Trang

Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2019

03-11-2019 : (phần I) CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN năm B


03/11/2019
 Chúa Nhật 31 Thường Niên năm C
(phần I)


BÀI ĐỌC I: Kn 11, 23 – 12, 2 (Hl 11, 22 – 12, 1)
“Chúa thương xót mọi loài, vì Chúa yêu thương mọi tạo vật”.
Trích sách Khôn Ngoan.
Lạy Chúa, trước mặt Chúa, cả vũ trụ ví như hạt gạo trên đĩa cân, và như hạt sương sa trên mặt đất trước lúc rạng đông. Nhưng Chúa thương xót mọi loài, vì Chúa có thể tác tạo mọi sự, và nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người để họ ăn năn sám hối. Chúa yêu thương mọi tạo vật, và không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa đã tác thành: vì nếu Chúa ghét bỏ một vật gì, thì Người đâu có tác tạo nó.
Nếu Chúa không ưng, thì làm sao một vật có thể tồn tại được? Hoặc vật gì Chúa không kêu gọi, thì làm sao nó duy trì được? Nhưng Chúa dung thứ hết mọi loài: vì chúng thuộc về Chúa. Lạy Chúa, Chúa yêu thương các linh hồn.
Ôi lạy Chúa, thần trí của Chúa tốt lành và hiền hậu đối với mọi loài là dường nào! Vì thế, lạy Chúa, Chúa từ từ sửa phạt những kẻ lầm lạc, khuyên răn và dạy bảo những kẻ phạm lỗi, để họ từ bỏ tội ác mà tin theo Chúa. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 144, 1-2. 8-9. 10-11. 13cd-14
Đáp: Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa, con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời (x. c. 1).
Xướng:
1) Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa, con sẽ ca khen Chúa, và con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời. Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. – Đáp.
2) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. – Đáp.
3) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài.- Đáp.
4) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: 2 Tx 1, 11 – 2, 2
“Danh Chúa được vinh hiển trong anh em, và anh em được vinh hiển trong Người”.
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, chúng tôi hằng cầu nguyện cho anh em: Thiên Chúa chúng ta đoái thương làm cho anh em nên xứng đáng ơn Chúa kêu gọi anh em, và xin Người dùng quyền phép mà kiện toàn những ý định ngay lành do lòng tốt của anh em và công việc của lòng tin anh em, để danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, được vinh hiển trong anh em, và anh em được vinh hiển trong Người, do ân sủng của Thiên Chúa, Chúa chúng ta, và của Chúa Giêsu Kitô.
Anh em thân mến, nhân về ngày trở lại của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và về sự chúng ta tập họp bên cạnh Người, chúng tôi nài xin anh em chớ vội để mình bị giao động tinh thần, và đừng hoảng sợ bởi có ai nói tiên tri, hoặc bởi lời rao giảng hay bởi thư từ nào được coi như do chúng tôi gởi đến, mà nói như thể ngày Chúa gần đến. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Lc 19, 1-10
“Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, thì kìa, có một người tên là Giakêu, ông thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có. Ông tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó.
Khi vừa đến nơi, Chúa Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: “Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi”. Ông vội vàng trụt xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm rằng: “Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi”.
Ông Giakêu đứng lên thưa cùng Chúa rằng: “Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn”. Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất”. Đó là lời Chúa.


Suy Niệm: Nhờ lòng thương của Ðức Giêsu
Sắp hết năm Phụng vụ, chúng ta đọc thư Thessalonica để bắt đầu suy nghĩ về thế mạt. Ðừng tưởng làm như vậy sẽ cản trở sinh hoạt hiện nay. Ngược lại suy nghĩ về thế mạt theo Kitô giáo có thể giúp chúng ta đổi mới được các sinh hoạt hiện tại, làm cho đời sống thêm tích cực và phấn khởi hơn. Bởi vì thế mạt theo Kitô giáo không phải là làm cho thế giới này tan biến đi và đi đến chỗ mạt vận; nhưng là thế giới này sẽ chuyển biến và thay đổi hoàn toàn để giũ bỏ hết mọi hư ảo và mặc lấy các đặc tính trường sinh.
Thế mạt như vậy cũng có nghĩa là đổi đời. Và quan niệm này luôn luôn là một cám dỗ. Con người không bằng lòng với hiện tại và muốn đổi khác. Tựu trung chúng ta muốn đổi những gì để được hạnh phúc hơn? Ðiều quan trọng nhất, há chẳng phải là chúng ta không muốn thấy sự dữ và kẻ dữ ở đời này nữa sao? Nhưng làm thế nào? Chúng ta hãy nghe câu trả lời của các bài đọc Kinh Thánh hôm nay.

1. Thiên Chúa Yêu Thương Mọi Loài
Bài sách Khôn Ngoan lập tức như muốn đi ngược lại khuynh hướng và suy nghĩ tự nhiên của loài người chúng ta. Luôn luôn chúng ta nghĩ rằng thế giới này xấu vì có những kẻ dữ. Làm cho bọn này biến đi, chúng ta được hạnh phúc. Âm thầm chúng ta đã tự đặt mình sang phía những kẻ lành, và ước ao phía kẻ dữ không còn bóng dáng một tên nào nữa... và chúng ta thường ấm ức vì không hiểu sao Thiên Chúa cứ để bọn này sống ngang nhiên như vậy?
Tác giả Khôn Ngoan đọc thấy cái tâm lý này trong suy nghĩ của con cái Israel ở bên Ai Cập. Họ ghét cay ghét đắng những người cai thầu và đốc công, tay sai của Pharaon. Họ sung sướng khi thấy một chàng thanh niên có tên là Môsê thẳng tay hạ sát một tên Ai Cập để bênh vực một người Do Thái. Câu chuyện đó đã xảy ra lâu rồi... nhưng đột nhiên bây giờ Môsê lại xuất hiện. Ông nói với con cái Israel hãy chuẩn bị ra khỏi xứ nô lệ này. Và ông đi đi lại lại đến với vua Pharaon để thương lượng việc giải phóng dân ông, vừa phấn khởi nhưng cũng vừa ấm ức... Tại sao chậm chạp như vậy? Tại sao không dùng các biện pháp mạnh và quyết liệt? Chúa của Môsê dường như không dứt khoát đủ? Sao Người không cho quyền Môsê làm những dấu lạ điềm thiêng mau lẹ đi? Sao Người còn nương tay với Pharaon và bè lũ?
Con cái Israel đã nóng ruột. Chúng ta thường cũng nóng ruột, chỉ muốn đổi đời tức khắc, chỉ muốn kẻ dữ phải chết tươi, ăn năn tội chẳng kịp. Nhưng Chúa thì lại khác. Tác giả sách Khôn Ngoan hôm nay mạc khải cho chúng ta thấy tâm tư của Người. Không phải Người yếu đâu, vì toàn thể vũ trụ trước mặt Người như hạt sương rơi trên đất. Nào ai cự được cánh tay của Người. Nhưng chính vì toàn năng phép tắc mà Người lại thương xót người ta vô cùng. Chỉ có người yếu mới sốt ruột thủ tiêu người mình không ưa, không thích. Còn người có khả năng thì dễ dàng làm lơ chờ đợi chúng hối cải.
Tuy nhiên đó chỉ là một lý. Còn một lẽ nữa, có thể quan trọng hơn. Thiên Chúa là tạo hóa, Người dựng lên mọi sự vì yêu mến. Chính tình thương của Người ban cho mọi loài được hiện hữu và bảo tồn mọi loài trong hiện hữu... Không gì xuất hiện và tồn tại được nếu Người không muốn và không thương. Thế nên kẻ dữ còn đó là vì tình thương của Thiên Chúa. Người không muốn ghét bỏ những gì Người đã nắn ra. Người yêu sự sống chứ không thích sự chết. Làm cho mọi vật sống là bản tính tự nhiên của Người. Còn tiêu diệt vật nào là việc Người chẳng thích. Bởi vậy, thái độ của Người có vẻ thong thả. Dần dà Người muốn sửa dạy mọi kẻ sa ngã để chúng trở lại mà được sống.
Tác giả sách Khôn Ngoan không những đã lý luận như thế. Ông còn chấp nhận luận lý ấy đến nỗi muốn chia sẻ tâm tư của Thiên Chúa. Ông đã không lý luận như chúng ta vừa làm; nhưng đã cầu nguyện để hiểu ý Chúa và muốn như Người... Tức là ông cũng muốn chúng ta, thay vì nhìn vào kẻ dữ như những cái gai trước mắt và như nguyên nhân cản trở hạnh phúc của chúng ta, hãy nhìn vào Thiên Chúa và thờ lạy cầu xin Người. Chúng ta sẽ hiểu Người hơn và chia sẻ tâm tư của Người. Người toàn năng nên không coi thái độ của kẻ dữ là quan trọng. Ưu vị của Người làm ngơ đi trước tội của họ, chờ đợi họ trở lại. Nhất là Người đầy tình thương. Người đã dựng nên vạn vật vì yêu mến. Người không nỡ ghét bỏ loài người đã tác thành. Hơn nữa, thần trí của Người đang làm việc nơi vạn vật. Hãy để cho sức mạnh thánh hóa của thần trí sửa dạy kẻ sa ngã và đưa họ về đường ngay...
Tác giả sách Khôn Ngoan không thể nói rõ hơn vì ông chưa được thấy kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa tỏ hiện. Nhưng tâm tư của ông đã vượt xa cảm nghĩ của nhiều người đã nhìn thấy ơn cứu độ. Ðiều này thật đáng suy nghĩ. Và vì thế chúng ta cần tìm hiểu hơn về cách Chúa cứu độ để sửa sai nhiều thái độ hiện nay của mình. Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe có khả năng giúp đỡ chúng ta làm việc này.

2. Thiên Chúa Cứu Ðộ Tội Nhân
Câu chuyện ông Zakkhê, ai mà không biết. Tác giả Luca đặt câu chuyện này vào ngay sau lúc Ðức Giêsu nói với các môn đệ: "Này chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho con người mọi điều các tiên tri đã viết". Như vậy câu chuyện muốn nói lên mục đích của cuộc hành trình, tức cũng là việc Ðức Giêsu lên Giêrusalem để chịu chết. Người đi chịu nạn để chuộc tội cứu thế. Câu chuyện ông Zakkhê làm chứng điều này.
Quả vậy, trước mặt người Do Thái, Zakkhê là một kẻ tội lỗi. Không tội lỗi như bọn phóng túng đâu; nhưng đây còn là một tội nhân nguy hiểm. Zakkhê là ty trưởng quan thuế ở một dân tộc bị ngoại bang thống trị. Và điều này có thể làm sống lại một số kinh nghiệm cũ của chúng ta. Những người thu thuế cho hạng ngoại bang làm sao không bị coi là những tên hại dân hại nước! Huống nữa Zakkhê là ty trưởng quan thuế.
Và chế độ thuế má ở Giêricô bấy giờ mới thật đáng ghét! Ðể thu được nhiều tiền, nhà cầm quyền Rôma cho đấu thầu việc thu thuế. Và dĩ nhiên những kẻ giàu có mới có khả năng đấu thầu. Và đấu thầu được, họ tha hồ bắt dân phải chịu sưu cao thuế nặng. Có như vậy họ mới gỡ được vốn và mới có thể làm giàu thêm. Dân không thể nào không coi những ông bao thầu này bất nhân được. Nhất là ở Israel; làm tay sai cho ngoại bang không những là hại dân hại nước, mà còn là hại đạo nữa. Kẻ bất nhân trong việc thu thuế vừa bán nước vừa là giáo gian. Ðó là tội nhân công khai, trắng trợn và nguy hiểm.
Zakkhê có thật sự như vậy không? Ðiều đó không cần biết. Chỉ có điều chắc chắn là người Do Thái nào cũng coi ông như vậy. Hay ít ra trước mặt công luận, ông bị coi như thế.
Hôm ấy Zakkhê nghe tin Ðức Giêsu đi ngang qua Giêricô. Tò mò ông muốn thấy Người... nhưng ông lại nhỏ con chẳng sao nhìn được Người vì thiên hạ bu đầy xung quanh Người. Chỉ còn một cách: Phải tìm chỗ đứng trên cao nhìn xuống... Chẳng có nhà lầu nào ở gần. Hơn nữa, trèo lên một thân cây có lẽ đỡ phiền phức hơn. Zakkhê đã làm như thế. Nhưng này Chúa đã gọi ông: "Zakkhê, xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại nhà ngươi".
Làm sao có thể xảy ra như thế? Người mà lại vào ngụ nhờ nhà một người tội lỗi sao? Thiên hạ thì kinh ngạc; còn Zakkhê thì chỉ biết vui mừng. Ông về dọn nhà, dọn bàn... và nhất là dọn những câu nói chân thật nhất để diễn tả lòng cảm mến đối với một ơn bất ngờ như vậy: "Này, ông nói, nửa phần của cải, thưa Ngài, tôi xin bố thí cho kẻ khó và nếu tôi đã gian lận gì của ai, tôi xin đền lại gấp bốn".
Ðó là phản ứng của một con người quyết tâm đổi đời. Trước đây ông muốn vơ vén nhiều của, bây giờ ông muốn tung ra; trước đây ông có gian lận, thì bây giờ ông xin đền bù quá mức pháp luật đòi hỏi. Quả thật ông đã nhận được ơn cứu độ. Và Ðức Giêsu chỉ còn cần phải tuyên bố: "người này cũng là con cái của Abraham". Nghĩa là không ai còn được kỳ thị, gạt bỏ một con người như thế nữa. Không còn được coi người ấy như lương dân hay như tay sai của ngoại bang nữa. Người ấy không còn là tội nhân, nhưng đã trở thành con cái của Abraham, con cái của Lời Hứa, con cái của Nước Trời. Và sở dĩ như vậy vì Con Người đến để tìm cứu sự đã hư đi.
Ðã đành, Zakkhê cũng có công... ông đã muốn xem thấy Chúa và đã trèo lên cây cao, và nhất là ông đã thành tâm trở lại. Nhưng nếu Chúa đã không nhìn và gọi ông, nếu Người không đoái ngụ lại nhà ông, thì đã chẳng có câu chuyện hôm nay. Tất cả đều do Chúa, nhờ lòng thương của Người và bởi sáng kiến của Người. Ðó mới thật là ý tưởng mà tác giả Luca muốn trình bày với chúng ta.
Ðức Giêsu đã đến để tìm cứu kẻ có tội: Người là ơn cứu độ Thiên Chúa gửi đến cho loài người. Người thực hiện những điều mà sách Khôn Ngoan đã viết. Tác giả sách này chỉ biết rằng: Thiên Chúa vì toàn năng và nhân ái sẽ làm cho tội nhân trở lại. Nhưng thế nào và nhờ ai, thì chúng ta phải chờ đến khi thấy Ðức Giêsu xuất hiện và cương quyết đi lên Giêrusalem để làm công việc cứu thế... Hôm nay Người đã làm cho Zakkhê trở lại đang khi Người lên Giêrusalem để chúng ta thấy trước mục đích của việc Người sẽ chịu nạn và sống lại.
Chúng ta ngày nay đã có đức tin và tuyên xưng Ðức Giêsu là cứu thế. Chúng ta phải làm gì để ơn cứu độ của Người có ảnh hưởng đổi đời một cách sâu rộng? Vì như đã nói trên, muốn đổi đời không phải là muốn tiêu diệt kẻ dữ, nhưng phải mong họ trở lại ngay chính nhờ lòng thương của Thiên Chúa và hành động của Ðức Giêsu Kitô. Bài thư Thessalonica hôm nay có thể giúp chúng ta nhiều ánh sáng quý báu.

3. Ðức Giêsu Phải Ðược Hiển Vinh Nơi Chúng Ta
Xét theo một khía cạnh, giáo đoàn Thessalonia thời bấy giờ đã cảm nghĩ như chúng ta ngày nay trong nhiều lúc. Họ thấy đời không đáng sống bao nhiêu. Quá nhiều buồn chán. Và nhất là quá nhiều bất công. Họ ước ao ngày của Chúa đến để phân biệt lành dữ phải trái. Nhiều người đã lợi dụng cái tâm lý ấy... Họ tuyên truyền và làm cho người ta tưởng: ngày của Chúa đã đến!
Phaolô phải viết thư để tín hữu của Người khỏi bị phỉnh gạt. Những lời cuối cùng trong đoạn trích hôm nay gạt bỏ ý tưởng cho rằng ngày của Chúa đã đến. Ðôi khi chúng ta cũng nên đọc kỹ lại những lời này để khỏi bị giao động vì những tin có mạc khải ở chỗ này, có lời sấm ở chỗ kia về ngày tận thế. Ngày ấy đến lúc nào, đến Con Người cũng không biết, thì đừng ai phỏng đoán làm gì.
Nhưng có một điều chắc chắn, chúng ta phải cố gắng để được hạnh phúc trong ngày ấy. Và cho được như vậy, thánh Phaolô bảo phải cầu nguyện, xin Thiên Chúa khấng làm cho chúng ta được xứng đáng với ơn Thiên triệu... Chỉ có Người mới cứu độ được chúng ta, nhờ Ðức Giêsu Kitô như hai bài Kinh Thánh trên đây đã làm chứng. Nhưng về phía mình, ít ra chúng ta cũng phải có những nỗ lực nào đó như Zakkhê. Và ở đây thánh Phaolô nói, chúng ta phải làm cho Danh Ðức Giêsu được hiển vinh nơi chúng ta và chúng ta ở nơi Người.
Chúng ta hãy mượn lại câu chuyện Zakkhê để làm sáng tỏ lời khuyên của thánh Tông đồ. Nhờ việc Ðức Giêsu đến ngụ nhờ nhà ông, mà ông đã đổi đời. Ông đã nhiệt tình tiếp rước Người, nên ông đã lấy lại được danh tiếng. Ông được vinh hiển ở nơi Người vì ông đã muốn Người vinh hiển nơi nhà ông. Nhà ông đón nhận ơn cứu độ, nên ông đã trở thành con cái của Abraham.
Như vậy chúng ta phải tôn vinh Ðức Giêsu ở nơi chúng ta để chúng ta được tôn vinh ở nơi Người. Và muốn thế, thánh Phaolô nói chúng ta phải nhờ ơn Chúa làm cho viên thành ý chí ngay lành và công việc của lòng tin. Chúng ta phải cầu xin quyền năng của Thiên Chúa giúp mình thi hành các tư tưởng tốt và làm tốt các việc của đời sống đức tin. Khi ấy đời sống chúng ta sẽ xứng đáng là đời sống của người Kitô hữu. Ðức Kitô được hiển vinh nơi chúng ta, thì đồng thời và lập tức chúng ta được hiển vinh ở nơi Người. Người ta sẽ thấy chúng ta là môn đệ Người. Và khi ấy dù giờ vinh hiển cánh chung chưa đến, nhưng chúng ta cũng đã mang trong mình đời sống vinh hiển của Thiên Chúa rồi.
Và nếu chúng ta không những coi mình như con chiên của Chúa mà còn ý thức tất cả chúng ta là dân riêng của Người để chúng ta cố gắng làm cho Người được vinh hiển nơi cộng đoàn giáo xứ và Giáo hội chúng ta, thì xã hội loài người sẽ nhận thấy Hội Thánh qua thật là thành trì của Thiên Chúa và là hạnh phúc bình an của các dân tộc.
Chúng ta có tất cả những yếu tố đó trong thánh lễ này. Ðức Giêsu sẽ đến và mang ơn cứu độ đến cho nhà này là giáo đoàn chúng ta và linh hồn mỗi người. Chúng ta hãy đón nhận Người như ông Zakkhê. Chúng ta hãy bắt chước ông quyết tâm đổi đời làm vinh danh Chúa ở nơi chúng ta. Không những Chúa sẽ tuyên bố chúng ta là con cái của Abraham và là dân thánh của Người; nhưng chính xã hội cũng sẽ nhận ra đời sống mới nơi chúng ta để ca tụng Thiên Chúa và tin vào ơn cứu độ của Người.
Xin cho chúng ta và cộng đoàn chúng ta hôm nay được những ơn như thế.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

 Lời Chúa Mỗi Ngày

Chúa Nhật 31 Thường Niên, Năm C
Bài đọcWis 11:22-12:2; 2 Thes 1:11-2:2; Lk 19:1-10.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tình thương tha thứ của Thiên Chúa
Rất nhiều người trong chúng ta không hiểu tại sao Giáo Hội không cho phép: ngừa thai nhân tạo; phá thai cho dù thai nhi mang bệnh tật; giết người già hay người bệnh dù họ phải chịu những chứng bệnh nan y; án tử hình dù tù nhân đã phạm những tội tày đình hay giết người… Lý do đơn giản là Giáo Hội nhận ra quyền cho sống là quyền của Thiên Chúa, chứ không phải quyền của con người. Thiên Chúa đã dựng nên mọi sự, Ngài yêu thương và muốn bảo trì muôn loài, con người chỉ là tạo vật, không ai có quyền hủy diệt loài người Thiên Chúa dựng nên.
Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật tình thương Thiên Chúa dành cho muôn loài, đặc biệt tình thương tha thứ Ngài dành cho con người. Trong bài đọc I, tác giả Sách Khôn Ngoan nêu lên một chân lý quan trọng: “Của đau, con xót.” Vì Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài, nên Ngài yêu thương và lo lắng bảo vệ tất cả. Ngài không muốn cho bất cứ ai phải hư đi; nhưng muốn họ ăn năn xám hối để được sống. Trong bài đọc II, lẽ ra con người phải hư mất vì không biết xử dụng tự do của mình; nhưng Thiên Chúa đã ban cho con người Đức Kitô để Ngài chuộc tội cho con người. Vì thế, con người không nên lo lắng về Ngày Quang Lâm sẽ đến, vì đó là Ngày con người sẽ được vinh quang cùng với Đức Kitô. Trong Phúc Âm, giữa một đám đông to lớn và hỗn độn, Chúa Giêsu vẫn nhận ra một người thu thuế thấp bé và tội lỗi là Giakêu đang đứng trên cây sung. Ngài muốn ở trọ tại nhà và mang ơn cứu độ cho ông.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa yêu thương mọi loài Ngài đã dựng nên.
1.1/ Thiên Chúa tạo dựng nên hết mọi loài: Tác giả Sách Khôn Ngoan muốn nêu bật những sự thật quan trọng mà con người cần biết:
(1) Uy quyền của Thiên Chúa: Vũ trụ tuy to lớn đối với con người như thế; nhưng chỉ là “hạt cát trên bàn cân” hay “tựa giọt sương mai rơi trên mặt đất.” Uy quyền của Thiên Chúa còn vượt xa những gì con người có thể thấy, vì còn những thứ con người chưa thấy như những sự trên Trời và những sự trong đáy vực sâu.
(2) Lòng yêu thương của Thiên Chúa cho mọi loài: Thiên Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu và không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra. Nếu Thiên Chúa ghét loài nào, thì Ngài đã chẳng dựng nên nó.
(3) Sự quan phòng của Thiên Chúa: Không những Thiên Chúa tạo dựng, Ngài còn duy trì sự hiện hữu của muôn loài bằng cách bảo vệ chúng nữa. Nếu Ngài không bảo vệ, làm sao một vật tồn tại nổi? Nếu Ngài không cho hiện hữu, làm sao nó có thể được duy trì?
1.2/ Thiên Chúa cho kẻ có tội cơ hội được ăn năn trở lại: Đối với cha mẹ loài người, con nào cũng là con; đứa con nào càng mỏng giòn yếu đuối, cha mẹ càng phải săn sóc và bảo vệ nhiều hơn. Nếu điều này đã đúng cho con người, nó càng biểu tỏ cách rõ ràng hơn với Thiên Chúa. Ngài đã nhiều lần tuyên bố rất rõ qua các ngôn sứ của Cựu Ước: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn xám hối để được sống,” hay qua chính Người Con của Ngài, “Người mạnh khỏe không cần đến thầy thuốc, nhưng chỉ những kẻ đau yếu mới cần.
Nhiều người không kiên nhẫn khi thấy những kẻ gian ác cứ sống phây phây trên sự khốn khổ của người công chính, nên cầu xin Thiên Chúa sớm tiêu diệt bọn ác nhân đó. Họ không hiểu tại sao Ngài để những kẻ gian ác ấy còn sống trên đời? Tác giả Sách Khôn Ngoan trả lời: Đó là vì “Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ biết ăn năn hối cải.”
Vẫn có những người nghi ngờ làm sao những kẻ gian ác ấy có thể ăn năn trở lại. Họ quên rằng chẳng có gì là không thể đối với Thiên Chúa. Tác giả Sách Khôn Ngoan mặc khải một điều quan trọng là “sinh khí bất diệt của Thiên Chúa đã ở trong muôn loài muôn vật.” Vì thế, “những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ. Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa.” Một điều nữa chúng ta cần nhấn mạnh: tiến trình đưa con người về nẻo chính đường ngay cũng bắt nguồn từ Thiên Chúa, chứ không bắt đầu với con người.
2/ Bài đọc II: Danh của Chúa chúng ta là Đức Giêsu, sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người.
2.1/ Hãy sống xứng đáng với tình yêu Thiên Chúa.
Nếu chúng ta chịu khó ngồi xuống để suy gẫm về tình yêu Thiên Chúa và ơn gọi làm con của Ngài, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta mọi sự cần thiết để đạt đến vinh quang Ngài đã tiền định: giao ước, Lề Luật, các nhà lãnh đạo, các ngôn sứ… Món quà cao trọng hơn hết Thiên Chúa đã ban cho con người là Đức Kitô, Người Con Một của Ngài, đã hy sinh chết vì tội lỗi của chúng ta để chúng ta được cứu độ. Qua Đức Kitô, chúng ta còn được dồi dào ân sủng qua các bí tích, sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, và sự chỉ dạy của Giáo Hội.
Thánh Phaolô cầu nguyện và kêu gọi các tín hữu Thessalonica hãy sống xứng đáng với ơn gọi của mình; để danh Thiên Chúa và danh của Đức Kitô được tôn vinh và các tín hữu cũng được tôn vinh nơi Người.
2.2/ Đừng hoảng hốt về Ngày của Thiên Chúa đến.
Trong Thư I Thessalonica, thánh Phaolô nghĩ Ngày Quang Lâm của Thiên Chúa sắp đến, nên Ngài kêu gọi các tín hữu hãy chuẩn bị khẩn trương cho Ngày ấy. Trong Thư II Thessalonica, ngài sửa chữa quan điểm về Ngày Quang Lâm của Thiên Chúa. Ngài khuyên các tín hữu đừng tin vào những tin đồn và cũng đừng hoảng sợ về Ngày này, vì có nhiều tín hữu có những thái độ sai lầm trong khi chuẩn bị Ngày đó. Có những người không làm lụng chi hết chỉ ngồi chờ Ngày đó đến, có những người lại lợi dụng thời cơ để kiếm lợi lộc.
Theo thánh Phaolô, Ngày này phải là Ngày vui mừng, vì chúng ta sẽ được gặp Thiên Chúa và Đức Kitô. Những người đã chuẩn bị sẵn sàng sẽ không sợ hãi gì khi Ngày này đến.
3/ Phúc Âm: Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.
3.1/ Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu: Ông được mô tả bởi thánh sử Lucas không phải chỉ là người thu thuế như Matthew, mà còn là người đứng đầu những người thu thuế tại Jericho, một vùng rất trù phú của xứ Judah, rất gần thành Jerusalem. Tên của ông chứng tỏ ông là người Do-thái hành nghề thu thuế. Đối với người Do-thái, những người thu thuế được xếp ngang hàng với đĩ điếm, vì đã chạy theo đế quốc Rôma để bóc lột mồ hôi nước mắt của đồng bào. Tất nhiên, ông là người giàu có.
Vì tò mò, ông tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. Những người lùn thường khôn vặt, ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó. Tại thành phố Jericho hiện nay vẫn còn một cây sung rất to lớn, được vây quanh kỹ lưỡng cho khách hành hương đến thăm viếng. Họ gọi đây là cây sung mà ông Giakêu đã trèo lên để gặp Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đã nhận ra ông giữa bao nhiêu người trong đám đông. Người đi bước trước để bắt đầu tiến trình hòa giải với ông: “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”
3.2/ Ba phản ứng khác nhau của cuộc gặp gỡ:
(1) Đám đông: Họ xầm xì với nhau, “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” Đối với người Do-thái, những người thu thuế và gái điếm được coi như là những người tội lỗi công khai. Ai giao tiếp hay làm bạn với họ, cũng được coi là tội lỗi, huống hồ đây là một thủ lãnh của những kẻ thu thuế! Họ quan niệm người thánh thiện không thể làm bạn với hay vào nhà những người tội lỗi, phải tránh xa họ kẻo bị lây nhiễm hay bị mang tiếng.
(2) Ông Giakêu: Ông không ngờ Chúa Giêsu không những chú ý tới ông giữa bao nhiêu người, Ngài còn gọi đích danh ông, và ngỏ ý muốn đến nhà ông. Từ trước đến nay, mọi người Do-thái đều nhìn ông với cặp mắt khinh bỉ, thế mà hôm nay, trước mặt bao nhiêu người, Chúa Giêsu đã không đối xử với ông như thế, Ngài coi ông như một người bạn và muốn đến nhà ông, điều không người Do-thái nào muốn làm. Vì thế, ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người.
Khi nghe mọi người xầm xì và biết rõ mình là người tội lỗi, ông thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Ngài, phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” Ông hứa phân phát ngay phân nửa tài sản (động từ dùng ở thời hiện tại). Lề Luật chỉ buộc phải đền trả của lấy bất công, nhưng ông xin đền trả gấp bốn.
Niềm vui vì được Chúa tiếp nhận đã biến ông thành một con người mới: Từ trước tới nay, ông chỉ lo tìm mọi cách để vơ vét của cải từ người khác; hôm nay, ông rộng lượng vung tay phân phát của cải mình đã gom góp bấy lâu. Khi chấp nhận trở về, ông can đảm từ giã nếp sống cũ và bắt đầu cuộc sống mới theo tiêu chuẩn của Tin Mừng. Việc làm của ông có thể lấy đi tất cả những gì ông đang có; nhưng không thể so sánh với niềm vui được Chúa Giêsu tha thứ và đến viếng thăm nhà ông.
(3) Chúa Giêsu: Ngài nói về ông ta rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.”
Chúa Giêsu đến để đem ơn cứu độ cho tất cả mọi người, chứ không chỉ cho một số người được tuyển chọn. Tuy Chúa Giêsu nghe biết những lời dị nghị nhưng Ngài không quan tâm tới. Chỉ một điều Ngài quan tâm là ông Giakêu và Ngài muốn đưa ông trở về với Thiên Chúa.
Ngài thương yêu tha thứ cho ông Giakêu trước khi ông làm những việc tốt, lý do của sự tha thứ là vì mọi người đều là con cái của Ngài và là con cháu của tổ phụ Abraham. Nhận ra tình yêu tha thứ của Thiên Chúa, ông Giakêu được thúc đẩy để đáp trả.
Mục đích của Chúa Giêsu đến trần gian là để tìm và cứu những gì đã mất. Ngài đến không để cứu những người công chính, vì họ không cần cứu; nhưng để cứu chữa các tội nhân, họ là những con bệnh đang cần đến Ngài. Đúng ra, chẳng có ai là công chính, mọi người đều là những tội nhân và đang cần ơn tha thứ của Thiên Chúa. Những ai tự xưng là công chính, họ đang bị đánh lừa và mất đi cơ hội được Thiên Chúa tha thứ và ban ơn cứu độ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta có bổn phận gìn giữ và bảo vệ muôn loài Thiên Chúa đã dựng nên. Ngài dựng nên tất cả cho con người xử dụng, chứ không phải để phá hủy và tiêu diệt cách bừa bãi.
– Chúng ta phải trân quí ơn cứu độ được mang đến cho con người qua Đức Kitô, và cố gắng để đạt được và mang ơn cứu độ đến cho muôn người qua việc rao giảng Tin Mừng.
– Noi gương Đức Kitô, chúng ta cũng phải có thái độ bao dung với các người tội lỗi và tìm dịp đưa họ trở về, chứ không ghét bỏ, xua đuổi, hay kết án.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


03/11/2019 – CHÚA NHẬT TUẦN 31 TN – C
Lc 19,1-10



DA-KÊU, LÙN MÀ CAO
“Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người.” (Lc 19,6)

Suy niệm: Ông Da-kêu: Tiền bạc, thế lực, ông không thiếu. Nhưng ông lại thiếu thước. Với tầm thước đó, ông càng trở nên trò đàm tiếu khi ông vắt vẻo trên cành cây sung trước mắt mọi người. Hẳn ông là người hâm mộ Đức Giê-su, nên, mặc kệ tất cả, ông vẫn ở trên đó, chờ đợi Ngài đi ngang qua. Chỉ để được nhìn thấy ngài, dù chỉ là trong thoáng chốc. Thế nhưng từ lúc ông leo lên cây sung, ông đã lên tới một tầm cao hơn hẳn mọi người. Nhờ đó ông có một tầm nhìn xa hơn, rộng hơn. Ông có thể được nhìn thấy Đức Giê-su. Vậy mà chưa kịp nói gì hay làm gì thì Đức Giê-su đã đứng dưới gốc cây gọi ông xuống. Ông “tụt” xuống cách mau lẹ. Và khi nghe Đức Giê-su ngỏ lời ở lại nhà ông, ông đã thưa với Chúa: Một nửa tài sản, ông chia cho người nghèo; và nếu có làm thiệt hại của ai cái gì, ông sẽ đền gấp bốn. Tuy ông vẫn thấp lùn về thể lý, nhưng ông đã cao hơn vạn người. Cao hơn từ lúc ông biết “đón đầu” Đức Giê-su; cao hơn từ lúc ông ý thức chia sẻ cho người nghèo; cao hơn vì ý thức được Thiên Chúa thực sự đang ngự trong ngôi nhà của ông, trong tâm hồn ông.
Mời Bạn: Có bao giờ bạn mặc cảm tự ti vì mình có chiều cao khiêm tốn? Vì nước da không trắng như bạn bè? Vì không giỏi giang như người khác hoặc yếu kém về điều gì đó? Vì sao bạn không để Chúa Giêsu đi vào nhà bạn như Da-kêu? Có Chúa, bạn xoá bỏ được mọi mặc cảm tự ti mà chỉ ngập tràn yêu và thương.
Sống Lời Chúa: Hãy đến với Chúa và đi ra phục vụ tha nhân bằng chính những khả năng mà Chúa ban cho bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin cho con luôn tìm ra lối đi tìm gặp Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)


Con Người đến tìm và cứu (3.11.2019 – Chúa Nhật 31 TN, năm C)

Suy niệm:
Giakêu là một người thu thuế giàu có.
Tuy không thiếu gì, nhưng lòng ông vẫn khắc khoải không yên.
Ông vẫn tìm kiếm một Ai đó có thể nâng đỡ ông dậy.
Hẳn ông đã nghe người ta bàn tán về Ðức Giêsu.
Ngài chẳng sợ làm bạn với những người bị khinh như ông.
Giakêu mong có ngày thấy Ðức Giêsu.
Dịp may đã tới, ông đi với đám đông theo sau Ngài,
nhưng vẫn không sao thấy được Ngài,
vì dân chúng thì đông, còn ông lại thấp bé.
Giakêu không thất vọng.
Lòng khát mong đích thực chẳng bao giờ chịu bó tay.
Ông chạy trước đám đông và leo lên một cây sung.
Ông hí hửng với sáng kiến khôn ngoan của mình,
và tin chắc mình sẽ toại nguyện.


Giakêu núp ở trên cây, tưởng không ai trông thấy.
Nào ngờ Ðức Giêsu ngừng lại, nhìn lên và gọi tên ông.
Ngài thấy ông trước khi ông thấy Ngài.
Ánh mắt Ngài làm ông luống cuống,
nhưng lời của Ngài lại làm ông sung sướng, ngỡ ngàng:
Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông.
Niềm hạnh phúc bất ngờ làm ông ngây ngất.
Ðường từ gốc sung về nhà ông bao xa, ta không rõ,
nhưng chắc chắn đó là đường đầy ắp niềm vui.
Giakêu thấy mình mất đi những mặc cảm thấp kém.
Ông như lấy lại được danh dự trước đám đông,
bởi lẽ Ðức Giêsu sắp đến thăm nhà ông,
bất chấp những lời xầm xì phản đối.
Ông chỉ ao ước thấy mặt Ngài,
còn Ngài lại muốn bày tỏ cả bề sâu của lòng mình:
dịu dàng, tha thứ, yêu thương, tế nhị.


Hoán cải là kết quả của một cảm nhận về Tình Yêu.
Ánh mắt, lời nói, thái độ của Ðức Giêsu
đã thổi bùng lên ngọn lửa leo lét nơi Giakêu,
và khiến lòng ông tan chảy.
Bỗng chốc Giakêu thấy mình được tự do thanh thoát.
Những gì xưa nay trói buộc ông, làm ông say mê,
bây giờ trở nên vô vị.
Một cách hồn nhiên, ông dâng nửa gia sản cho người nghèo,
và xin đền gấp bốn những gì đã lường gạt.


Giakêu sẽ trở nên nghèo hơn trước,
nhưng ông hạnh phúc hơn xưa nhiều,
vì ông cũng là con cháu tổ phụ Apraham.
Ước gì chúng ta bao dung như Ðức Giêsu
và quảng đại như Giakêu.


Cầu nguyện:


Lạy Chúa Giêsu, khi đến với chúng con
Chúa thường đến như một người hành khất.


Chúa cần chút nước của người phụ nữ Samari.
Chúa cần năm chiếc bánh và hai con cá,
Chúa cần nhà ông Giakêu để nghỉ chân.
Chúa khiêm tốn cúi xuống xin chúng con,
để rồi tuôn đổ trên chúng con nhiều gấp bội.


Xin dạy chúng con biết cách đến với mọi người,
và khám phá ra đốm lửa nhỏ của sự thiện
vẫn cháy sáng nơi lòng người tội lỗi.


Ước gì chúng con nhìn tha nhân
bằng ánh mắt của Chúa,
dám hy vọng không ngơi
vào lòng tốt của mỗi người,
và can đảm tin tưởng vào sự quảng đại của họ,
nhờ đó thế giới của chúng con
trở nên nhân bản hơn và thần linh hơn.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
3 THÁNG MƯỜI MỘT
Hoa Trái Của Hiệp Nhất
Trong lời nguyện hiến tế của Người tại bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu nói: “Con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để họ cũng được thánh hiến trong sự thật” (Ga 17,19). Mối hiệp nhất được xây dựng trên sự thật, trên sự thật của Lời mạc khải, trên sự thật của chính Lời của Cha là Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ chúng ta.
Sự thật của Lời này được trao ban cho Giáo Hội trong Đức Kitô và qua các Tông Đồ là những vị đã được sai đi để làm Phép Rửa và giảng dạy nhân danh Người: “Như Cha đã sai con đến trong thế gian, con cũng sai họ đi vào thế gian” (Ga 17,18). Sự hiệp nhất của chúng ta không chỉ nhằm cho chúng ta, nhưng đúng hơn cho toàn thế giới, để thế giới có thể tin rằng Chúa Cha đã sai Con của Ngài để cứu độ chúng ta (Ga 17,21.23).
Hiệp nhất là nguồn vui và nguồn an bình của chúng ta. Đàng khác, chia rẽ và bất hòa, nhất là thù hận, thì hoàn toàn đối nghịch lại hiệp nhất. Đó là sự dữ, và đầu mối của chúng là chính Satan.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II

Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 03/11
Chúa Nhật XXXI Thường Niên
Kn 11, 22-12,2; 2Tx 1, 11-2,2; Lc 19, 1-10.
LỜI SUY NIỆM: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”
          Với thân hình thấp lùn của Dakêu ở giữa đám đông người chen lấn; ông không thể trông thấy được Chúa Giêsu; ông đã không ngại sự nguy hiểm và đàm tiếu của mọi người, ông đã trèo lên cây cao, tìm cho được một vị trí để nhìn cho rõ Chúa Giêsu; với sự chân thành này của ông. Chúa Giêsu đã ngước mắt nhìn lên ông và gọi ông xuống và gợi ý được ở lại trong nhà của ông.
          Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con được có tâm tình của Dakêu trong cách: tìm Chúa, nhìn thấy Chúa, vâng nghe Lời Chúa, rước Chúa vào trong nhà của mình. Nhờ sự hiện diện của Chúa trong lòng mình, sẽ giúp chúng con  cải thiện đời sống của minh.
Mạnh Phương

Gương Thánh Nhân
Ngày 03-11
Thánh MARTINÔ PORRES
Tu Sĩ (1579 – 1639)

1579 là niên biểu ghi nhớ ngày sinh ra của Martinô ở Lima, Pêru con của một người mẹ da đen và của một người cha hiệp sĩ và 1639 là niên biểu ghi nhớ ngày qua đời của thánh nhân. Sáu mươi năm giữa hai niên biểu này là khoảng thời gian Martinô tiến tới miền ánh sáng, trong sự khiêm tốn và hiến mình trọn vẹn để phục vụ các bệnh nhân.
Cuộc tình của cha mẹ Ngài không suông sẻ lắm, vì màu da của mẹ Ngài đã đưa đến những hất hủi không những cho bà mẹ mà còn cho cả những đứa con xấu số của bà nữa. Nhưng hoàn cảnh đen tối ấy, Martinô lại coi như nén bạc trao tay để Ngài sinh lời, thành bông hoa khiêm tốn tuyệt vời.
Hồi còn là một thiếu niên, Martinô đã chứng tỏ lòng bác ái đầy khiêm tốn phục vụ của mình. Hôm ấy khi theo chị mang thức ăn cho gia đình, Ngài nghe thấy tiếng rên rỉ của một bà lão người da đỏ. Dừng lại Ngài kinh hãi khi thấy một người lính Tây Ban Nha đang hành hạ lão. Đầy thương cảm, cậu thiếu niên Martinô cúi xuống lão già người da đỏ. Nhưng ông thù ghét cự tuyệt: Thằng nô lệ… mày đen đủi. Bọn da đen tụi mày là kẻ thù của dân da đỏ.
Nhưng người thiếu niên da đen này đã không bỏ cậu đi. Cậu nói chuyện với lão già da đỏ cách dịu dàng đến nỗi lão đã thú nhận là ba ngày rồi không ăn thứ gì vào bụng lại chẳng có con cháu gì cả. Martinô đã khóc và đưa tất cả thực phẩm cả ngày đã mua được cho lão già.
Vào thời đó, chỉ cần học một chút nghề cạo gió, cắt lể như Martinô đã học thì đã được coi là đủ để chữa nhiều loại bệnh, như Martinô đã săn sóc các bệnh nhân. Và các con bệnh có thể là loài người hay loài vật, bởi vì mọi loài đau khổ đều có quyền được người bạn da đen này khiêm tốn tận tình săn sóc. Ngài đã chữa lành một con gà tây gẫy giò. Người ta còn nói rằng: Ngài đã làm cho nhiều con vật sống lại.
Vào tuổi 15, Ngài nhập dòng Daminh như một thày dòng ba. Thày thích làm những việc khiêm tốn đến độ đã được biệt danh là “thày chổi”. Tại nhà dòng Đức bà Mân Côi, Ngài vẫn tiếp tục nghề thuốc của mình với một đức ái nhẫn nại vô bờ, như là một y tá của nhà dòng. Ngài kín múc sức mạnh trong kinh nguyện và khổ hạnh, vừa dấu mình làm việc và lần hạt Mân côi, thức đêm để cầu nguyện rồi ngủ trên cái cáng dùng khiêng xác chết.
Trong dòng Ngài cũng vẫn tiếp tục lấy tình yêu để đáp lại những bất công. Một bệnh nhân giận dữ với Martinô, nhưng Ngài đã êm ái nói với họ: – Anh giận dữ phải lẽ lắm, nhưng cơn giận có thể gia tăng cơn bệnh của anh. Hãy dùng món ăn anh thích này đi và tôi thoa bóp chân cho anh.
Ngài không hề bất nhân, nhưng lại càng lo lắng săn sóc nhiều hơn cho những người tỏ ra độc ác bất công như Ngài.
Martinô đã từ chối không lãnh chức linh mục để có thể tiếp tục làm đày tớ mọi người. Để thưởng lòng trong trắng, đức bác ái và sự khiêm tốn, Thiên Chúa đã ban cho Ngài ơn chữa bệnh, nói tiên tri và làm nhiều phép lạ. Ngài qua đời trong hương thơm thánh thiện năm 1639.
Cuộc điều tra phong thánh cho Ngài đã sớm khởi sự từ năm 1657, nhưng mãi 200 năm sau, năm 1837, Đức Giáo hoàng Grêgôriô XVI mới phong Ngài lên hàng chân phước và 100 năm sau nữa, ngày 6 tháng 5 năm 1962, Đức giáo hoàng Gioan XXIII phong Ngài lên bậc hiển thánh. Hương thơm thánh thiện của Ngài quả là không thể tan loãng theo thời gian.
(daminhvn.net)


03 Tháng Mười Một
Con Chỉ Là Một Tên Mọi Ðen

Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Martinô Porres.
Nhắc đến thánh nhân, người ta thường liên tưởng đến những ơn lạ lùng như xuất thần ngất trí trong khi cầu nguyện, như hiện diện ở hai nơi cùng một lúc, hoặc như có thể trò chuyện và điều khiển cả thú vật.
Vị thánh có lòng bác ái cao độ này lại xuất thân từ một hoàn cảnh vô cùng bi đát và đắng cay. Là con của một thiếu nữ da đen đã từng bị đem bán làm nô lệ vào một nhà quý tộc người Tây Ban Nha, Martinô đã được vị linh mục Rửa Tội ghi trong sổ bộ của giáo xứ là “con không cha”. Quả thật, con không cha như nhà không nóc. Martinô đa lớn lên trong cảnh thiếu vắng tình cha mãi cho đến năm 8 tuổi. Nhưng sau khi được chính thức thừa nhận không bao lâu, thì người cha lại bỏ rơi gia đình. Một lần nữa, cậu bé Martinô lại rơi vào cảnh khốn khổ như đa số các em bé nghèo của thành phố Lima, Pêru vào giữa thế kỷ thứ 16.
Nhưng cảnh nghèo ấy đã không gieo vào lòng cậu bé mang hai dòng máu này chút đắng cay nào. Trái lại, cậu tiếp nhận mọi biến cố xảy đến trong cuộc sống như một thách đố, như một ân sủng. 
Năm 12 tuổi, Martinô đã được học nghề hớt tóc và đôi chút xảo thuật của ngành giải phẫu. Vừa hành nghề như một người thợ hớt tóc, vừa như một y tá, Martinô đã đem hết sự hăng say và tận tụy của mình để phục vụ những người nghèo đồng cảnh ngộ.
Nhưng nhận thấy chỉ có thể sống trọn Ðức Ái trong một tu viện, Martinô đã đến gõ cửa một nhà dòng Ðaminh để xin được làm trợ sĩ trong nhà. Bí quyết nên thánh của thầy Martinô là sám hối cầu nguyện và phục vụ, nhất là phục vụ trong những công việc vô danh nhất. Lần kia, nhà dòng mang nợ đến độ không thể bảo đảm được các nhu cầu của các tu sĩ, thầy Martinô đã đến thưa với Bề trên như sau: “Thưa cha, con chỉ là tên mọi đen. Xin hãy bán con đi”. 
Sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình cho người khác, thầy Martinô cũng luôn nhận tất cả phần lỗi về mình. 
Ôn lại gương hy sinh, cầu nguyện và bác ái của thánh Martinô, không những chúng ta chỉ chạy đến xin ngài bầu cử trong những lúc gặp gian nan thử thách, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là lòng tin thác vào Chúa quan phòng của thánh nhân mà chúng ta cần học hỏi, nhất là trong giai đoạn gặp khó khăn này. 
Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người. Ðó phải là niềm xác tín của chúng ta. Một Thiên Chúa quan phòng là Ðấng có thể biến tất cả những đắng cay, buồn phiền, thất bại, khổ đau trong cuộc sống con người thành khởi đầu của một nguồn ơn cao quí hơn. Cũng như loài ong chỉ rút mật ngọt từ bao nhiêu vị đắng cay của cánh hoa, cũng thế, người có niềm tin luôn có thể rút tỉa được những sức đẩy mới từ những thất bại rủi ro trong cuộc sống. Thánh Martinô đã không hận đời đen bạc vì bị người cha bỏ rơi, mà trái lại xem đó như một dịp may để cảm thông, để học hỏi và để phục vụ người khác hữu hiệu hơn. “Hạt lúa rơi xuống đất có mục nát đi mới trổ sinh được nhiều bông hạt”. Ðó là định luật của cuộc sống. Thập giá trong cuộc sống thường là khởi đầu và cơ may cho một vươn lên cao hơn. 
Chúng ta thường chạy đến khẩn cầu với thánh Martinô trong cơn hoạn nạn thử thách, chúng ta cũng hãy noi gương ngài để phó thác cho Tình Yêu quan phòng của Chúa, và nhất là xin Ngài cũng giúp chúng ta luôn biết lấy Tình Thương để thắng vượt những ngược đãi của người đời, cũng luôn biết sẵn sàng phục vụ và phục vụ bằng chính mạng sống của mình.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét