Trang

Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2019

21-04-2019 : (phần II) CHÚA NHẬT PHỤC SINH năm C


21/04/2019
Chúa Nhật PHỤC SINH năm C
(phần II)


Phụng Vụ Lời Chúa: Chúa nhật Phục sinh năm C
(Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9)
TIN VÀ LÀM CHỨNG CHO ĐỨC TIN
“Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào.
Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8)
Đức Kitô Phục Sinh làm đảo lộn cuộc sống của các môn đệ, đem lại sự sống mới cho các Kitô hữu và thay đổi trật tự thế giới này. Thật phúc cho những ai tin vào Người là Đấng đã chết, đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Thật cao cả cho những ai sẵn sàng dùng chính đời sống của mình để làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh.
I. CÁC BÀI ĐỌC:
1. Bài đọc 1:
Diễn từ của thánh Phêrô tại nhà của ông Conêliô có thể được xem như một bảng tóm tắt cuộc đời và sứ vụ của Chúa Giêsu, bắt đầu từ Galilê cho đến cái chết tại Giêrusalem và đỉnh cao là cuộc phục sinh của Người. Người chính là đối tượng rao giảng của các môn đệ.
Trước hết, thánh Phêrô nói về Đức Giêsu như là một con người thật sự, xuất thân từ Nadarét, miền Galilê. Sau khi chịu phép rửa bởi ông Gioan (x. Lc 3,21-22; Mt 3,13-17), Đức Giêsu được Thiên Chúa xức dầu tấn phong, với quyền năng và Thánh Thần (x. Lc 3,22; 4,1.14) để “thi ân giáng phúc” và “chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế” (Cv 10,38). Dẫu không làm gì nên tội nhưng Người lại bị kết án và giết chết, nhưng rồi ngày thứ ba lại được Thiên Chúa cho sống lại. Như vậy, lời chứng của thánh Phêrô xác quyết về mầu nhiệm nhập thể, sứ vụ rao giảng, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu.
Sau nữa, Đức Kitô Phục Sinh hiện ra với các môn đệ, ăn uống với họ (x. Lc 24,30.36-43) và sai họ đi rao giảng và làm chứng về Người (x. Lc 24,46-48), rằng “Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết” và những ai tin vào Người thì sẽ được ơn tha tội (x. Cv 10,42-43). Như vậy, Đức Kitô Phục Sinh chính là đối tượng mà các môn đệ phải rao giảng và làm chứng, để tất cả những ai tin vào Đức Giêsu, Đấng đã chết và đã phục sinh, thì sẽ được cứu độ, được giải thoát khỏi tội lỗi (x. Lc 1,77).
2. Bài đọc 2:
Tác giả thư Côlôsê nói về tác động của Đức Kitô Phục Sinh nơi đời sống của các Kitô hữu trong hiện tại trong khi chờ đợi Đức Kitô lại đến trong ngày quang lâm.
Qua bí tích Rửa Tội, các Kitô hữu “được trỗi dậy cùng với Đức Kitô” (Cl 3,1a), nghĩa là được giải thoát khỏi ách nô lệ của tội nguyên tổ, tội dẫn đến cái chết, mà mặc lấy sự sống mới của Đức Kitô Phục Sinh. Vì thế, các Kitô hữu được khích lệ hãy “hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới”, nghĩa là những gì cao đẹp, thánh thiện và công chính.
Hơn nữa, dù đã được “trỗi dậy cùng với Đức Kitô” nhưng các Kitô hữu vẫn chưa cảm nếm được trọn vẹn sự sống mới vì sự sống đó vẫn đang tiềm tàng bao lâu họ còn sống ở đời này. Chỉ khi nào Đức Kitô, nguồn sống đích thực, xuất hiện trong ngày quang lâm, các Kitô hữu mới được hiệp thông trọn vẹn với sự sống viên mãn và được chia sẻ vinh quang phục sinh của Người cách tròn đầy.
3. Bài Tin Mừng:
Tin tức về ngôi mộ trống gây chấn động, hoang mang, nghi ngờ cho cả những môn đệ thân tín nhất của Đức Giêsu. Nhưng cũng chỉ với những dấu chỉ ban đầu ấy, người môn đệ với lòng mến lớn hơn đã tin.
Đối với bà Maria Mácđala, “tảng đá đã lăn ra khỏi mộ” để lại một ngôi mộ trống là dấu chỉ của việc “người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ” (Ga 20,2). Đó là một phán đoán tức thời và hợp lý. Việc bà tức khắc chạy đi báo cho ông Phêrô, vị tông đồ trưởng, cũng là một chọn lựa phù hợp trong hoàn cảnh mà mọi người vẫn chưa hết bàng hoàng sau cái chết của Đức Giêsu. Vì lòng yêu mến, bà đã sốt sắng đi thăm mộ từ sáng sớm, nhưng những gì bà thấy chỉ làm bà hoang mang thêm vì “chẳng biết người ta để Người ở đâu”.
Đối với ông Phêrô, cái chết của Thầy là một cú sốc quá lớn đối với ông, nhất là khi ông đã không đủ can đảm để nhận mình là môn đệ của Thầy trong giây phút Thầy bị bắt. Vì thế, tin tức về ngôi mộ trống thôi thúc ông tức khắc chạy ra mộ nhanh nhất có thể. Dù ông là người “vào thẳng trong mộ”, “thấy những băng vải” và “khăn che đầu Đức Giêsu”, nhưng chừng đó là chưa đủ để ông có thể tin vào Đức Kitô Phục Sinh. Là người đứng đầu, có lẽ ông thận trọng. Là người lý trí, chắc ông đang tìm câu trả lời hợp lý nhất có thể, nhưng chưa thể xác tín vào Đức Kitô Phục Sinh lúc này.
Còn đối với “người môn đệ Đức Giêsu thương mến”, tin tức về “tảng đá đã lăn ra khỏi mộ” chưa thể giúp ông hiểu được ngay rằng “theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20,9; 1 Cr 15,4; x. Tv 16,10; Hs 6,2), nhưng những gì mà ông thấy trong ngôi mồ trống, với băng vải và khăn che đầu không để lẫn nhưng được cuộn lại và xếp riêng ra một nơi (x. Ga 20,6-7), đã là những dấu chỉ để ông “tin” (Ga 20,8). Ông tin không phải vì có đầy đủ bằng chứng chắc chắn mà tin vì xác tín rằng Đấng mà ông yêu mến không thể chết, nhất là không thể chết trong lòng ông. Ông tin vì lòng yêu mến.
Người môn đệ Đức Giêsu thương mến tin mà không đòi hỏi bằng chứng chắc chắn và rõ ràng như ông Tôma (x. Ga 20,24-28). Ông là hiện thân cho những người được phúc vì “không thấy mà tin” (Ga 20,29).
II. GỢI Ý ÁP DỤNG:
1/ Thánh Phêrô làm chứng cách hùng hồn rằng Đức Giêsu là một con người lịch sử xuất thân từ Nadarét, nhưng đồng thời cũng là Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong để thi ân giáng phúc và loại trừ ma quỷ. Người đã bị kết án, giết chết nhưng sau ba ngày đã sống lại. Người chính là đối tượng của lời rao giảng và chứng tá của các môn đệ, để những ai tin vào Người thì được sự sống đời đời (x. Ga 3,16.36). Đức Kitô Phục Sinh chính là nền tảng đức tin của người Kitô hữu, một đức tin cần được thể hiện qua đời sống chứng tá.
2/ Đức Kitô Phục Sinh mở ra một chân trời mới cho đời sống các Kitô hữu. Tuy vậy, họ vẫn chưa được hưởng trọn vẹn những hiệu quả của sự sống mới nơi Đức Kitô Phục Sinh bao lâu còn sống trong kiếp người. Sự sống đang tiềm tàng nơi các Kitô hữu nhờ bí tích Rửa Tội sẽ đạt đến sự sống viên mãn khi Đức Kitô trở lại vào ngày quang lâm. Trong khi chờ ngày đó, các Kitô hữu được mời gọi sống trung tín với Đức Kitô, Đấng đã chết và sống lại cho họ.
3/ Ngôi mộ trống, đối với bà Maria Mácđala, là dấu chỉ của sự buồn bã vì người ta đã lấy mất xác Chúa; đó là dấu chỉ gây ra sự hoang mang đối với ông Phêrô, nhưng đối với người môn đệ Chúa yêu mến thì đó lại là dấu chỉ chắc chắn sự hiện diện của Thầy, vì trong lòng ông, hình ảnh của Thầy chưa bao giờ nhạt phai. Thầy vẫn tiếp tục sống, trong lòng ông và qua những dấu chỉ bình thường nhất. Nếu được nhìn trong lăng kính của lòng yêu mến thì mỗi dấu chỉ, dù đơn sơ và bình thường, cũng đều có thể là chỉ dấu cho thấy sự hiện diện sống động của Đức Kitô Phục Sinh trong cuộc sống của mỗi Kitô hữu hôm nay.
III. LỜI NGUYỆN CHUNG:
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa Cha đã cho Đức Giêsu Kitô chỗi dậy từ trong cõi chết nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần; nơi Người, chúng ta được tái sinh và đón nhận sức sống mới. Trong niềm hân hoan mừng Chúa sống lại, cộng đoàn chúng ta cùng tôn vinh chúc tụng Chúa và dâng lời cầu nguyện.
1. Người môn đệ được Chúa yêu “đã thấy và đã tin.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội Thánh luôn vững tin vào mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, và nhiệt tâm loan báo tin mừng Phục Sinh cho con người hôm nay bằng lời rao giảng, đời sống cầu nguyện và gương sáng đức tin của mình.
2. “Tất cả những ai tin vào Đức Kitô, thì nhờ danh Người mà được tha tội.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi dân tộc trên thế giới được nghe loan báo về Đức Kitô phục sinh và tin nhận Người là “khởi nguyên và cùng đích”, để tất cả mọi người luôn sống trong tin yêu hy vọng hướng về hạnh phúc đời đời.
3. Đức Kitô phục sinh là niềm hy vọng và an ủi cho những ai u sầu thất vọng. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những người đang đau khổ hồn xác được tham dự vào niềm vui của mầu nhiệm phục sinh, để họ có thêm can đảm đón nhận và vác thập giá trong đời sống hàng ngày mà bước theo Chúa.
4. “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người tham dự cử hành phụng vụ hôm nay được lãnh nhận dồi dào ân sủng của Chúa phục sinh, biết làm sống động đức tin của mình qua đời sống đạo nhiệt thành, trở nên men muối cho đời, và ánh sáng cho trần gian.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Đấng hằng sống, Con Chúa đã chịu chết và sống lại để cứu độ chúng con. Xin nhậm lời chúng con cầu nguyện, và cho ân sủng cùng niềm vui phục sinh biến đổi chúng con trở nên những con người mới. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

LỄ PHỤC SINH
Năm C
CHỦ ĐỀ :
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI RỒI

Sợi chỉ đỏ :
Những lời chứng về việc Chúa Giêsu sống lại :
– Bài đọc I (Cv 10,34a.37-43) : Lời chứng của Thánh Phêrô
– Tin Mừng (Ga 20,1-9) : Lời chứng của Thánh Gioan tông đồ
– Bài đọc II (Cl 3,1-4 ; hoặc 1 Cr 5,6-8) : Lời chứng của Thánh Phaolô
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Lễ Phục sinh là lễ lớn nhất của năm Phụng vụ. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, không phải chỉ cho Ngài mà còn cho tất cả chúng ta. Tất cả chúng ta hãy mở rộng cõi lòng để đón nhận niềm vui to lớn này.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúa sống lại có nghĩa là sự thiện chắc chắn chiến thắng sự ác. Chúng con xin Chúa tha thứ vì đã không tin điều ấy.
– Chúa sống có nghĩa là ân sủng chắc chắn chiến thắng tội lỗi. Chúng con xin Chúa tha thứ vì đã không tin điều ấy.
– Chúa sống có nghĩa là tình thương chắc chắn chiến thắng hận thù. Chúng con xin Chúa tha thứ vì đã không tin điều ấy.
III. LỜI CHÚA
  1. Bài đọc I(Cv 10,34.37-43)
Tại nhà ông Cornêliô ở Xêdarê, Thánh Phêrô đã tóm lược sứ vụ của Chúa Giêsu. Cao điểm của sứ vụ này là việc Ngài chịu chết và sống lại. Nhưng như thế chưa phải là hết : việc Chúa sống lại có ảnh hưởng đến mọi người : “Ai tin vào Ngài thì sẽ nhờ danh Ngài mà được ơn tha tội”. Vì thế các tông đồ phải làm chứng và loan truyền Tin Mừng ấy.
2.                  Đáp ca(Tv 117)
Ca tụng Thiên Chúa vì tình thương mà làm những việc diệu kỳ, nhất là đã làm cho Chúa Giêsu, “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường”
3.                  Tin Mừng(Ga 20,1-9)
Bằng cách viết rất súc tích với những ý tưởng sâu sắc chứa đựng trong những chi tiết được chọn lựa rất kỹ, Thánh Gioan muốn mô tả hành trình đức tin của 3 nhân vật trong bài tường thuật này : Maria Mađalêna, Phêrô và “người môn đệ kia” (tức tông đồ Gioan).
– Khi ấy là “sáng sớm khi trời còn tối” : họ vẫn còn ở trong đêm tối chưa hiểu được mầu nhiệm Chúa Giêsu, nhưng đã là lúc sáng sớm rồi, bình minh sắp tỏa sáng.
– “Chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu” : “địa chỉ” của Chúa Giêsu là một điều được Tin Mừng Ga lưu ý nhiều lần. Ngay từ đầu quyển Tin Mừng, hai môn đệ đầu tiên đã hỏi “Thưa Thầy, Thầy ở đâu ?” (1,38). Đến phần cuối quyển Tin Mừng, câu hỏi “Thầy ở đâu ?” lại được lặp lại. Các môn đệ Chúa Giêsu luôn muốn biết “địa chỉ” của Ngài.
– Cả 3 nhân vật trong chuyện này đều “chạy” : Mađalêna chạy tìm Simon-Phêrô, ông này cùng với Gioan “cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn”. Họ “chạy” để làm chi ? Để tìm đến “địa chỉ” Chúa Giêsu. Đây là cuộc hành trình của đức tin.
– Thiên Chúa đã đặt sẵn những dấu chỉ giúp họ tìm, đó là ngôi mộ trống, những khăn vải liệm còn đó được xếp gọn gàng và những lời tiên báo của Thánh Kinh. Nhưng chỉ một mình “môn đệ kia” đã đọc được ý nghĩa của những dấu chỉ ấy nên “đã thấy và đã tin”. Gioan đã tìm được “địa chỉ” của Chúa Giêsu. Thực ra, nhiều lần Chúa Giêsu đã ám chỉ đến “địa chỉ” này (“Thầy về cùng Cha Thầy” : xem Ga 7,33-34 8,21 13,33) nhưng các môn đệ vẫn chưa hiểu. Hôm nay Gioan đã hiểu : Chúa Giêsu đã sống lại và về cùng Thiên Chúa.
4.                  Bài đọc II(Cl 3,1-4 ; hoặc 1 Cr 5,6-8)
Vì được thông phần vào sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, kitô hữu phải sống một đời sống mới.
IV. GỢI Ý GIẢNG
  1. Tôi tin kính Chúa Giêsu Kitô
Đức tin của chúng ta thường có tính cách “quy thần”, nghĩa là tin có Thiên Chúa, Đấng tạo dựng trời đất muôn vật ; và Thiên Chúa ấy chúng ta chỉ biết được khi linh hồn chúng ta rời khỏi thân xác này. Một đức tin như thế thì vừa lý thuyết vừa tĩnh.
Dưới ánh sáng phục sinh, chúng ta phải làm cho đức tin trở thành sống và động ; đồng thời chúng ta phải làm chứng về đức tin sống động ấy cho những người chỉ có một đức tin vừa lý thuyết vừa tĩnh như đã nói trên. Nhưng làm thế nào ?
Thưa chúng ta phải tập tin vào Chúa Giêsu Kitô :
– Tin vào Chúa Giêsu Kitô là tin vào Đấng đã chịu nạn chịu chết và sống lại, như Thánh Gioan tông đồ (bài Tin Mừng). Thánh Gioan đã nhìn thấy ngôi mồ trống và đã tin. Khi đó đức tin của Gioan mang một chiều kích mới hẳn : Thiên Chúa của Thánh Kinh không còn là một Thiên Chúa của quá khứ nữa mà đã trở thành “Đức Chúa”, “Thiên Chúa của sự sống”, luôn hiện diện trong lịch sử. Một Thiên Chúa như thế luôn có ý nghĩa với cuộc đời con người : cho dù Ngài đã chịu nạn chịu chết nhưng Ngài đã sống lại. Ngài đã chiến thắng đau khổ và sự chết. Từ nay đau khổ và chết chóc không phải là những chuyện phi lý nữa. Từ nay chúng ta cứ bước theo Ngài thì sẽ đi qua được mọi khổ đau chết chóc để đến sự sống.
– Tin vào Chúa Giêsu Kitô cũng là tin vào mầu nhiệm cuộc sống của chính chúng ta : nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta có một sự sống mới, “và sự sống mới ấy hiện đang tiềm tàng với Chúa Giêsu Kitô nơi Thiên Chúa” (Bài đọc II), vì thế chúng ta “hãy hướng lòng về những gì thuộc thượng giới”.
2.                  Đi thăm mộ
Sáng Chúa nhật Phục sinh, các phụ nữ đi đến ngôi mồ đã chôn xác Chúa Giêsu. Họ đến đấy để ướp xác Ngài. Nhưng đó không phải là lý do duy nhất. Họ còn muốn được ở gần Đấng đã từng làm cho đời họ tràn đầy ý nghĩa, nhưng bây giờ cái chết của Ngài lại khiến lòng họ tràn ngập nỗi u sầu không gì an ủi được.
– Chúng ta cũng thường làm như các bà ấy. Khi một người thân yêu của chúng ta chết, chúng ta khó chấp nhận rằng người ấy đã vĩnh viễn xa cách chúng ta. Vì thế chúng ta thấy cần phải duy trì một sự liên kết nào đó với người đã chết. Và một trong những cách chúng ta có thể làm, đó là đi thăm mộ. Tuy nhiên việc này chẳng những không làm dịu đi nỗi đau bị mất mát, mà còn khiến mình càng thấy mất mát hơn, bởi vì không nơi nào khiến ta ý thức về cái chết của người thân cho bằng nơi chôn cất người thân ấy.
Sáng hôm ấy, nếu mọi sự diễn ra đúng như các bà dự kiến thì các bà đã ướp xác Chúa Giêsu, xong rồi lắp của mồ lại, rồi trở về nhà với cõi lòng nặng trĩu u sầu vì các bà càng ý thức rằng những chuyện khủng khiếp xảy ra hôm Thứ Sáu không phải chỉ là một giấc mơ mà là một sự thật : Thầy của họ đã chết thật rồi !
Tuy nhiên mọi sự không xảy ra như dự kiến. Khi đến mộ, các bà đã gặp hai thiên thần. Các vị ấy bảo “Sao các bà lại tìm người sống nơi cõi chết ? Ngài không còn ở đây, Ngài đã sống lại”. Nghĩa là các bà đừng mất thời giờ để tìm Chúa Giêsu ở ngôi mộ nữa.
– Tất cả chúng ta thường cảm thấy tuyệt vọng khi đứng trước những nấm mồ, vì ở đó mọi sự đều nói lên chết chóc. Tuy nhiên chính ở một ngôi mộ như thế mà lần đầu tiên tin mừng sống lại được loan báo. Chúa đã chọn một nơi thật thích hợp, nơi mà xem ra sự chết thống trị, để loan báo Tin Mừng phục sinh.
Phụng vụ hôm nay cũng gởi đến chúng ta một sứ điệp tương tự : Đừng tìm kiếm những kẻ thân yêu của mình nơi những nấm mồ, vì họ chẳng có ở đó đâu. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, không chỉ cho bản thân Ngài mà cho tất cả mọi người chúng ta. Ngài là Đấng đầu tiên sống lại, và chúng ta cũng sẽ sống lại như Ngài. Như thế, đối với Kitô hữu thì sự chết không phải là tiếng nói cuối cùng. Người thân quá cố của chúng ta không chết, mà vẫn còn sống. Cuộc sống của họ còn thực và đẹp hơn cả cuộc sống hiện tại của chúng ta nữa. Hơn nữa họ không hề xa cách chúng ta. Những ai đã chết trong ân sủng thì khoảng cách giữa họ với chúng ta không xa hơn khoảng cách giữa Thiên Chúa với chúng ta. Mà Thiên Chúa thì rất gần với chúng ta. (FM)
3.                  Kỷ nguyên cứu rỗi
Một bề trên tu viện Công giáo đến tìm một ẩn sĩ ấn giáo tại chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Ông lo âu trình bày về tình trạng bi đát của tu viện.
Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân khắp nơi tuôn đến. Nhà dòng không còn chỗ nhận thêm người xin gia nhập. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ thì leo teo mấy người. Cuộc sống thật là buồn tẻ…
Vị bề trên hỏi tu sĩ ấn giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã dưa tu viện tới tình trạng trên đây. Tu sĩ ấn giáo ôn tồn bảo :
– Tội của cộng đoàn đó là tội vô tình.
Và ông giải thích :
– Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quí vị, nhưng quí vị không nhận ra Người.
Từ đó, mọi người đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu bầu khí yêu thương huynh đệ thấm thiết, sức sống mới nảy sinh, và niềm vui tràn ngập tu viện. Khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện tĩnh tâm cầu nguyện. Nhiều bạn trẻ lại đến xin gia nhập cộng đoàn.
*
“Sao các bà lại tìm người sống giữa kẻ chết ? Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi” (Lc 23,5-6). Buổi sáng Phục Sinh đầu tiên, Chúa Giêsu đã vinh thắng ra khỏi mộ tối, để mở đầu cho một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu rỗi. Người đã hiện ra với Mađalêna, với Phêrô, với hai môn đệ trên đường Emmau, với các môn đệ “đang “tập họp trong nhà cửa đóng kín,” – trên bờ biển Tibêria. Và Người” vẫn còn hiện diện giữa chúng ta, những kẻ “tin vào” Người,” ở mọi nơi, trong mọi thời đại. Đó là một Tin vui không chỉ cho thành Giêrusalem mà còn cho toàn thế giới.
Tin vui chính là Chúa Giêsu Phục Sinh, ánh sáng rạng ngời, đã xoá tan bóng tối của tử thần và tội lỗi, để dẫn đưa con người bước vào miền ánh sáng sự sống.
Tin vui chính là Chúa Giêsu Phục sinh luôn hiện diện giữa những kẻ tin Người sống lại để mang lại cho họ niềm vui và an bình trong cuộc sống mới.
Nếu ngôi mộ tối đã không thể giam giữ Chúa Giêsu Phục sinh, và xiềng xích của sự chết đã bị Người bẻ gãy, thì không còn gì có thể tiêu diệt chúng ta được. Thánh Phaolô viết : “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ gươm giáo ?” (Rm 8,35).
Vì thế,
Sống niềm vui Phục Sinh chính là chết đi cho tội lỗi để sống lại với Chúa trong đời sống mới, đời sống Phục Sinh.
Sống niềm vui Phục Sinh chính là tin rằng Chúa đã sống lại và đã cứu thoát chúng ta khỏi vòng tội lỗi, nên chúng ta hãy đặt niềm tin và hy vọng nơi Người.
Sống niềm vui Phục Sinh chính là sống vui tươi, an bình và yêu thương trong sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục Sinh.
Cộng đoàn tu viện trong câu chuyện kể trên chỉ tìm được bầu không khí yêu thương và niềm vui huynh đệ khi mà mọi người nhận ra Đấng Cứu Thế đang ở giữa họ, trong người anh em.
*
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vượt qua khổ nạn và cái chết để Phục Sinh về với Chúa Cha. Xin cho chúng con biết : Vượt qua ích kỷ nhỏ nhen để quảng đại yêu thương. Vượt qua tự ái, tự kiêu để tha thứ bao dung. Vượt qua đau khổ, cực nhọc để dấn thân hy sinh.
Ước gì cuộc sống chúng con luôn mãi tràn đầy niềm vui và bình an của Chúa Phục Sinh. Amen. (TP)
4.                  Mầu nhiệm Vượt qua
Cao điểm của năm Phụng vụ là Tuần Thánh vì có rất nhiều lễ nghi, giáo dân tham dự đông đảo và sốt sắng. Hôm nay thì Tuần thánh đã qua đi rồi. Nhưng chúng ta hãy nhìn lại một trong những lễ nghi phong phú ý nghĩa của Tuần Thánh, đó là ngọn nến phục sinh.
Trong đêm thứ Bảy Tuần Thánh, lúc mới bắt đầu nghi lễ thì mọi đèn nến trong sân nhà thờ đều tắt hết, bóng tối bao trùm tất cả. Thế rồi Chủ Tế lấy lửa từ một bếp than châm vào ngọn nến phục sinh. Một tia sáng nhỏ loé lên trong đêm tối. Tiếp đó ánh sáng từ ngọn nến Phục sinh lại được châm vào những ngọn nến của các tín hữu. Ánh sáng tỏa lan dần, và cuối cùng mọi đèn nến đều sáng rực. Ánh sáng đã hoàn toàn đẩy lui bóng tối.
Hình ảnh này rất đẹp, và nhất là chứa đựng một ý nghĩa sâu sắc :
– Bóng tối không thể nào thắng được ánh sáng.
– Ma quỷ không thể nào thắng được Thiên Chúa.
– Sự ác không thể nào thắng được sự thiện.
Đó chính là một chân lý mà các lễ nghi Tuần Thánh muốn soi sáng cho chúng ta. Khi Chúa Giêsu chết thì tưởng như bóng tối, quyền lực ma quỷ và sự ác đã hoàn toàn chiến thắng. Thế nhưng không phải như vậy, Chúa Giêsu đã sống lại. Nghĩa là ánh sáng đã chiến thắng tối tăm, Thiên Chúa đã chiến thắng Satan, và sự thiện đã chiến thắng sự ác.
Sự thật này không phải chỉ đúng cho một mình Chúa Giêsu mà còn đúng cho tất cả mọi người chúng ta nữa. Bởi vì Chúa Giêsu đi vào cuộc chịu nạn, chịu chết và sống lại là trong tư cách Ngài là đại diện của loài người, Ngài là trưởng tử của tất cả mọi người, là hoa trái đầu mùa. Ngài chiến thắng nghĩa là dọn đường cho tất cả chúng ta chiến thắng. Bởi thế, tất cả chúng ta đều có thể cùng với Chúa Giêsu mà lạc quan tin tưởng rằng sau cùng rồi mọi sự ác sự dữ đều sẽ bị đánh bại.
Chính vì thế mà trong khi các tín hữu Rôma đang phải lao đao khốn đốn vì những cuộc bách hại, thánh Phêrô đã gởi thư cho họ nói rằng “Anh em hãy vui mừng mặc dù còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Thực ra những thử thách đó chỉ nhằm tinh luyện đức tin của anh em, cũng như lửa thử vàng vậy” (1Pr.1,3-9).
Còn thánh Phaolô, đang lúc phải ngồi tù mà đã viết thư cho giáo đoàn Philip rằng : “Anh em hãy vui lên. Tôi không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng anh em hãy vui mừng luôn trong Chúa” (Pl.3,1).
Trong đêm thứ Bảy Tuần Thánh vừa qua, chúng ta đã thấy rất đông người lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức. Trong số những người đó, có nhiều người hồi trước hầu như bỏ đạo ; vì nghèo quá, khổ quá, gặp thử thách nặng quá nên họ đã chán nản. Nhưng vì trong lòng họ còn một chút ánh sáng đức tin, họ đã không buông trôi. Thế rồi dần dần những khó khăn của họ được tháo gỡ, họ đã quay trở lại với Chúa, và trong đêm đó họ đã vui mừng đứng trong vùng ánh sáng chan hòa của Chúa. Bóng tối không thể nào thắng được ánh sáng.
Trong cuộc đời của chúng ta, có nhiều lúc chúng ta thấy mình quá yếu đuối tội lỗi nên chúng ta ngã lòng muốn buông trôi luôn, có nhiều lúc chúng ta thấy mình bị ác tâm và tội lỗi của kẻ xấu tấn công mạnh quá nên bị nhận chìm trong tăm tối mênh mông… những lúc đó chúng ta chán nản vô cùng. Nhưng mầu nhiệm Chúa Giêsu phục sinh dạy cho chúng ta rằng đừng nên ngã lòng bởi vì cuối cùng thì ánh sáng sẽ luôn chiến thắng, sự thiện sẽ luôn chiến thắng sự ác.
Bởi đó từ đêm lễ phục sinh, Giáo hội hân hoan cất tiếng hát Alleluia, hãy tạ ơn Thiên Chúa. Tiếng hát Alleluia ấy vẫn tiếp tục cất lên trong suốt năm Phụng vụ để nhắc mọi người tín hữu hãy luôn sống lạc quan.
Xin cho chúng ta đừng bao giờ ngã lòng thất vọng.
Xin cho chúng ta luôn luôn tin tưởng vào mầu nhiệm phục sinh.
Xin cho cuộc đời chúng ta lúc nào cũng đầy tràn tiếng hát Alleluia.

5.                  Lăn tảng đá ra khỏi mộ
Khi các phụ nữ đang trên đường đến mộ Chúa Giêsu, họ băn khoăn tự hỏi “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi mộ Chúa đây ?”
Sau một trận cãi vả với cha mình, một người kia không thèm nói chuyện với cha nữa. Nhà của hai cha con chỉ cách nhau một quãng ngắn ngủi, nhưng họ không đến thăm nhau và chẳng hề nói với nhau tiếng nào trong nhiều năm dài. Người mẹ thì đã bỏ nhà ra đi từ lâu. Do đó người cha phải sống một mình trong cô độc lẻ loi. Thế giới của ông ngày càng thu hẹp lại, bầu trời của ông ngày càng u ám hơn. Tuy ông chưa chết, nhưng có thể nói ông đang bị chôn trong mồ rồi.
Chúng ta ngạc nhiên vì quyền phép Chúa Giêsu đã làm cho kẻ chết sống lại. Nhưng chúng ta có biết rằng chính chúng ta cũng có thể làm được như thế không ? Có thể lắm chứ. Như người con trong câu chuyện trên. Anh có thể lăn tảng đá ra khỏi nấm mộ của cha anh bằng cách đến thăm ông, nói chuyện với ông. Làm như thế tức là lại mở rộng thế giới của ông và lại làm cho bầu trời cuộc sống của ông trở nên tươi sáng. (FM)
6.                  Lễ Phục sinh và vấn đề đau khổ
Mừng lễ Phục sinh nhưng chúng ta vẫn còn cảm nhận những đau khổ, đau khổ của bản thân và đau khổ của tha nhân.
Tuy nhiên một yếu tố mới đã phát sinh. Nó không làm đau khổ biến mất, nhưng mang lại cho đau khổ một ý nghĩa và chiếu lên đau khổ một ánh sáng hy vọng.
Mọi sự đã đổi khác rồi, vì Chúa Giêsu vẫn còn sống và nói cho chúng ta nghe những lời bình an.
Ngài đã bẻ gảy quyền lực của sự chết và ban cho chúng ta hy vọng sự sống muôn đời.
Bởi thế, dù vẫn sống giữa những khổ đau, trong lòng chúng ta đã có một niềm vui âm thầm và một cảm giác bình an sâu lắng.
Lạy Chúa, xin ân sủng Chúa bảo vệ niềm hy vọng này, và làm cho niềm hy vọng ấy được thực hiện trọn vẹn trong Nước Chúa trên trời.
7.                  Bài giảng của Thánh Gioan Kim Khẩu(+ 407)
Tôi sẽ giải thích cho các bạn thế nào về những sự kín nhiệm ? Tôi sẽ công bố thế nào về điều vượt quá mọi ngôn ngữ và mọi trí hiểu ? Tôi phải làm thế nào cho các bạn biết về mầu nhiệm Chúa sống lại ? Thập giá của Ngài là một mầu nhiệm, và việc Ngài chết 3 ngày cùng với những điều xảy đến cho Ngài đều là mầu nhiệm.
Thật vậy, Ngài đã được sinh ra từ cung lòng vẹn sạch của Đức Trinh Nữ như thế nào, thì Ngài cũng được sống lại từ ngôi mồ đóng kín như thể ấy. Con Một Thiên Chúa đã trở thành con đầu lòng sinh bởi một người mẹ thế nào, thì Chúa Giêsu phục sinh cũng trở thành kẻ sống lại đầu tiên của loài người như thể ấy. Hơn nữa, cũng như việc Ngài sinh ra không làm mất đi sự đồng trinh của Đức Mẹ thế nào, thì việc Ngài sống lại cũng chẳng phá vỡ những dấu ấn của ngôi mồ thế ấy. Tôi không biết dùng lời lẽ nào để nói về sự sinh ra của Ngài, tôi cũng chẳng biết nói sao về việc Ngài ra khỏi nấm mồ.
Hãy đến xem nơi Chúa đã nghỉ” (Mt 28,6), nghĩa là “Hãy đến xem nơi soạn thảo sắc chỉ bảo đảm sự sống lại của bạn. Đó là nơi sự chết bị chôn. Đó là nơi mà một thân xác, một hạt giống không được gieo xuống bởi con người, đã trổ sinh nhiều bông lúa bất tử.
“Hãy đi loan báo cho các anh em Ta là họ phải đến Galilê và gặp Ta ở đấy” (Mt 28,10), nghĩa là “Hãy đi báo cho các môn đệ của Ta về những điều các người đã được chiêm ngưỡng”.
Trên đây là những lời Chúa phán với các phụ nữ. Và ngay bây giờ nữa, bên bờ giếng rửa tội, Chúa vẫn hiện diện vô hình cạnh các tín hữu. Ngài ôm ấp những người mới được rửa tội như ôm ấp những bạn hữu và anh em. Ngài đổ đầy niềm vui và hoan lạc trong tâm hồn họ. Ngài rửa sạch mọi vết nhơ của họ trong dòng nước ân sủng. Ngài xức dầu Thánh Thần cho những người được tái sinh. Chúa trở thành lương thực và người nuôi dưỡng họ. Ngài nói với mọi tín hữu rằng “Hãy ăn bánh bởi trời, hãy uống nước chảy ra từ cạnh sườn của Ta. Các con đang đói, hãy ăn no nê ; các con đang khát, hãy uống thỏa lòng”
Ôi lạy Đức Kitô, Thiên Chúa chúng con. Chỉ mình Ngài là Đức Chúa duy nhất, đầy lòng nhân từ yêu thương con người. Cùng với Chúa Cha hoàn toàn vẹn sạch và Chúa Thánh Thần Đấng ban sự sống, chúng con xin dâng lên vinh quang và quyền lực, bây giờ và mãi mãi đến muôn thuở muôn đời. Amen.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Thiên Chúa Cha đã cho Đức Kitô Phục sinh để trở nên nguồn sống mới và chính Người sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết. Vì thế, với tâm tình cảm tạ tri ân, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
  1. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đã báo Tin mừng cho mấy phụ nữ  và các tông đồ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa / trở nên những chứng nhân trung thành của Đấng Phục sinh.
  2. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đã chiến thắng tội lỗi và tử thần / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết cởi bỏ con người cũ / và mặc lấy con người mới theo hình ảnh Đức Kitô Phục sinh.
  3. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các tông đồ / và ban Thánh thần cho các ngài / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cũng ban Thánh thần / để Người tái tạo chúng ta.
  4. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đem đến cho những ai tin Người bình an và vui mừng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / trở nên những sứ giả mang bình an / và niềm vui đến cho hết thảy mọi người.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chết đau thương và sống lại vinh hiển để cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con biết luôn cố gắng sống xứng đáng với tình thương hải hà của Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Ghi nhận về cách chọn các bài đọc
Mùa Phục sinh năm C

Các bài đọc từ Chúa Nhật II đến Chúa Nhật VII Mùa Phục sinh năm C được chọn đọc cách bán liên tục :
– Bài đọc I : luôn trích từ sách Công vụ Tông đồ
– Bài đọc II : luôn trích từ sách Khải huyền
– Bài Tin Mừng : luôn trích từ Tin Mừng Gioan
Do mỗi bài đọc được trích một cách bán liên tục từ một quyển sách, cho nên chúng ta không thể tìm ra được chủ đề chung cho 3 bài đọc được.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI



Lectio Divina: Chúa Nhật Phục Sinh (C)
Chủ Nhật 21 Tháng Tư, 2019
Được thấy trong đêm tối và tin tưởng vì tình yêu
Ga 20:1-9


1.  Chúng ta hãy cầu nguyện cùng Chúa Thánh Thần
Lạy Chúa Giêsu Kitô, hôm nay ánh sáng Chúa giải chiếu trên chúng con, là nguồn mạch của sự sống và nỗi vui mừng.  Xin Chúa hãy ban cho chúng con Chúa Thánh Thần của tình yêu và sự thật, giống như bà Maria Madalêna, các ông Phêrô và Gioan xưa kia, để chúng con cũng có thể khám phá và giải thích dưới ánh sáng của Lời Chúa, những dấu chỉ của sự hiện diện thiêng liêng của Chúa trong thế giới chúng con.  Xin cho chúng con biết tiếp nhận những dấu chỉ này trong niềm tin cậy để chúng con được luôn sống trong nỗi vui mừng vì sự hiện diện của Chúa giữa chúng con, ngay cả khi tất cả dường như bị bao phủ bởi bóng tối của buồn phiền và sự dữ.

2.  Phúc Âm

a) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
 Đối với Thánh Sử Gioan, sự sống lại của Đức Giêsu là thời điểm quyết định trong tiến trình dẫn đến sự vinh hiển của Người, được liên kết bất khả phân ly với giai đoạn thứ nhất của của sự vinh hiển này, đó là cuộc thương khó và cái chết của Người.
Sự kiện Chúa Phục Sinh đã không được mô tả trong các chi tiết ngoạn mục và khải huyền của các sách Tin Mừng Nhất Lãm.  Đối với Gioan, cuộc sống của Chúa Phục Sinh là một sự thật mà tự nó đã khẳng định một cách âm thầm, trong quyền năng khôn ngoan và vô kháng của Chúa Thánh Thần.
Sự thật về đức tin của các môn đệ đã được công bố:  “Khi trời còn tối” và bắt đầu qua thị kiến về các dấu hiệu cụ thể để gợi nhớ lại Lời Chúa.  Đức Giêsu là nhân vật chính trong câu chuyện, nhưng chính Người lại không xuất hiện.

b) Bài Đọc:
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm, khi trời còn tối, và bà thấy tảng đá được lăn ra khỏi mồ.
2 Bà liền chạy về tìm Simon Phêrô và người môn đệ khác được Chúa Giêsu yêu mến, và nói với các ông rằng:  “Người ta đã lấy xác Thầy ra khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu”.
Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước; 5 ông cúi mình xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong.
Vậy Simon Phêrô theo sau, cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng nhưng cuộn lại để riêng một chỗ.
Bấy giờ môn đệ kia mới vào dù ông đã tới mồ trước, ông thấy và ông tin; vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.

c) Phân đoạn văn bản để giúp chúng ta hiểu một cách tường tận hơn: 
Câu 1:  Lời dẫn nhập và các sự kiện trước khi mô tả câu chuyện;
Câu 2:  Phản ứng của bà Maria Mađalêna và lời công bố đầu tiên về một sự thật mới được phát hiện;
Câu 3-5:  Phản ứng tức thời của các môn đệ và tác động giữa các ông.
Câu 6-7:  Lời xác định sự việc được công bố bởi bà Maria Mađalêna;
Câu 8-9:  Đức tin của người môn đệ kia và mối quan hệ của nó với Kinh Thánh

3.  Giây phút thinh lặng bên ngoài và trong tâm hồn
 Để mở lòng trí chúng ta và dọn chỗ cho tâm hồn đón nhận Lời Chúa:
–   Đọc lại chậm rãi nguyên cả bài Tin Mừng;
–   Tôi cũng đang ở trong khu vườn:  một ngôi mộ trống ngay trước mắt tôi;
–   Tôi để cho lời của bà Maria Mađalêna lặp lại trong trí tôi;
–   Tôi cũng cùng chạy với bà, ông Phêrô và người môn đệ kia;
–   Tôi để cho hồn mình chìm sâu vào niềm hân hoan tuyệt vời của lòng tin vào Đức Giêsu Kitô, dù rằng, giống như họ, tôi không nhìn thấy Người với con mắt xác thịt.

4.  Món quà tặng của Lời Chúa gửi đến chúng ta

*  Chương 20 sách Tin Mừng Gioan:  Đây là một văn bản khá rời rạc mà rõ ràng là soạn giả vài lần đã xen vào để nhấn mạnh về một số chủ đề và cũng để thống nhất những bản văn khác nhau được thu thập từ it nhất là ba nguồn tài liệu trước đó.

*  Ngày sau ngày Sabbát:  đó là “ngày thứ nhất trong tuần” và, trong phạm vi Kitô giáo, thừa kế từ sự thiêng liêng ngày Sabbát của ngưởi Do Thái.  Đối với những người Kitô hữu ngày đầu tiên của một tuần mới, điểm bắt đầu của thời gian mới, ngày kỷ niệm cuộc phục sinh được gọi là “Ngày của Chúa” (dies Domini).
Tại đây và trong câu 19, tác giả Phúc Âm dùng một thành ngữ đã trở thành truyền thống cho các Kitô hữu (thí dụ: Mc 16: 2 & 9; Cv 20:7) và nó còn có trước cả thành ngữ mà sau này trở thành một biểu hiệu của việc truyền bá Phúc Âm:  “ngày thứ ba” (Lc 24: 7 & 46; Cv 10:40; 1Co 15:4)

*  Bà Maria Mađalêna:  Đây cũng là người phụ nữ đã hiện diện dưới chân thập giá với những người phụ nữ khác (19:25).  Tại đây bà có vẻ như là chỉ có một mình, nhưng theo câu 2 của bài Tin Mừng (“chúng tôi không biết”) cho thấy rằng trong câu chuyện ban đầu, viết bởi Thánh Sử, nhắc đến những người phụ nữ, giống như các sách Phúc Âm khác (xem Mc 16:1-3; Mt 28:1; Lc 23:55-24,1)
Tuy nhiên trong các sách Phúc Âm Nhất Lãm (xem Mc 16:1; Lc 24:1) không ghi rõ lý do việc đi viếng mộ của bà Maria, điều này hàm ý rằng nghi thức mai táng đã hoàn tất (19:40); có lẽ, điều duy nhất còn thiếu sót là sự than khóc ảm đạm (xem Mc 5:38).  Dù sao chăng nữa, vị Thánh Sử thứ tư đã giảm bớt việc khám phá ra ngôi mộ trống xuống mức tối thiểu để tập trung sự chú ý của người đọc về những gì xảy ra sau đó.

*  Sáng sớm, khi trời còn tối:  Phúc Âm theo thánh Máccô (16:2) nói về một điều gì khác, nhưng trong cả hai quyển Phúc Âm chúng ta hiểu rằng đó là những giờ khắc buổi sáng tinh sương, khi ánh sáng còn rất yếu ớt và nhợt nhạt.  Có lẽ thánh Gioan nhấn mạnh đến việc thiếu ánh sáng để làm tương phản một cách biểu trưng của bóng tối – sự thiếu đức tin – và ánh sáng – việc đón nhận Tin Mừng Phục Sinh.

*  Tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ:  Bản văn bằng tiếng Hy-lạp đã được viết một cách khái quát:  tảng đá đã được “lấy đi” hoặc “gỡ bỏ” (khác với: Mc 16:3-4).
Động từ “lấy đi” nhắc nhở đến Phúc Âm của Gioan 1:29:  Thánh Gioan Tẩy Giả nói về Đức Giêsu như “Con Chiên, Đấng gánh hết mọi tội lỗi của thế gian”.  Có lẽ Thánh Sử muốn nhắc nhở về sự thật là tảng đá này “bị lấy đi”, lăn khỏi mồ là một dấu hiệu vật chất để chỉ cho biết rằng sự chết và tội lỗi đã được “cất bỏ” bởi sự Phục Sinh của Đức Giêsu chăng?

*  Bà liền chạy về tìm ông Simon Phêrô và người môn đệ khác:   Bà Maria Mađalêna chạy đi tìm những người cùng chia xẻ niềm yêu mến của bà đối với Chúa Giêsu và nỗi đau khổ của bà trước cái chết đau thương của Chúa, bây giờ lại đau khổ hơn bởi việc khám phá mới mẻ này.  Bà đi tìm các ông, có lẽ bởi vì các ông là những người duy nhất chưa trốn chạy với những kẻ khác và vẫn còn giữ liên lạc với nhau (19:15,26-27).  Ít ra là bà muốn chia xẻ với các ông về nỗi đau tột cùng của việc xúc phạm đối với thi thể người chết như thế này.
Chúng ta thấy bằng cách nào ông Phêrô và “người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến” và bà Mađalêna được đặc trưng bởi một tình yêu đặc biệt đã kết hợp họ với Chúa Giêsu:  Đó chính là tình yêu thương lẫn nhau đã giúp họ có thể cảm nhậnđược sự hiện hữu của người thân yêu.

*  Người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến:  là người chỉ xuất hiện trong sách Tin Mừng này và chỉ bắt đầu xuất hiện ở chương 13, khi ông tỏ lộ sự thân thiết gần bên Chúa Giêsu và sự thông cảm sâu xa với Phêrô (13:23-25).  Ông xuất hiện đúng vào lúc của cuộc thương khó và sự phục sinh của Chúa Giêsu, nhưng vẫn là người không tên và có nhiều giả thiết đã được đặt ra về danh tính của ông.  Ông có lẽ là người môn đệ ẩn danh của Gioan Tẩy Giả, người đã đi theo Chúa Giêsu cùng với ông Andrê (1:35-40).  Bởi vì quyển Tin Mừng thứ tư không bao giờ nhắc đến ông Gioan tông đồ và chúng ta hãy nhớ rằng quyển Tin Mừng này kể lại những chi tiết một cách rõ ràng như một người chứng kiến tận mắt.  “Người môn đệ” đã được nhận diện là ông Gioan tông đồ.  Quyển Tin Mừng thứ tư luôn luôn được cho là viết bởi ông Gioan dù rằng có thể ông không phải là người thưc sự viết nó, tuy nhiên nguồn gốc của truyền thống đặc biệt này cho rằng quyển Tin Mừng này và một số các tác phẩm khác đã được viết bởi thánh Gioan tông đồ.  Điều này cũng giải thích tại sao Gioan là một nhân vật có phần nào được lý tưởng hóa.
“Người được Chúa Giêsu yêu mến”:   Lời này cho chúng ta thấy rõ đây là lời phụ chú không phát xuất từ thánh tông đồ, người không dám tự khoe khoang một mốiliên hệ mật thiết với Chúa, nhưng có thể từ các môn đệ của ông là những người viết phần lớn quyển Tin Mừng và là những người đã đặt ra từ ngữ này sau khi suy nghĩ về một sự ưu ái đặc biệt giữa Chúa Giêsu và người môn đệ này (xem 13:25; 21:4,7).  Những đoạn Tin Mừng mà chúng ta đọc thấy nhóm chữ đơn giản hơn “người môn đệ khác” hoặc “người môn đệ”, rõ ràng là các soạn giả đã không thêm lời phụ chú.

*  Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ:   Những chữ này được lập lại trong các câu 13 và 15, cho thấy bà Maria đã lo sợ rằng những kẻ trộm nghĩa địa đã lấy cắp thi thể người chết, một việc thường xảy ra thời ấy, đến nỗi mà hoàng đế La-mã đã ban bố những sắc lệnh nghiêm nhặt để kiểm soát vấn đề này.  Theo Tin Mừng của Mátthêu (28:11-15), các thày thượng tế đã lợi dụng điều có thể xảy ra này để tạo sự nghi ngờ về sự thật việc sống lại của Chúa Giêsu, và sau cùng, để biện minh cho sự việc các quân lính đã không lo tròn nhiệm vụ canh giữ mộ.

*  Chúa:  danh hiệu “Chúa” hàm ý một sự thừa nhận thần tính và gợi lên Đấng Toàn Năng Thiên Chúa.  Đây là lý do tại sao từ ngữ này được dùng bởi các Kitô hữu khi nói về Đức Giêsu phục sinh.  Thật ra, vị Thánh Sử thứ tư chỉ dùng danh từ này trong các đoạn nói về lễ Phục Sinh.  (Xem đoạn 20:13).

*   Chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu:  những dòng chữ này gợi nhớ lại những gì đã xảy ra cho ông Môisen, người mà mộ của ông không biết ở đâu (Đnl 34:10).  Một sự ám chỉ ngầm khác là từ những lời của Đức Giêsu khi Người nói rằng không ai có thể biết là Người sẽ đi đâu (7:11,22; 8:14,28,42; 13:33; 14:1-5; 16:5).

*   Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn ông Phêrô … nhưng ông không vào trong:  Đoạn Phúc Âm này cho chúng ta thấy sự băn khoăn mà các môn đệ này đã phải trải qua.
Sự kiện mà “người môn đệ kia” đã dừng chân, hơn chỉ là một cử chỉ lịch sự hay kính trọng đối với bậc trưởng thượng nào đó, đó là sự thừa nhận mặc nhiên rằng ông Phêrô, trong nhóm các tông đồ, đã giữ một địa vị cao trọng, dù rằng điều này không được nhắc đến.  Vì vậy, đó là một dấu hiệu của sự hiệp thông.  Cử chỉ này cũng có thể được xem như là một dụng cụ văn chương để chuyển từ một sự kiện liên quan đến đức tin vào sự phục sinh đến thời điểm kế tiếp và là cao điểm trong câu chuyện.

*  Những dây băng nhỏ để đó và khăn liệm che đầu … được cuộn lại để riêng một chỗ:  dù rằng người môn đệ kia đã không vào trong, có lẽ ông đã nhìn thấy điều gì.  Ông Phêrô, bước qua cửa mồ, khám phá ra được bằng chứng rằng việc trộm xác không hề xảy ra:  không một kẻ trộm nào lại đi phí thì giờ tháo gỡ băng vải liệm xác, sắp xếp các vải liệm một cách ngay ngắn (trên nền đất có thể được diễn giải rõ hơn là “trải ra” hay “để cẩn thận trên nền”) và rồi còn cuộn khăn liệm che đầu để riêng một chỗ.  Việc làm này hết sức phức tạp bởi vì loại dầu mà được dùng để xức cho người chết (đặc biệt là chất nhựa thơm) có tác dụng như chất keo, giúp các băng vải dính vào thi thể một cách hoàn hảo và vững chắc, gần giống như việc ướp các xác ướp.  Ngoài ra, tấm khăn liệm che đầu đã được gấp lại; động từ trong tiếng Hy-lạp còn có thể có nghĩa là “cuộn lại”, hoặc nó có thể ngụ ý cho biết rằng tấm vải mỏng đó phần lớn có nhiệm vụ là giữ gìn khuôn mặt người đã mất, gần giống như một mặt nạ cho người chết.  Những miếng vải đã còn nguyên vẹn như được trích dẫn trong Tin Mừng của Gioan 19:40.
Tất cả mọi vật trong nhà mồ được sắp xếp ngăn nắp, dù rằng thi thể của Chúa Giêsu không còn đó, và ông Phêrô đã có thể trông thấy rõ ràng trong nhà mồ vì trời đã sáng dần.  Khác với Lazarô (11:14) lúc trước, Chúa Kitô khi sống lại đã hoàn toàn tháo gỡ những dây vải liệm quanh mình.  Các nhà chú giải cổ đại đã ghi chép rằng, thật ra, ông Lazarô đã phải dùng lại những tấm vải liệm ấy lần nữa trong lần mai táng sau cùng của mình, trong khi Đức Kitô thì không cần dùng đến những tấm vải này vì Người không phải chết lần thứ hai (xem Rm 6:9).

*  Ông Phêrô … thấy … người môn đệ khác … thấy và tin:  Vào lúc khởi đầu câu chuyện, bà Maria cũng đã “thấy”.  Dù rằng một vài bản dịch dùng cùng một động từ, văn bản nguyên khởi dùng ba động từ khác nhau (theorein – thấy tận mắt –  cho ông Phêrô; blepein – thấy –  cho người môn đệ khác và bà Maria Madalêna; idein – thấy, ở đây, cho các người môn đệ khác), chúng ta hãy nên hiểu rằng có sự tăng trưởng trong chiều sâu tâm linh của việc “thấy” này, đó là, thật ra lên đến điểm đỉnh trong đức tin của người môn đệ khác.
Một người môn đệ ẩn danh chắc chắn đã không trông thấy một điều gì khác ngoài những điều ông Phêrô đã quan sát thấy.  Có lẽ ông giải thích lại những gì ông thấy một cách khác với những người khác bởi vì mối quan hệ đặc biệt của tình yêu mà ông dành cho Đức Giêsu (kinh nghiệm của ông Tôma là kinh nghiệm điển hình, 29:24-29).  Dù sao chăng nữa, như được cho thấy bởi thì của động từ trong ngôn ngữ Hy-lạp, đức tin của ông vẫn chỉ là đức tin non nớt, đến nỗi mà ông đã không thể tìm ra phương cách để chia xẻ kinh nghiệm này với bà Maria hoặc ông Phêrô hay với bất cứ người môn đệ nào khác (không có điều tham khào nào thêm về việc này).
Tuy nhiên, đối với vị Thánh Sử thứ tư, động từ đôi “thấy và tin” mang một ý nghĩa khác hẳn và một cách riêng biệt quy về niềm tin vào sự phục sinh của Đấng từ cõi chết sống lại (xem 20:29).  Bởi vì thật khó mà có thể thực sự tin được trước mặt Chúa đã chết và nay đã sống lại. (xem 14:25-26; 16:12-15).  Khi ấy, từ ngữ kép thấy và tin đặc trưng cho toàn bộ chương Tin Mừng này và “người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến” đã được giới thiệu như một mẫu mực đức tin thành công trong việc thông hiểu sự thật về Thiên Chúa qua vật thể (xem 21:7).

*  Vì chưng các ông còn chưa hiểu Kinh Thánh:  điều này hiển nhiên quy hướng về tất cả các vị tông đồ khác.  Ngay cả những người đã từng sống gần bên Đức Giêsu, khi ấy, rất khó mà tin tưởng vào Người một cách khơi khơi, và đối với họ, cũng như đối với chúng ta nữa, cửa ngõ duy nhất cho phép chúng ta bước qua ngưỡng cửa của đức tin chân chính là sự hiểu biết về Kinh Thánh (Lc 24:26-27; 1Cr 15:34; Cv 2:27-31) nhờ vào các sự kiện của sự sống lại.


5.  Một vài câu hỏi gợi ý để hướng dẫn cho việc suy gẫm và thực hành của chúng ta

a) Điều cụ thể nào đem đến cho chúng ta ý nghĩa “tin vào Đức Giêsu, Đấng Sống Lại Từ Cõi Chết”?  Chúng ta đã gặp phải những khó khăn nào khi phải tin điều này?  Có phải việc sống lại chỉ duy nhất liên quan đến Đức Giêsu hay nó thực sự là nền tảng cho đức tin của chúng ta?
b) Mối quan hệ mà chúng ta thấy giữa ông Phêrô, người môn đệ khác và bà Maria Mađalêna một cách rõ ràng là một sự hiệp thông tuyệt vời trong Chúa Giêsu.  Ngày nay, chúng ta có thể tìm thấy sự thông hiểu về tình yêu và cùng một sự “hiệp nhất chung” trong Chúa Giêsu trong những người nào, sự việc nào, hoặc những tổ chức nào?  Chúng ta có thể đọc được những dấu hiệu cụ thể của một tình yêu bao la cho Chúa ở đâu và “tình yêu của Ngài” đã linh ứng cho tất cả các môn đệ ra sao?
c) Khi chúng ta nhìn vào cuộc sống chúng ta và thực tế chung quanh chúng ta, gần lẫn xa, chúng ta có thấy như ông Phêrô đã thấy (ông đã nhìn thấy sự thực, nhưng giữ cho ông, đó là, về cái chết và việc mai táng của Chúa Giêsu) hay chúng ta có thấy như người môn đệ kia đã thấy không (ông nhìn thấy chứng cớ và khám phá ra trong chúng những dấu hiệu của đời sống mới)?

6.  Chúng ta hãy cầu xin ân sủng cùng Chúa và tôn vinh Ngài
Với bài thánh vịnh trích từ thư của thánh Phaolô gửi các tín hữu Êphêsô (đoạn 1:17-23)

Tôi cầu xin cùng Chúa Cha vinh hiển, là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người.  Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, và đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã ban bố cho chúng ta là những tín hữu.  Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực mà Người biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người ở trên trời.  Như vậy, Chúa đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, và vượt trên mọi danh hiệu, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai.  Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh, mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn.

7.  Lời nguyện kết
Bối cảnh phụng vụ rất quan trọng trong việc cầu nguyện bài Tin Mừng này và sự kiện sống lại của Chúa Giêsu, là tâm điểm của đức tin chúng ta và của đời sống Kitô hữu chúng ta.  Sự tiếp nối là đặc điểm của việc phụng vụ bí tích Thánh Thể hôm nay và cho cả tuần lễ giúp chúng ta ngợi khen Đức Chúa Cha và Chúa Giêsu.

Cộng đoàn Kitô hữu, những người tin vào Hy Lễ Vượt Qua
Đấng đã được hiến tế và tôn vinh.
Dê cừu đã được cứu chuộc bởi Con Chiên;
Và Chúa Kitô, Đấng tinh tuyền
Đã đem những kẻ tội lỗi trở về hòa giải với Chúa Cha.
Sự chết với cuộc sống tranh giành:
Cuộc chiến đấu đã kết thúc hết sức lạ kỳ!
Kẻ bị giết lại trở thành người chiến thắng
Lại trở thành bất tử để ngự trị.
Bà Maria ơi hãy nói cho chúng tôi biết:
Bà thấy gì ở trên đường.
Mộ của Đấng hằng sống đã lấp;
Tôi đã thấy vinh quang của Chúa Kitô khi Người từ cõi chết sống lại!
Các thiên thần ở đó đang làm chứng;
Các khăn liệm được gấp lại ngay ngắn.
Chúa Kitô, niềm hy vọng của tôi, đã sống lại:
Người đã đến Galilê trước các anh em.
Chúng ta biết đó chính là Đức Kitô thật sự đã sống lại từ cõi chết.
Vua chiến thắng,
Lòng thương xót Chúa tỏ ra.

Chúng ta hãy kết thúc lời cầu nguyện với bài thơ cầu khẩn sống động này của tác giả đương đại Marco Guzzi:

Tình yêu, tình yêu, ôi tình yêu!
Ước chi tôi cảm nghiệm, sống, và biểu lộ với tất cả Tình Yêu này,
Đó là điều ước nguyện vui mừng trên thế gian
Và sự gặp gỡ hạnh phúc với những người chung quanh.
Chỉ có Chúa mới ban cho con tự do, chỉ có Chúa mới giải thoát con.
Và tuyết rơi để tưới gội
Những thung lũng xanh ngắt trên địa cầu.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét