông được khỏi. Họ thưa: “Hôm qua lúc bảy giờ cậu hết sốt”. Người cha nhận ra là
đúng giờ đó Chúa Giêsu bảo ông: “Con ông mạnh rồi”, nên ông và toàn thể gia quyến
ông đều tin. Đó là phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm khi Người ở Giuđêa về
Galilêa. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Ðức tin đưa
tới phép lạ
Chúa Giêsu chữa lành
con trai người quan chức tại Caphacnaum khi Ngài ở Giuđa về Galilê và thánh sử
Gioan ghi rõ đây là phép lạ thứ hai Ngài thực hiện tại Cana. Phép lạ thứ nhất
là hóa nước thành rượu vào giai đoạn đầu đời rao giảng công khai. Hóa nước
thành rượu theo lời đề nghị của Ðức Maria, mẹ Ngài, để cứu vãn danh dự cho gia
chủ tiệc cưới. Chữa lành người con một quan chức nhà vua, Chúa Giêsu cho thấy
Ngài đến vì mọi người và ở mọi tầng lớp xã hội. Ngài đã ra tay để mang lại hạnh
phúc cho mọi người không cần biết họ là ai và điều kiện đón nhận phép lạ là đức
tin. Ðức tin của con người cộng với ơn của Thiên Chúa tạo nên phép lạ.
Mỗi ngày sống hôm nay
của chúng ta là sự lạ lùng Thiên Chúa thực hiện. Không nhận ra được sự lạ lùng ấy
là vì chúng ta không có đức tin. Không có thì không phải Thiên Chúa không ban
ơn đức tin cho chúng ta đâu mà là do chúng ta không muốn lãnh nhận ơn ấy vì sợ
sệt, sợ phải sống theo Tin Mừng, sợ nên thánh, sợ phải sống tốt hơn. Chẳng hạn
như sự kiện cha sở đề nghị chia sẻ Lời Chúa thì rút lui, tránh né. Nhưng quả thật
là họ dự lễ chứ chưa dâng lễ. Ðã từ lâu họ quen cảnh linh mục chủ tế, công bố
Tin Mừng và giảng trong khi họ mơ mơ màng màng với giấc ngủ chưa dứt, những suy
nghĩ viễn vông. Nay phải tiếp cận Lời Chúa và để cho Lời Chúa soi dọi trong mọi
ngõ ngách trong lòng họ, nhắc họ ra khỏi tình trạng ươn lười và khoán việc cho
người khác thì họ thấy sợ. Không lạ lùng gì họ không thể và không bao giờ có thể
chứng kiến được những kỳ diệu Thiên Chúa làm trong đời sống họ mỗi ngày.
Lời loan báo Tin Mừng
cũng trở nên vô nghĩa ngay trong nhà thờ đông nghẹt người đến dự lễ chứ không
dâng lễ. "Ông hãy về đi, con ông sống rồi", viên quan chức tin không
đòi hỏi gì hơn. Vào trường hợp chúng ta, có lẽ chúng ta chần chờ để xin thêm một
vài dấu chỉ nào đó chứng minh lời Chúa thật sự có kết quả. Ông về nghe tin con
đã khỏe, ông hỏi giờ và nhận ra giờ đó Chúa đã chữa lành cho con ông. Có lẽ gia
nhân không biết gì. Chuá vẫn thế, Ngài có những thực hiện kỳ diệu một cách rất
bình thường, một câu nói đơn giản, quyền lực vượt không gian và thời gian để
mang lại kết quả mong muốn miễn là chúng ta tin.
Lạy Chúa, chúng con có
đạo nhưng hổ thẹn: Có người chỉ một lần nghe, gặp Chúa và tin ngay. Họ thấy được
tình yêu thương họ, nhận ra được những hành động vì tình yêu thương Chúa. Còn
chúng con tuần nào cũng gặp gỡ Chúa, mà chúng con đến với Chúa như cái xác
không hồn của chúng con. Nguyện xin Ðấng là đường, là sự thật và là sự sống củng
cố niềm tin chúng con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần IV MC
Bài đọc: Isa
65:17-21; Jn 4:43-54.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Niềm tin vào
Thiên Chúa có thể làm được mọi sự.
Có một sự khác biệt to
lớn giữa người có và không có niềm tin: Người có niềm tin luôn lạc quan hy vọng,
ngay cả trong những lúc tăm tối nhất của cuộc đời, như khi phải sống trong đau
khổ, bệnh tật, hay phải đối diện với thần chết. Người không có niềm tin sống mà
không biết hướng về đâu. Họ không có nghị lực để đương đầu với đau khổ, bệnh tật,
và đứng trước cái chết, họ không dễ dàng chấp nhận. Các Bài Đọc hôm nay cho
chúng ta thấy sự khác biệt của những con người đặt niềm tin nơi Thiên Chúa.
Trong Bài Đọc I, tuy sống
cực khổ trong nơi lưu đày, tiên-tri Isaiah tin tưởng Chúa sẽ xóa sạch mọi tang
thương quá khứ, để sáng tạo một trời mới đất mới. Như Ngài đã xóa sạch tội lỗi
nhân lọai trong trận Lụt Hồng Thủy, Ngài sẽ xóa sạch tội lỗi và cho dân hồi
hương để tái thiết quốc gia và xây dựng lại Đền Thờ. Hơn nữa, tiên-tri Isaiah
cũng nhìn thấy trước ngày Đấng Thiên Sai sẽ tới và gánh tội cho con người.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chữa lành người con trai của viên sĩ quan Dân Ngọai,
không bằng việc đặt tay, nhưng bằng đức tin của người cha. Viên sĩ quan năn nỉ
Chúa Giêsu về nhà chữa trị cho con ông, Chúa Giêsu bảo: “Ông về đi, và con ông
sống!” Ông tin tưởng trở về; và đang khi còn trên đường, đầy tớ của ông chạy ra
báo tin con ông đã khỏi bệnh vào đúng thời gian mà Chúa Giêsu hứa với ông.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới.
1.1/ Thiên Chúa sẽ sáng tạo
mọi sự mới: “Này đây Ta sáng tạo trời mới đất
mới, không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa. Nhưng
thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan vì những gì chính Ta sáng tạo.” Cụm từ
“trời mới đất mới” được dùng nhiều trong các Sách Ngọai Thư và Tân Ước (x/c 2
Edr 6:16, 7:30, 2 Bar 32:16, I Enoch 91:16, 2 Cor 5:17, 2 Pet 3:10-13, Rev
21:1). Nghĩa của cụm từ thay đổi: Trong Thư Corintô, Thánh Phaolô muốn nói
trong Chúa Kitô, con người trở thành một tạo vật mới, con người cũ cùng với
tính hư nết xấu đã qua đi, con người mới cùng với các nhân đức xuất hiện nhờ ân
sủng của Đức Kitô. Trong Thư Phêrô II và Sách Khải Huyền, “trời mới đất mới” chỉ
những gì sẽ xảy ra sau Ngày Cánh Chung, nơi công lý của Thiên Chúa ngự trị.
Theo tiên-tri Isaiah, “trời mới đất mới” chỉ cả hai: những gì mới được tái tạo
sau Thời Lưu Đày và những gì mới do Đấng Thiên Sai mang lại.
Jerusalem sẽ trở nên
nguồn hoan hỷ và dân ở đó thành nỗi vui mừng: Đền Thờ sẽ được tái thiết và dân
Chúa sẽ lại có cơ hội thờ phượng Thiên Chúa. Jerusalem cũng là nơi Dân Ngọai sẽ
qui tụ về để cùng hợp với dân Do-Thái làm thành dân của Thiên Chúa. Như một người
Cha, Thiên Chúa sẽ hoan hỷ vì Jerusalem, khi nhìn thấy con cái Ngài được qui tụ
thành một mối.
1.2/ Thiên Chúa sẽ xóa sạch
tất cả đau thương của quá khứ: Dân chúng
khóc than vì chết chóc trong thời chiến tranh và khổ cực trong Thời Lưu Đày;
nhưng Thiên Chúa sẽ xóa sạch tất cả. Ngài hứa với dân 3 điều sau đây:
– Họ sẽ không còn phải chịu đau khổ của kiếp lưu đày;
– Họ sẽ không còn phải chịu đau khổ của kiếp lưu đày;
– Họ sẽ không còn sợ
chết vì chiến tranh;
– Họ sẽ được hưởng cuộc
sống an tòan: “Người ta sẽ xây nhà và được ở, sẽ trồng nho và được ăn trái.”
2/ Phúc Âm: “Ông cứ về đi, con ông sống.”
Khỏang cách từ
Capernaum tới Cana khỏang 20 dặm, một khỏang cách dài cho người đi bộ. Đi và trở
về ngay phải mất khỏang 20 tiếng. Có một trình thuật tương tự trong Tin Mừng Nhất
Lãm (Mt 8:5-13, Lk 7:1-10). Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa 2 trình thuật:
Trong Tin Mừng Nhất Lãm, viên sĩ quan nói với Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, tôi chẳng
đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh.”
Trong trình thuật của Gioan, Chúa bảo: “Ông cứ về đi, con ông sống.” Chúng ta
có thể học được nhiều điều qua thái độ của viên sĩ quan này:
(1) Khiêm nhường: Viên
sĩ quan, tiếng Hy-lạp dùng chữ “basilikos” có nghĩa là “ông vua nhỏ.” Có nhiều
bức tường ngăn cách giữa Chúa Giêsu và viên sĩ quan này:
– Bức tường ngăn cách
xã hội: Ông là người có địa vị cao trong hòang gia, khiêm nhường đi bộ đến cầu
xin với Chúa Giêsu, một người không có địa vị trong xã hội.
– Bức tường ngăn cách
giữa người Do-thái và Dân Ngọai: Người Do-thái không muốn có bất kỳ liên hệ gì
với Dân Ngọai. Ông biết ông có thể bị mất mặt nếu Chúa Giêsu từ chối.
Tuy nhiên, lòng thương
con đã thắng vượt tất cả, ông sẵn sàng hy sinh mọi sự để có thể cứu vãn sự sống
của con ông.
(2) Vượt qua thử
thách: Đức Giêsu nói với ông: “Các ông mà không thấy dấu lạ điềm thiêng thì các
ông sẽ chẳng tin đâu!” Ngài dùng số nhiều “các ông,” có lẽ muốn nói với ông và
những người chung quanh. Chúa Giêsu muốn nói lên một thực tại của người
Do-thái: họ sẽ không tin khi không nhìn thấy dấu lạ. Đồng thời, Chúa Giêsu cũng
muốn cho những người Do-thái xem niềm tin không dựa trên việc chứng kiến phép lạ
của viên sĩ quan Dân Ngọai. Khi viên sĩ quan năn nỉ van xin Chúa Giêsu xuống
Capernaum chữa bệnh cho con ông, Chúa thử đức tin của ông, Ngài không đi với
ông, nhưng bảo: “Ông cứ về đi, con ông sống.” Người Do-thái chắc phải ngạc
nhiên vì niềm tin của ông khi thấy: “Ông tin vào lời Đức Giêsu nói với mình, và
ra về.” Trong trình thuật của Matthêu, Chúa Giêsu khen viên sĩ quan: “Tôi bảo
thật các ông: Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế.”
(3) Đức tin được kiện
tòan bởi lý trí: Ông còn đang đi xuống, thì gia nhân đã đón gặp và nói là con
ông sống rồi. Đối với một người vô tâm, họ sẽ vui mừng khi biết con còn sống và
quên hết mọi sự khác; nhưng viên sĩ quan còn đang sống trong tiến trình của đức
tin, nên ông hỏi họ con ông đã bắt đầu khá hơn vào giờ nào. Họ đáp: “Hôm qua,
vào lúc một giờ trưa thì cậu hết sốt.”
Ông nhận ra là vào
đúng giờ đó, Đức Giêsu đã nói với mình: “Con ông sống.” Đức tin của ông vào
Chúa Giêsu được kiện tòan. Ngài hứa với ông và lời hứa đã thành sự thực, ông
tin vào Ngài.
(4) Ông và cả nhà đều
tin: Không dễ cho một viên sĩ quan công khai thú nhận niềm tin vào Chúa Giêsu
vì sợ ảnh hưởng của dư luận. Nhưng viên sĩ quan này đã có một niềm tin được sự
trợ giúp của lý trí. Ông muốn không những chỉ có ông, nhưng còn cả nhà tin vào
Chúa Giêsu. Điều này thông thường đối với dân thời đó: Gia trưởng có quyền quyết
định mọi chuyện trong nhà. Khi nhận ra điều gì tốt, người gia trưởng có quyền bắt
tất cả người trong nhà phải làm theo. Ví dụ, Tổ-phụ Abraham bắt mọi người trong
nhà phải cắt bì.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Thiên Chúa không muốn
nhớ tới dĩ vãng tội lỗi và đau thương của con người. Ngài luôn mời gọi chúng ta
nhìn về tương lai và hy vọng bước tới. Như một người Cha, Ngài mừng vui khi thấy
con cái được vui vẻ, hạnh phúc.
– Thiên Chúa muốn con
người luôn tin tưởng tuyệt đối nơi Ngài, ngay cả những lúc chưa nhìn thấy kết
quả, hay những đêm tăm tối của cuộc đời; vì những gì Thiên Chúa đã hứa, Ngài sẽ
thực hiện.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
01/04/2019 – THỨ HAI TUẦN 4 MC
Ga 4,43-54
TIN VÀO LỜI CHÚA
Đức Giê-su bảo: “Ông cứ về đi, con ông sống.” Ông tin vào lời
Chúa nói với mình, và ra về. (Ga 4,50)
Suy niệm: Thoạt đầu, có lẽ viên sĩ
quan chỉ tin vào Đức Giê-su một cách cầu may. Có lẽ ông đã tìm thầy chạy thuốc
nhưng tất cả đều đành bó tay. Nghe nói về Chúa Giê-su và những “điềm thiêng dấu
lạ” Ngài thực hiện, ông đánh liều đến xin. Biết đâu, may mà được. Ít ra, ông
cũng đặt niềm tin tưởng vào Đức Giê-su, dù đó mới chỉ là “một thoáng đức tin”.
Chúa Giê-su chấp nhận đức tin còn non yếu của ông, để nâng cấp trở thành niềm
tin đích thực: Ngài không đến Ca-phác-na-um để chữa con ông theo như ông yêu cầu,
nhưng đã thanh luyện đức tin của ông chỉ bằng vỏn vẹn một lời, Lời có sức cứu sống,
Lời có quyền năng sáng tạo: “Ông cứ về đi, con ông sống”. Ông đã tin không phải
vì thấy những “điềm thiêng dấu lạ” nữa, nhưng chỉ dựa vào Lời Chúa mà thôi.
Mời Bạn: Đức Giê-su cũng mời gọi
chúng ta ngày càng trưởng thành hơn trong đức tin, để càng ngày chúng ta càng
nhận ra Chúa một cách nhanh chóng và rõ ràng dù những dấu chỉ khả giác được
tinh giản đến mức tối thiểu: qua Lời Chúa trong Thánh Kinh và qua hình Bánh-Rượu
nơi Bí tích Thánh Thể.
Chia sẻ: Không thể dùng phương pháp thực nghiệm để phân tích những
mầu nhiệm, đối tượng của đức tin. Có phải vì thế mà đức tin trở thành mơ hồ hay
vô lý và không đáng tin hay không?
Sống Lời Chúa: Bạn hãy làm một cử chỉ diễn
tả niềm tin của mình: hôn kính Thánh giá, hoặc sách Lời Chúa hoặc bái chào Mình
Thánh Chúa một cách thật cung kính.
Cầu nguyện: Lặp lại nhiều lần
lời nguyện tắt: “Lạy Chúa, xin ban thêm niềm tin cho chúng con.”
(5 Phút Lời Chúa)
Con ông sống (1.4.2019 – Thứ Hai
Tuần 4 Mùa Chay)
Suy niệm:
Trong các sách Tin Mừng, chúng ta thường gặp nỗi sợ hãi, lo lắng
của những bậc cha mẹ trước căn bệnh hiểm nghèo của con mình.
Ông trưởng hội đường Giairô khẩn khoản nài xin Đức Giêsu
“Con bé nhà tôi gần chết. Xin Thầy đến và đặt tay trên nó” (Mc
5, 23).
Bà dân ngoại gốc Canaan kêu lên: “Xin thương xót tôi,
vì con gái của tôi bị quỷ ám trầm trọng lắm” (Mt 15, 22).
Người cha có đứa con bị động kinh cũng nài van Đức Giêsu:
“Xin Thầy chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi” (Mc 9, 22).
Trong bài Tin Mừng hôm nay viên sĩ quan, có lẽ của vua Hêrôđê, cũng năn nỉ:
“Xin Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết mất !” (c. 49).
Bệnh tật và cái chết đang đe dọa đứa con khiến cha mẹ khổ đau và bối rối.
Họ không muốn mất đứa con đã trở nên một phần của đời họ.
Họ vội vã đến với Đức Giêsu như đến với một nơi có thể cấp cứu kịp thời.
Họ tin vào sự hiện diện của Ngài, vào sự chữa lành mà Ngài đem lại.
Lòng tin của viên sĩ quan đã lớn lên từ từ.
Ông tin nhờ nghe người ta nói về những gì Đức Giê su đã làm ở vùng Giuđê.
Ông gặp Ngài vì tin Ngài có thể chữa đứa con trai đang nguy tử của ông
bằng cách đi với ông về nhà ở Caphácnaum (c. 49).
Nhưng sau đó ông tin vào uy quyền của lời Đức Giêsu :
“Ông cứ về đi, con ông sống!”
nên ông vâng lời đi về nhà một mình (c.50).
Chẳng cần sự hiện diện, chỉ cần lời của Ngài nói từ xa cũng đủ con ông khỏi
bệnh.
Lòng tin của ông được vững vàng hơn khi ông kiểm chứng và biết rõ
chính vào giờ Ngài nói thì con mình được chữa lành (c. 53).
Bây giờ hẳn ông đã tin trọn vẹn vào chính con người Đức Giêsu.
Lòng tin ấy lôi cuốn cả gia đình ông tin theo.
Sau khi dấu lạ xảy ra, không thấy nói gì về thái độ ngạc nhiên của gia
quyến.
Kết quả tuyệt vời của dấu lạ là chính lòng tin của mọi người trong nhà.
Họ sẽ được ông kể cho nghe từng chi tiết câu chuyện gặp gỡ.
Trong tiệc cưới ở Cana, lòng tin của Đức Maria đã dẫn đến dấu lạ đầu
tiên.
Dấu lạ này đã khiến các môn đệ Đức Giêsu tin vào Ngài (Ga 2, 11).
Trong dấu lạ thứ hai này ở Cana, lòng tin của viên sĩ quan, của một
người cha,
đã dẫn đến lòng tin của những người thân thuộc.
Lòng tin thật sự bao giờ cũng có khả năng thu hút, lôi kéo, lan rộng.
Ngay trước đoạn Tin Mừng này,
chuyện người phụ nữ Samari cũng cho ta thấy điều đó.
Từ lời chứng của chị, dân thành Xykha đã tin vào Đức Giêsu (Ga 4,39).
Đời chúng ta cũng có những lúc tưởng như tuyệt vọng,
khi ta thấy tuột khỏi tay mình những gì rất quý mà mình muốn ôm giữ.
Hãy nhìn lên thánh giá để khỏi mất lòng tin.
Hãy chấp nhận đi vào những nẻo đường lạ lẫm mà Chúa đang mời gọi.
Như viên sĩ quan, ta sẽ gặp tin vui ngay trên đường về nhà.
Cầu nguyện:
Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của con.
Con tin Cha là Tình yêu,
và mọi sự Cha làm đều vì yêu
chúng con.
Cả những khi Cha mạnh tay cắt
tỉa,
cả những khi Cha thinh lặng
hay vắng mặt,
cả những khi Cha như chịu
thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là Cha toàn
năng nhân ái.
Con tin Cha không chịu thua
con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt thòi khi
dám sống cho Cha.
Con tin rằng nơi lòng những
người cứng cỏi nhất
cũng có một đốm lửa của sự
thiện,
được vùi sâu dưới những lớp
tro.
Chỉ một ngọn gió của tình
yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng
lên rạng rỡ.
Con tin rằng chẳng có giọt
nước mắt nào vô ích,
thế giới vẫn tồn tại nhờ hy
sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng chiến thắng cuối
cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm
ngự địa cầu.
Con tin rằng dòng lịch sử của
loài người và vũ trụ
đang chuyển mình tiến về với
Cha,
qua trung gian tuyệt vời của
Chúa Giêsu
và sức tác động mãnh liệt của
Thánh Thần.
Con tin rằng dần dần mỗi người
sẽ gặp nhau,
vượt qua mọi tranh chấp, bất
đồng,
mọi dị biệt, thành kiến,
để cùng nắm tay nhau đi qua
sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là nơi hạnh
phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin của
con.
Xin Cha cho con dám sống niềm
tin ấy. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao
Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
1 THÁNG TƯ
Thiên Chúa Của Tình
Yêu Vô Hạn
Bao nhiêu người trên
thế giới, bao nhiêu dân tộc, bao nhiêu truyền thống, bao nhiêu nền văn hóa, bao
nhiêu tôn giáo đã bảo vệ và tiếp tục bảo vệ hình ảnh của chính mình nghĩ ra về
Thiên Chúa?
Thiên Chúa là hữu thể
vô cùng hoàn hảo, là hữu thể tối cao và khôn dò; Ngài là Chủ Tể tuyệt đối của mọi
sự. Dường như chuyện Ngài trở thành con người là điều không thể được; cũng dường
như không thể được, chuyện Ngài hầu hạ và rửa chân cho các tông đồ, hoặc chuyện
Ngài có thể chết trên thập giá. Nhưng, đó là cái nhìn của con người.
Cái nhìn của Thiên
Chúa thì hoàn toàn khác. Nói một cách thật đơn giản: Thiên Chúa là tình yêu. Vì
Ngài là tình yêu, Ngài đã tạo thành con người theo hình ảnh Ngài và giống như
Ngài. Vì Ngài là tình yêu, Ngài đã thiết lập giao ước với con người. Vì Ngài là
tình yêu, Ngài đã trở thành con người. Thiên Chúa đã yêu thương thế giới đến nỗi
đã trao ban chính Con Một Ngài, để cho con người có thể đạt được sự sống đời đời
(Ga 3,16). Vì Ngài là tình yêu, Thiên Chúa đã chấp nhận con đường thập giá để
thứ tha tội lỗi nhân trần và để thiết lập giao ước mới – giao ước vĩnh cửu –
trong máu Ngài. Vì Ngài là tình yêu, Ngài đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể.
Tình yêu không nhắm gì
khác ngoài sự tốt lành mà nó khao khát muốn làm. Vì sự tốt lành này mà Đấng
Toàn Năng sẵn lòng trở nên yếu đuối như một con người, chấp nhận số phận chết
như một con người. Ngài sẵn lòng trở nên yếu đuối và bị nhai nuốt đi như tấm
bánh: “Này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì anh em. Anh em hãy làm việc này để tưởng
nhớ đến Thầy” (Lc 22,19).
Con người có thể chấp
nhận một Thiên Chúa chịu đóng đanh hay không? Con người có thể chấp nhận một
Thiên Chúa hiến tế hay không? Đó là câu hỏi được đặt ra ngay chính trung tâm của
Tam Nhật Thánh.
Hỏi – tức là đã trả lời.
Vâng, con người có thể chấp nhận hay từ chối vị Thiên Chúa của tình yêu vô hạn ấy.
Thật vậy, con người có thể quay lưng chống lại Thiên Chúa hay thậm chí phủ nhận
sự hiện hữu của Ngài. Nhưng còn Thiên Chúa, Ngài “không thể phủ nhận chính
Ngài” (2Tm 2,13). Ngài không thể thôi là chính Ngài! Ngài không thể thôi là
tình yêu!
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 01/4
Is 65, 17-21; Ga 4,
43-54.
LỜI SUY NIỆM: “Đức Giêsu bảo: ‘Ông cứ về đi, con ông sống.’ Ông tin vào lời Đức Giêsu
nói với mình, và ra về,”
Với cử chỉ vâng phục lời Chúa Giêsu của viên sĩ quan cận vệ nhà vua, khi ông đến
cầu xin Chúa Giêsu đến nhà ông để cứu chữa cho người con của ông sắp chết. Điều
này giúp cho mỗi người trong chúng ta học biết “Vâng phục của đức tin.” Bởi vì:
“Vâng phục bằng đức tin là tự nguyện quy thuận, bởi vì chân lý của lời đó được
Thiên Chúa là chính Chân lý, bảo đảm. Thánh Kinh trưng dẫn tổ phụ Apraham như
gương mẫu của sự vâng phục đó. Còn Đức Trinh Nữ Maria là người thể hiện sự vâng
phục đó cách hoàn hảo.” (GL 144).
Lạy Chúa Giêsu. Đức tin là sự đáp lại tình yêu thương của Chúa. Xin cho chúng
con biết dùng trí khôn và ý chí của chúng con quy phục Chúa một cách trọn vẹn.
Mạnh Phương
01 Tháng Tư
Tu Ðâu Cho Bằng Tu Nhà Thờ Cha Kính Mẹ Mới Là Ðạo Con
Dương Phủ sinh ra
trong một gia đình nghèo. Nhưng ông để hết tâm phụng dưỡng song thân.
Một hôm, ông nghe
nói bên đất Thục có ông Vô Tế đại sĩ. Dương Phủ bèn xin từ biệt song thân để đến
thụ giáo bậc hiền triết.
Ði được nửa đường,
ông gặp một vị lão tăng. vị lão tăng khuyên Dương Phủ: “Gặp được bậc Vô Tế chẳng
bằng gặp được Phật”.
Dương Phủ hỏi vặn lại:
“Phật ở đâu?”. Vị lão tăng giải thích: “Nhà ngươi cứ quay trở về, gặp người nào
mặc cái áo sắc như thế này, đi đôi dép kiểu như thế này thì chính là Phật đấy”.
Dương Phủ nghe lời
quay về nhà. Ði dọc đường, ông chẳng gặp ai như thế cả. Về đến nhà thì đã
khuya, Dương Phủ gõ cửa gọi mẹ. Người mẹ mừng rỡ, khoác chăn, đi dép ra mở cửa.
Bấy giờ, Dương phủ mới chợt nhận ra nơi mẹ mình hình dáng của Ðức Phật mà vị
lão tăng đã mô tả.
Từ đấy, Dương Phủ mới nhận ra rằng cha mẹ trong nhà chính là Phật.
Từ đấy, Dương Phủ mới nhận ra rằng cha mẹ trong nhà chính là Phật.
Thứ nhất thì tu tại
gia
Thứ hai tu chợ, thứ
ba tu chùa.
Tu đâu cho bằng tu
nhà
Thờ cha kính mẹ mới
là đạo con.
Ðể yêu thương con người
một cách trọn vẹn, Chúa đã trở thành một con người. Chúa có cha, có mẹ. Chúa
sinh ra trong một gia đình… Con người không chỉ được cứu rỗi một cách lẻ loi,
nhưng trong một gia đình. Con người cần có một gia đình để sinh ra, để lớn lên
và thành toàn… Tại Nagiaréth, Chúa đã lớn lên trong ân sủng và dáng vóc. Chúa
đã vâng phục Thánh Giuse và Mẹ Maria. Chúa đã học đọc, học viết và ngâm nga từng
câu kinh thánh với Mẹ Maria. Chúa cũng học cách sử dụng từng dụng cụ trong xưởng
mộc của Thánh Giuse.
Trong ba năm sống đời
công khai, ngôn ngữ vàcách suy nghĩ của Chúa phản ánh phần nào sự giáo dục mà
Chúa đã thụ hưởng nơi cha mẹ.
Xin Chúa thánh hóa tất
cả mọi gia đình Việt Nam. Xin Chúa ban cho bậc cha mẹ ý thức được trách nhiệm
giáo dục của họ. Xin Chúa ban cho con cái lòng hiếu thảo để biết vâng phục,
kính yêu và phụng dưỡng cha mẹ, nhất là trong lúc tuổi già của các ngài… Và xin
cho mọi gia đình Việt Nam luôn biết tranh đấu để bảo vệ sự hiệp nhất trong gia
đình và biến gia đình thành Giáo Hội nhỏ của Chúa.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina:
Gioan 4:43-54
Thứ Hai 1 Tháng Tư,
2019
Thứ Hai Tuần IV Mùa
Chay
1. Lời nguyện
mở đầu
Lạy Chúa, là Thiên
Chúa chúng con, Chúa Cha toàn năng,
Chúa muốn chúng con đừng
nhìn về quá khứ
Để hối tiếc và khóc
thương
Mà hy vọng vào tương
lai,
Trong đất mới và trời
mới.
Xin Chúa ban cho chúng
con một niềm tin vững chắc
Vào Con Chúa là Đức
Giêsu Kitô,
Xin Chúa đừng chấp nhặt
những thiếu sót của thời đại chúng con,
Xin cho chúng con có
được niềm tin vào tương lai,
Mà Chúa muốn chúng con
xây dựng
Cùng với Con Chúa, là
Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
2. Phúc Âm –
Gioan 4:43-54
Sau hai ngày, Chúa
Giêsu bỏ Samaria đi Galilêa. Chính Người đã nói: “Không vị tiên tri nào được
kính nể nơi quê hương mình”. Khi Người đến Galilêa, dân chúng ra đón tiếp Người:
Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ
cũng đi dự lễ.
Người trở lại Cana xứ
Galilêa, nơi Người đã biến nước thành rượu. Bấy giờ có một quan chức nhà vua ở
Caphárnaum có người con trai đang đau liệt. Được tin Chúa Giêsu đã bỏ Giuđêa đến
Galilêa, ông đến tìm Người và xin Người xuống chữa con ông sắp chết. Chúa Giêsu
bảo ông: “Nếu các ông không thấy những phép lạ và những việc phi thường, hẳn
các ông sẽ không tin”. Viên quan chức trình lại Người: “Thưa Ngài, xin Ngài xuống
trước khi con tôi chết”. Chúa Giêsu bảo ông: “Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi”.
Ông tin lời Chúa Giêsu nói và trở về. Khi xuống đến sườn đồi thì gặp gia nhân đến
đón, báo tin cho ông biết con ông đã mạnh. Ông hỏi giờ con ông được khỏi. Họ
thưa: “Hôm qua lúc bảy giờ cậu hết sốt”. Người cha nhận ra là đúng giờ đó Chúa
Giêsu bảo ông: “Con ông mạnh rồi”, nên ông và toàn thể gia quyến ông đều tin.
Đó là phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm khi Người ở Giuđêa về Galilêa.
3. Suy Niệm
– Chúa Giêsu đã rời đất Galilêa, và hướng về xứ
Giuđêa, để đi lên Giêrusalem trong dịp lễ (Ga 4:45) và, đi ngang qua vùng
Samaria, Người đang quay trở lại hướng về Galilêa (Ga 4:3-4). Người Do Thái
theo phong tục không được phép đi ngang qua vùng Samaria, và thậm chí họ không
thể giao thiệp với người Samaritanô (Ga 4:9). Chúa Giêsu đã không màng đến những
quy tắc ngăn trở tình bằng hữu và đối thoại. Người ở lại Samaria vài ngày và
nhiều người đã hoán cải (Ga 4:10). Sau đó, Chúa đã quyết định quay trở lại
Galilêa.
– Ga 4:43-46a: Chuyến trở về Galilêa. Mặc
dù Chúa Giêsu đã biết rằng người dân Galilêa đã có phần nào nghi ngại mình, Người
vẫn muốn trở về quê nhà của mình. Có lẽ, tác giả Gioan nói về việc Chúa Giêsu
đã bị đón tiếp, chấp nhận cách tệ bạc ra sao ở làng Nagiarét miền Galilêa.
Chính Chúa Giêsu đã thốt lên rằng: “Không một ngôn sứ nào được kính nể tại quê
hương mình” (Lc 4:24). Nhưng giờ đây, trước chứng cớ về những gì Người đã làm tại
Giêrusalem, người dân Galilêa đổi ý và đón tiếp Người nồng nhiệt. Sau đó Chúa
Giêsu trở lại Cana nơi mà Người đã làm “phép lạ” đầu tiên (Ga 2:11).
– Ga 4:46b-47: Lời cầu xin của vị quan chức
triều đình. Đây là trường hợp của một dân ngoại. Một thời gian ngắn trước đây, ở
Samaria, Chúa Giêsu đã nói chuyện với một người phụ nữ Samaritanô, một người dị
giáo đối với người Do Thái, người mà Chúa Giêsu đã mặc khải về việc Người là Đấng
Thiên Sai (Ga 4:26). Và giờ đây, tại Galilêa, Người đón nhận một người ngoại
giáo, viên quan của nhà vua, người đang cầu xin sự giúp đỡ cho người con đau liệt
của mình. Chúa Giêsu không hạn chế chỉ giúp đỡ cho những ai cùng dòng giống với
Người, cũng chẳng giới hạn vào những ai cùng tôn giáo với Chúa. Người có tinh
thần đại kết và chấp nhận tất cả mọi người.
– Ga 4:48: Câu trả lời của Chúa Giêsu cho vị quan của
nhà vua. Vị quan muốn Chúa Giêsu đi với ông ta về nhà để chữa bệnh cho con của
ông. Chúa Giêsu bảo ông: “Nếu các ông không thấy những phép lạ và những việc
phi thường, hẳn các ông sẽ không tin!” Một câu trả lời cay nghiệt và kỳ lạ. Tại
sao Chúa Giêsu lại trả lời theo cách này? Có điều gì sai trái với lời khẩn cầu
của viên quan đó không? Chúa Giêsu muốn đạt được điều gì qua câu trả lời này?
Chúa Giêsu muốn giảng dạy về đức tin của chúng ta phải như thế nào. Viên quan sẽ
chỉ tin nếu Chúa Giêsu đi cùng với ông đến nhà của ông ta. Ông muốn trông thấy
Chúa Giêsu chữa bệnh. Nói chung, đây là thái độ mà tất cả chúng ta đều có.
Chúng ta không ý thức được việc kém đức tin của chúng ta.
– Ga 4:49-50: Viên quan triều đình lặp lại lời khẩn cầu
của mình và Chúa Giêsu lặp lại câu trả lời. Mặc kệ câu trả lời của Chúa Giêsu,
viên quan đã không im lặng và vẫn lặp lại cùng một lời cầu xin: “Thưa Ngài, xin
Ngài xuống trước khi con tôi chết!” Chúa Giêsu vẫn tiếp tục giữ lập trường cùa
mình. Người không đáp ứng lời cầu xin và không đi với viên quan về nhà ông ta
và lặp lại cùng một câu trả lời, nhưng được trình bày theo một cách khác: “Ông
hãy về đi, con ông mạnh rồi”. Cả hai lần trả lời, lần thứ nhất cũng như lần thứ
hai, Chúa Giêsu đòi hỏi đức tin, đức tin mạnh mẽ. Người đòi hỏi viên quan phải
tin rằng con ông đã được khỏi bệnh. Và phép lạ thực sự đã xảy ra! Không nhìn thấy
bất kỳ phép lạ nào, cũng chẳng có điềm báo, người ấy tin vào lời của Chúa Giêsu
và trở về nhà. Điều đó không phải là dễ dàng. Đây chính là phép lạ thực sự của
đức tin; tin mà không có bất kỳ một lời bảo đảm nào khác, ngoại trừ Lời của
Chúa Giêsu. Lý tưởng là tin vào Lời của Chúa Giêsu, ngay cả khi không thấy (xem
Ga 20:29).
– Ga 4:51-53: Kết quả của lòng tin vào Lời của Chúa
Giêsu. Khi viên quan đang trên đường trở về nhà mình, gia nhân của ông trông thấy
ông và chạy ra đón để báo tin cho ông biết rằng con ông đã được mạnh khỏe, rằng
con ông còn sống. Ông hỏi họ giờ giấc con ông được khỏi và khám phá ra rằng đó
chính là lúc mà Chúa Giêsu bảo ông: “Con ông mạnh rồi!” Ông đã được củng cố
trong lòng tin của mình.
– Ga 4:54: Bản tóm lược được trình bày bởi Thánh Sử
Gioan. Gioan kết luận bằng câu nói: “Đó là dấu lạ mới, dấu lạ thứ hai Chúa
Giêsu đã làm”. Gioan ưa nói về dấu lạ hơn là nói về phép lạ. Chữ dấu lạ gợi nhớ
lại điều gì đó tôi nhìn thấy với đôi mắt của mình, nhưng chỉ có đức tin mới có
thể cho tôi khám phá ra ý nghĩa sâu xa của nó. Đức tin giống như tia quang tuyến
X: nó làm cho người ta khám ra những gì mắt trần không thể thấy.
4. Một vài
câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
– Bạn sống đời sống đức tin của mình như thế nào? Bạn
có lòng tin vào Lời Chúa hay bạn chỉ tin vào các phép lạ và các kinh nghiệm cảm
được từ giác quan?
– Chúa Giêsu chấp nhận những người lạc giáo và ngoại kiều.
Còn tôi, tôi đối xử với những người ấy như thế nào?
5. Lời nguyện
kết
Hỡi những kẻ tín
trung, hãy đàn ca mừng CHÚA,
Cảm tạ thánh danh Người.
Người nổi giận, giận
trong giây lát,
Nhưng yêu thương,
thương suốt cả đời.
Lệ có rơi khi màn đêm
buông xuống,
Hừng đông về đã vọng
tiếng hò reo.
(Tv 30:4-5)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét