03/11/2019
Chúa Nhật 31 Thường
Niên năm C
(phần II)
Phụng Vụ Lời
Chúa: Chúa Nhật 31 Thường niên năm C
Kn 11,22 -
12,2; 2 Tx 1,11 - 2,2; Lc 19,1-10
TÌNH THƯƠNG VÀ LÒNG BAO DUNG CỦA THIÊN CHÚA
“Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10)
Thiên Chúa là Đấng
sáng tạo quyền năng: “Một lời CHÚA phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở
tạo thành muôn tinh tú” (Tv 33,6). Và quyền năng của Ngài được biểu lộ cách tỏ
tường hơn cả khi Ngài thương xót và thứ tha (x. Sách Lễ Rôma, Lời
nguyện nhập lễ Chúa nhật XXVI Thường Niên). Các bài đọc Lời Chúa hôm nay cho thấy
một Thiên Chúa sáng tạo quyền năng nhưng lại rất giàu tình thương và lòng bao
dung như thế.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1:
Đoạn sách Khôn Ngoan
là một bài ca tuyệt đẹp về Thiên Chúa: Ngài là Đấng sáng tạo, yêu thương và
khoan dung với tất cả mọi loài mà Ngài đã dựng nên.
Trước hết, Thiên Chúa
là Đấng sáng tạo. Ngài ban cho muôn vật muôn loài sinh khí bất diệt của Ngài
(x. Kn 12,1), để chúng được sống và được hiện hữu theo như ý Ngài muốn (x. Kn
11,25). Dù trước Thánh Nhan Chúa, toàn thể vũ trụ chỉ như hạt cát trên bàn cân,
tựa giọt sương rơi trên mặt đất (Kn 11,22), nhưng không có loài nào tồn tại
ngoài ý định của Ngài. Quả vậy, Thiên Chúa không chỉ sáng tạo muôn vật muôn
loài mà còn chăm sóc, duy trì để chúng hiện hữu trong sự quan phòng của Ngài.
Sau nữa, Thiên Chúa là
Đấng yêu thương. Ngài yêu thương hết mọi loài hiện hữu, không ghét bỏ bất cứ
loài nào, vì nếu ghét loài nào thì Ngài đã chẳng dựng nên (x. Kn 11,24). Như vậy,
bất cứ loài nào, dù nhỏ bé và ít quan trọng đến mấy, đều được Thiên Chúa yêu
thương. Tình thương đó không loại trừ bất kỳ ai, không phân biệt đối xử với
loài nào, nhưng đón nhận tất cả, ôm lấy mọi loài và quan tâm đến mọi vật.
Cuối cùng, Thiên Chúa
là Đấng khoan dung. Ngài yêu sự sống, xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều
là của Chúa. Thiên Chúa yêu sự sống nên không muốn bất cứ loài nào vì lỗi phạm
mà phải chết. Vì thế, Ngài “nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người,để
họ còn ăn năn hối cải” (Kn 11,23b). Ngài kiên nhẫn chờ đợi những ai lỗi phạm và
sửa dạy từ từ, cảnh cáo và nhắc nhở, để người ta từ bỏ điều ác mà tin vào Chúa
(x. Kn 12,2).
Tóm lại, qua công
trình sáng tạo, Thiên Chúa biểu lộ tình yêu đối với muôn vật muôn loài. Tình
yêu của Ngài loại trừ khả năng Ngài ghét bỏ bất cứ loài nào Ngài đã sáng tạo.
Vì thế, khi con người phạm tội, Thiên Chúa vì lòng khoan dung mà tha thiết chờ
mong họ ăn năn hối cải mà được sống.
2. Bài đọc 2:
Tác giả lá thư cầu
nguyện cho các tín hữu Thêxalônica sống xứng đáng với ơn gọi Kitô hữu; đồng thời,
căn dặn họ đừng hoảng sợ trước những thông tin về ngày Chúa quang lâm.
Trước hết, tác giả cầu
nguyện cho các tín hữu Thêxalônica: Xin Chúa giúp họ sống xứng đáng với ơn gọi
là Kitô hữu; đồng thời, xin Chúa hoàn tất những điều tốt đẹp mà họ làm vì lòng
tin. Thật vậy, mọi Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh, nghĩa là nên giống
Thiên Chúa là Đấng Thánh. Ơn gọi nên thánh đó còn đòi buộc các Kitô hữu làm những
việc lành, dưới sự thúc đẩy của lòng tin. Chính lòng tin được thể hiện qua những
việc lành mới thật là lòng tin sống động (x. 1 Tx 1,3; Gc 2,14-17.26). Đời sống
đức tin của người tín hữu được nuôi dưỡng bằng những việc lành thánh chính là
cách để Đức Giêsu được tôn vinh và các tín hữu cũng được tôn vinh nơi Người.
Sau nữa, tác giả đưa
ra những chỉ dẫn cho các tín hữu về ngày Chúa quang lâm. Đứng trước những tin đồn
về ngày quang lâm, tác giả khuyên nhủ các tín hữu đừng để cho tinh thần dao động
và hoảng sợ. Thật vậy, thánh Phaolô đã từng nói đến ngày quang lâm (x. 1 Tx
4,15-18) trong đó mọi người sẽ được biến đổi (x. 1 Cr 15,51). Đó không phải là
ngày gây nên sự lo lắng, hoảng sợ cho các tín hữu; trái lại, đó là ngày an ủi
(x. Tt 2,13; 2 Tm 4,8) dành cho những ai sống trung tín với Thiên Chúa theo ơn
gọi nên thánh (x. 2 Tx 1,11).
Tóm lại, ngày quang
lâm không phải là ngày đáng sợ nếu các Kitô hữu sống đúng với ơn gọi nên thánh
trong bậc sống của mình và thể hiện đức tin bằng những việc làm lành thánh.
3. Bài Tin Mừng:
Bài Tin Mừng cho thấy
hành trình ông Giakêu đi tìm kiếm điều ông hằng khát khao và cuối cùng ông đã gặp
được Đức Giêsu là Đấng đang tìm kiếm để cứu ông.
Trước hết, ông Giakêu
“tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai” (Lc 19,3). Có lẽ ông đã được nghe biết
về Chúa Giêsu như là một người có nhiều cảm tình với những người thu thuế (x.
Lc 15,1), nhưng việc ông muốn gặp Chúa Giêsu không chỉ vì một sự tò mò bên
ngoài mà là sự khao khát tìm kiếm điều gì đó sâu xa hơn. Vì vóc dáng ông thấp
bé nên ông bị đám đông cản trở; vì ông bị xem là hạng tội lỗi nên bị đám
đông loại trừ, ngăn cản ông đến gần Chúa Giêsu. Dẫu vậy, vì khát khao không chỉ
muốn “thấy” Chúa mà còn muốn khám phá “Người là ai”, ông chấp nhận đánh mất
lòng kiêu hãnh và thể diện (x. Lc 19,4) để được Chúa đoái nhìn (x. Lc 19,5). Và
khi được Chúa Giêsu nhìn đến, ông không chỉ mau mắn đón tiếp Người, mà còn đón
tiếp với tất cả niềm hân hoan, vui sướng (x. Lc 19,6) của một người gần kề ơn cứu
độ (x. Lc 19,9).
Sau nữa, dù ông Giakêu
được mô tả như người tìm cách để gặp Chúa Giêsu, nhưng chính Chúa Giêsu mới là
người thấu tỏ mong ước gặp gỡ của ông; Người biết rõ nơi ông đang ở (trên cây
sung) và chủ động đến ngay chỗ đó để cho ông được nhìn thấy Người (x. Lc 19,5).
Người biết rõ ông là ai (gọi đích danh ông là Giakêu), biết ông đang khao khát
điều gì nên chủ động đề nghị ở lại nhà ông. Tất cả những hành động này của Chúa
Giêsu cho thấy vai trò chủ động của Người trong việc dẫn dắt ông Giakêu đến ơn
cứu độ.
Cuối cùng, cuộc gặp gỡ
với Chúa Giêsu đã làm ông Giakêu thay đổi, nhất là thái độ dứt khoát đối với của
cải. Ông đã quyết định chọn một cách sống mới và hành động bác ái của ông là
hoa trái của cách sống mới này. Dù ơn cứu độ là một ân ban của Thiên Chúa,
nhưng không phải không có những điều kiện. Một trong những điều kiện đó là thái
độ đối với của cải. Nếu ông Giakêu trở nên giàu có do sự chiếm đoạt bất chính bằng
nghề thu thuế, thì việc ông chia phân nửa của cải cho người nghèo và đền gấp bốn
cho những người ông đã chiếm đoạt làm cho ông không còn nằm trong số những người
giàu có nữa mà thuộc vào số những người nghèo, những người biết cậy dựa vào
Thiên Chúa hơn là của cải.
Tóm lại, câu chuyện về
ơn cứu độ của ông Giakêu là một hành trình “tìm kiếm” và “tìm thấy”. Từ đầu câu
chuyện ông được mô tả như một người tìm kiếm cho biết Chúa Giêsu là ai, nhưng
khi câu chuyện kết thúc, ta mới vỡ lẽ rằng chính Chúa Giêsu mới là người đi tìm
và cứu ông. Dù ông Giakêu là người muốn thấy và tìm cách vượt qua những trở ngại
để được thấy Chúa Giêsu, nhưng Chúa Giêsu mới là người biết ông đang ở đâu,
đang khao khát điều gì và chủ động cho ông được gặp Người; cuộc gặp gỡ đã biến
đổi đời ông. Thánh Luca trình bày ông Giakêu như một người “tìm kiếm”, nhưng
Chúa Giêsu mới là người “tìm thấy” và cứu độ ông. Đó chính là sứ mạng của Chúa
Giêsu, Đấng đi “tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10).
II. GỢI Ý ÁP DỤNG:
1/ Đoạn sách Khôn
Ngoan cho thấy một mặc khải quan trọng và tuyệt đẹp về Thiên Chúa: Ngài không
chỉ là Đấng sáng tạo quyền năng, mà còn là Đấng đầy yêu thương đối với muôn
loài muôn vật. Và vì tình thương, Ngài tỏ ra khoan dung với những người có lỗi
và chờ đợi họ sám hối để ban ơn thứ tha. Nếu mỗi Kitô hữu chúng ta thấu hiểu được
nỗi lòng của một Thiên Chúa sáng tạo, yêu thương và khoan dung như thế, hẳn
chúng ta sẽ quyết tâm sống sao để không phụ lòng Ngài.
2/ Đối với tác giả thư
thứ hai gởi các tín hữu Thêxalônica, hoang mang hay lo sợ không phải là thái độ
đúng đắn trong lúc chờ đợi ngày Chúa quang lâm. Dù Chúa đến lúc nào đi nữa thì
điều cần thiết là sống đúng ơn gọi của người Kitô hữu, nghĩa là sống trung tín
với Thiên Chúa và thể hiện đức tin bằng những việc lành. Đó là cách thức xứng hợp
để tôn vinh Chúa Giêsu và được Người tôn vinh trong ngày Người đến lần thứ hai.
3/ Ông Giakêu khát
khao tìm kiếm Chúa. Ông vượt qua những trở ngại không chỉ để được nhìn thấy
Chúa Giêsu cho thoả trí tò mò, mà quan trọng hơn là để khám phá Người là ai.
Hơn nữa, cuộc gặp gỡ giữa ông và Chúa Giêsu nằm trong kế hoạch của Đấng đến để
tìm và cứu những gì đã mất. Chính cuộc gặp gỡ đó đã làm thay đổi hoàn toàn con
người của ông Giakêu, từ một người làm giàu bất chính thành một người dám từ bỏ
của cải vì Chúa và vì tha nhân, từ một kẻ tội lỗi bị người ta bị ghét bỏ, loại
trừ, thành người được Chúa Giêsu đón vào trong cộng đoàn những người được cứu độ.
Bất cứ ai tìm kiếm Thiên Chúa với lòng khát khao ơn cứu độ cũng sẽ gặp được Đức
Giêsu là Đấng cứu độ muôn người, Đấng đến để tìm kiếm và cứu những gì đã mất.
III. LỜI NGUYỆN CHUNG:
1. Hội Thánh có sứ vụ
loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa cho thế giới. Chúng ta cùng cầu nguyện
cho Đức Giáo hoàng Phanxicô, các Đức Giám mục, linh mục và mọi thành phần dân
Chúa luôn ý thức thực thi sứ vụ cao quí ấy qua những nỗ lực “tân phúc âm hóa” đời
sống xã hội, cộng đoàn và gia đình.
2. Chúa nói với ông
Giakêu: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho các dân
tộc và quốc gia chưa được đón nhận đức tin, xin cho các nhà lãnh đạo tại đó có
thêm thiện chí và những chính sách phù hợp để người dân có điều kiện lắng nghe
và đón nhận Tin Mừng cứu độ.
3. “Con Người đến tìm
kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho những người lầm
lạc tội lỗi, cách riêng những bạn trẻ đang chịu ảnh hưởng nặng nề bởi nền văn
minh sự chết, biết tin tưởng cậy trông vào lòng thương xót Chúa, quyết tâm hoán
cải và tích cực làm lại cuộc đời.
4. Kitô hữu được mời gọi
cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi
người trong cộng đoàn chúng ta biết ý thức và hoàn tất ơn gọi của mình qua việc
chu toàn bổn phận hằng ngày, luôn nỗ lực sống đức ái với mọi người, đặc biệt là
những người nghèo khổ thiếu thốn.
Chủ tế: Lạy
Thiên Chúa là Cha từ bi nhân hậu, xin thương nhận lời chúng con thành tâm kêu cầu
và giúp chúng con khi sống ở đời biết lo tìm kiếm và sẵn sàng đón nhận ơn cứu
độ Chúa ban qua Đức Giêsu Kitô. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
Sợi Chỉ Đỏ Chúa Nhật 31 TN C
Chủ đề :
Chúa cứu vớt người tội lỗi
Ông
Dakêu (Lc 19,1-10)
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I :
“Chúa nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải”
– Đáp ca : “Chúa
là Đấng chậm giận và giàu tình thương”
– Tin Mừng : “Con
Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”
I. Dẫn vào
Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay sẽ
cho ta thấy Chúa Giêsu đi tìm và cứu vớt một người tội lỗi là ông Dakêu. Chúa
cũng đi tìm và cứu vớt chúng ta nếu chúng ta mở rộng cửa lòng cho Chúa vào.
Chúng ta hãy mở rộng cửa
lòng mình và bắt đầu Thánh lễ.
II. Gợi ý sám
hối
– Rất nhiều lần Chúa đứng
trước cửa lòng chúng con và gõ cửa, nhưng chúng con đã không mở ra.
– Chúa biết chúng con
nhiều tội lỗi và Chúa chờ chúng con sám hối để Chúa tha. Nhưng chúng con vẫn thờ
ơ.
– Nhiều lần Chúa nhìn
chúng con và lên tiếng kêu gọi chúng con như Chúa đã nhìn và kêu gọi ông Dakêu.
Nhưng chúng con không đáp lại.
III. Lời Chúa
1.
Bài đọc I (Kn 11,22–12,2)
Nhìn lại lịch sử, tác
giả sách Khôn ngoan khám phá được đường lối hành xử của Thiên Chúa : Ngài
đối xử rất khoan hồng đối với những người tội lỗi.
Tác giả cũng thấy được
lý do của cách hành xử ấy : “vì Chúa yêu sự sống” và không muốn ai phải chết.
Bởi thế “những ai sa ngã, Ngài sửa dạy từ từ… để họ bỏ điều ác”.
2.
Đáp ca (Tv 144)
Ca tụng lòng nhân từ của
Chúa : “Ai quỵ ngã Chúa đều nâng dậy. Kẻ bì đè nén, Ngài cho đứng thẳng
lên”
3.
Tin Mừng (Lc 19,1-10)
Mở đầu câu chuyện, ông
Dakêu được mô tả là kẻ tội lỗi : thu thuế (lại còn “đứng đầu những người
thu thuế”) và lo thu tích của cải (“và là người giàu có”) – Cuối câu chuyện,
ông thay đổi hẳn : “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này” ; phân phát
tài sản cho người nghèo (là điều Chúa Giêsu thường khuyên làm. x. Lc 12,33-34
16,1-8 16,9-13 v.v.) ; đền bù những thiệt hại đã gây cho người khác.
Có hai nhân tố tạo nên
sự thay đổi đó :
– một là những cố gắng của chính Dakêu : “tìm cách xem” mặt Chúa Giêsu,
“chạy tới phía trước”, “leo lên một cây sung để xem Chúa Giêsu”.
– hai là lòng nhân từ của Chúa Giêsu : Ngài “nhìn lên” ông, Ngài gọi ông
“xuống mau đi”, Ngài đưa đề nghị đến nhà ông “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”.
Chúa Giêsu tự giới thiệu là “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”.
4.
Bài đọc II (2 Tx 1,11–2,2)
Ở giáo đoàn
Thêxalônica, một số tín hữu cho rằng ngày tận thế đã gần đến. Vì thế họ đâm ra
lười biếng không muốn làm việc nữa.
Thánh Phaolô viết thư
khuyên tín hữu đừng tin vào những luận điệu ấy.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Ông
Giakêu hoán cải trở lại
Câu chuyện được kể lại
trong bài Tin Mừng hôm nay có nhiều tình tiết diễn biến như một vở kịch sinh động.
Vậy chúng ta hãy theo dõi lần lượt những diễn biến đó.
– Khởi đầu nhân vật thứ
nhất xuất hiện. Đó là Chúa Giêsu. Ngài đang đi trên lộ trình ngang qua thành
Giêricô để tiện về thành Giêrusalem. Ngài chỉ đi như vậy thôi hay là còn có một
mục đích nào khác nữa không ? Câu chót của đoạn Tin Mừng này cho thấy Chúa
không phải chỉ đi lang thang, mà có mục đích rõ ràng, đó là để “tìm cứu vớt những
gì đã hư hỏng”.
– Tới phiên nhân vật
thứ hai xuất hiện, đó là ông Giakêu, một người giàu có nổi tiếng ở thành phố
Giêricô này. Ông làm giàu nhờ nghề nghiệp của ông, trưởng ban thu thuế. Dĩ
nhiên nếu chỉ có đồng lương hàng tháng thì ông không giàu như vậy được. Sở dĩ
ông giàu là vì ông đã gian lận trong việc thu thuế. Ai cũng coi ông là một kẻ tội
lỗi. Phần Giakêu dù giàu nhưng vẫn thấy thiếu thốn một cái gì đó trong tâm hồn,
ông đang muốn tìm cái đó thì hay tin có Chúa Giêsu đang đi ngang qua thành phố.
Ông vội vàng chạy tới để mong gặp được Ngài. Nhưng dân chúng thì đông, mà ông
thì thấp lùn không thể nhón gót lên mà thấy Ngài được, nên ông trèo lên một cây
sung cho dễ nhìn.
– Xin hãy chú ý nghĩa
của những chi tiết này : Chúa Giêsu đang đi tìm người tội lỗi, và người tội
lỗi cũng đang đi tìm Chúa. Hai bên gặp nhau và ơn cứu rỗi được thực hiện. Ơn Cứu
rỗi là kết quả của sự găp gỡ của 2 phía : phía Chúa và phía người tội lỗi.
Nếu Chúa không đi tìm thì chẳng ai được cứu rỗi. Nhưng dù Chúa có tìm mà người
tội lỗi không đáp lại thì cũng chẳng có ơn cứu rỗi. Phải có sự hợp tác của cả 2
phía.
– Khi hai nhân vật ấy
gặp nhau, thì ai lên tiếng trước ? Thưa là Chúa Giêsu. Ngài nhìn lên cây
sung và nói với Giakêu. Xin chú ý lần nữa, chi tiết Chúa Giêsu lên tiếng trước
cũng có ý nghĩa lắm : mặc dù ơn cứu rỗi là sự hợp tác giữa 2 phía, nhưng sáng
kiến khởi đầu là từ phía Chúa.
– Chúng ta hãy theo
dõi tiếp câu chuyện. Chúa Giêsu lên tiếng trước, nhưng Ngài nói gì ? Chúa
nói “Ông Giakêu ơi, xuống mau đi vì hôm nay tôi cần đến trọ ở nhà ông”. Lại một
lần nữa xin chú ý : Chúa Giêsu quả là người tế nhị. Chúa muốn giúp ông
Giakêu nhưng lại nói là Chúa cần ông giúp đỡ. Tế nhị là ở chỗ đó, để sau đó ông
Giakêu không ngại nhận sự giúp đỡ của Chúa.
– Bây giờ tới nhóm
nhân vật thứ ba, là quần chúng. Khi họ nghe Chúa Giêsu nói là muốn đến ở trọ
nhà một tên thu thuế tội lỗi như vậy thì họ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng :
không lẽ nào một người thánh thiện như Chúa Giêsu mà lại đến ở nhà một người tội
lỗi như ông Giakêu sao ?
– Phần ông Giakêu thì
quá mừng rỡ trước đề nghị của Chúa Giêsu. Ông tức khắc có một quyết định là từ
nay sẽ chấm dứt lỗi làm ăn tội lỗi cũ. Ông sẽ lấy phân nửa tài sản của ông để bố
thí cho những người nghèo. Còn đối với những người đã bị ông gian lận tiền bạc
thì ông sẽ đền cho họ gấp bốn. Chúng ta nên biết rằng theo luật đạo Do thái ai
phạm tội lỗi đức công bình mà muốn được tha thì tùy mức tội nặng nhẹ mà phải đền
bù với mức độ khác nhau : nhẹ thì đền trả đủ số và cộng thêm 1/5 ; nặng
thì phải đền gấp đôi. Ông Giakêu xin đền gấp bốn nghĩa là ông tự thú tội ông
quá năng. Còn theo luật Rôma thì đối với những tội trộm cắp công khai thì phải
đền gấp bốn. Ông Giakêu xin đền gấp bốn tức là ông cũng thừa nhận mình là một
tên tội lỗi công khai. Cho nên quyết định của ông vừa là khiêm nhường, vừa là
công bình vừa là bác ái.
– Nhưng khi Giakêu chịu
bỏ ra phân nửa tài sản đó bố thí cho kẻ nghèo, lại sẵn sàng đền gấp bốn cho những
ai bị ông làm thiệt hại thì tính ra số tiền ông phải bỏ thật quá nhiều. Ông làm
như vậy có phải là quá đáng không ? Hay hỏi cách khác : ông có tiếc
vì phải bỏ quá nhiều như vậy không ? Thưa chắc chắn là không, vì chính ông
tự nguyện làm như thế. Vả lại cái mà ông bỏ đi so với cái mà ông nhận được, tức
là ơn tha thứ, thì chẳng thấm tháp vào đâu cả. Cho nên ông không hề tiếc. Hơn nữa,
cuộc trở lại nào mà không phải từ bỏ.
– Chúng ta hãy dừng lại
ở tư tưởng chót này : Bất cứ cuộc trở lại nào cũng đòi phải từ bỏ. Một người
từ trước tới giờ không có đạo, tin vào đủ thứ mê tín dị đoan, nay trở lại theo
đạo thì phải từ bỏ tất cả những mê tín dị đoan ấy chỉ còn tin vào một mình Chúa
duy nhất mà thôi. Một người bấy lâu nay không giữ đạo, sống bê tha tội lỗi, nay
muốn ăn năn trở lại thì cũng phải từ bỏ con đường tội lỗi cũ. Đó là những cuộc
trở lại lớn. Còn những cuộc trở lại nhỏ hơn thì cũng thế, cũng phải từ bỏ. Từ
trước tới giờ, anh làm ăn bằng những mánh khóe gian lận, nay anh muốn trở lại sống
tốt thì tức nhiên anh phải bỏ những món tiền gian lận ấy. Chứ không thể nào vừa
muốn sống đàng hoàng mà vừa tiếp tục những kiểu làm ăn gian lận cũ được. Hay từ
trước tới giờ anh quen nhậu nhẹt rượu chè say sưa, làm cho gia đình buồn khổ,
làm cho phẩm cách mình bị hạ thấp, nay anh muốn sống tử tế lại thì đương nhiên
anh phải bỏ tật rượu chè say sưa ấy. Có một số người ghiền rượu đã nói rằng :
bỏ rượu thì nếu cố gắng một chút chắc sẽ bỏ được, nhưng cái khó là như người ta
nói, muốn bỏ rượu thì phải bỏ bạn luôn. Gương từ bỏ hết sức quảng đại của ông
Giakêu là câu trả lời cho thắc mắc đó : Nếu thực tình muốn sống đàng hoàng
hơn, thì phải thực sự bỏ rượu, mà nếu vì bỏ rượu mà mất bạn, thì cũng phải đành
mất vậy thôi. Bởi vì chân lý đã được nêu rõ trong bài Tin Mừng này : bất cứ
cuộc trở lại nào, dù lớn dù nhỏ, cũng đòi ta phải từ bỏ hết.
Niềm vui sướng của ông
Giakêu khi trở lại là một niềm vui rất lớn. Lớn đến nỗi ông trở thành một con
người hết sức hào phóng, quảng đại bỏ đi hơn phân nửa tài sản của mình mà cũng
không tiếc. Nếu chúng ta trở lại từ những gì xấu xa khuyết điểm cũ của ta để sống
đàng hoàng tử tế hơn, thì chắc chúng ta cũng sẽ hưởng được niềm vui sướng to lớn
như vậy trong tâm hồn. Nhưng, như Tin Mừng hôm nay dạy, bất cứ cuộc trở lại nào
cũng đòi hỏi phải từ bỏ. Vậy, trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa ban
thêm ơn giúp chúng ta can đảm từ bỏ, để chúng ta được vui mừng trong niềm vui
trở lại.
* 2. Có một
cái nhìn như thế
Nhiều đệ tử đang theo
học Thiền định dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Một người trong bọn họ
thường hay thức dậy ban đêm, vượt tường ra phố để dạo mát cho thoả thích.
Một đêm kia, Sengai đi
giám thị phòng ngủ, thấy một đệ tử vắng mặt và cũng khám phá ra được chiếc ghế
đẩu cao mà anh ta thường dùng để leo qua tường. Sengai dời chiếc ghế đi chỗ
khác và đứng thay vào chỗ đó. Khi anh chàng rong chơi trở về, không biết rằng
Sengai là chiếc ghế, anh ta đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống đất. Lúc khám
phá ra việc mình đã làm, anh ta hoảng sợ, nhưng Sengai nhẹ nhàng bảo :
– Sáng sớm hôm nay trời
lạnh lắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy ?
Từ đó, người đệ tử ấy
không bao giờ bỏ ra ngoài ban đêm nữa. Anh chuyên tâm học tập và trở thành người
đệ tử gương mẫu của thầy Sengai.
*
Thiên Chúa không những
tế nhị, dịu dàng, và nhân từ như thầy Sengai mà Người còn khoan dung, tha thứ
và yêu thương những con người tội lỗi.
Ông Gia kêu là một trưởng
ty thuế vụ thành Giêricô, một người giàu có vì lạm thu bất chính. Ông bị liệt
vào số những kẻ tội lội, bị khai trừ và khinh bỉ. Chúa Giêsu không nhìn ông bằng
con mắt ấy, Người ngước nhìn ông đang ngồi trên cây sung ; một cái nhìn
thân thiện, có sức cảm hoá tâm hồn ; một cái nhìn nhân từ như không thấy tội
gì trong ông. Chính cái nhìn đầy chân tình và yêu thương ấy đã khiến ông nhìn lại
chính mình và quyết tâm đổi mới.
Người nói với
ông : “Này Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà
ông !” (Lc 19,5). Hạnh phúc quá bất ngờ : Người không chỉ biết
ông đang ở trên cây mà còn biết cả tên ông. Người không chỉ muốn đến thăm mà
còn xin ở lại nhà ông. Ông chỉ có một ao ước nhỏ nhoi là được nhìn thấy Người,
nhưng Người lại cho ông cả một ân huệ lớn lao vượt quá lòng ông mong ước. Ông
chỉ muốn thấy kẻ đã chữa cho anh mù Báctimê là người thế nào, nhưng chính Đấng ấy
lại chữa lành đôi mắt tâm hồn ông.
Vâng, chính đôi mắt
tâm hồn ông đã bừng sáng, để ông không chỉ thấy một con người bình thường trước
mặt, nhưng còn thấy Người chính là Đấng ban ơn cứu độ, đầy lòng nhân từ và xót
thương ; để ông không chỉ thấy tiền bạc là tất cả nhưng còn thấy cần chia
sẻ và trao ban. Ông đã quá vui mừng hứa với Chúa : “Thưa Ngài, này
đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của
ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,8). Và chúa chỉ chờ có thế, để
nói với mọi người : “Ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này
cũng là con cháu tổ phụ Ápraham” (Lc 19,9). Thật vậy, ở đâu có Chúa hiện
diện là có ơn cứu độ, ở đâu có ơn cứu độ là có sự tha thứ. Ông Giakêu đã được
thứ tha để được nhận lại làm con cái Ápraham, con cái của lòng tin, con cái của
Thiên Chúa.
Và chắc chắn, không ai
có thể ngăn cản ông ngồi đồng bàn với Chúa, trong bữa tiệc hân hoan ngay sau
đó. Chắc chắn, ông Gia kêu không còn giàu có như trước nữa, nhưng ông sẽ hạnh
phúc hơn nhiều. Chắc chắn thân xác ông vẫn lùn như xưa, nhưng tâm hồn ông đã
cao thượng hơn gấp bội. Những người được Chúa “tìm đến và cứu chữa” bao
giờ cũng trỗi vượt trong nhân cách và kiên vững trong lòng tin.
*
Lạy Chúa, có rất nhiều
người cần chúng con nhìn họ với cái nhìn của Chúa. Có rất nhiều người mong
chúng con ghé thăm.
Xin cho chúng con một
tấm lòng khoan dung như Chúa, và một tâm hồn quảng đại như Giakêu, để cả thế giới
này trở nên con cái Ápraham, và được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa. Amen.
* 3. Hoán cải
bằng con tim
Chắc hẳn Dakêu đã nghe
người ta nói nhiều điều tốt về Chúa Giêsu. Nhưng ông muốn chính mình gặp Ngài,
lý do thứ nhất là để xem tướng mạo Ngài ra sao, và lý do thứ hai quan trọng hơn
là để biết con người của Ngài thế nào.
Hôm đó cũng có rất
đông người muốn nhìn thấy Chúa Giêsu. Họ ở cạnh Ngài, họ bao quanh Ngài. Còn
Dakêu thì không đến gần được, ông phải trèo lên một cây sung. Thế mà Chúa Giêsu
lại đặc biệt để ý tới ông. Thật sung sướng khi được người khác để ý tới.
Tuy nhiên, để ý tới ai
không hẳn chỉ là để chăm sóc hay khen ngợi người đó. Nếu người đó là kẻ xấu thì
có thể người ta để ý tới để mà dò xét hay khiển trách. Dakêu là người xấu,
nhưng Chúa Giêsu để ý tới ông không phải để khiển trách. Ngài dừng lại và nhìn
lên ông. Dakêu hiểu là Chúa Giêsu quan tâm đến ông. Được để ý tới là sung sướng,
được quan tâm lại càng sung sướng hơn.
Chúa Giêsu còn nói với
Dakêu nữa. Đặc biệt là Ngài không nói một lời nào về những tội lỗi của ông.
Thay vào đó Ngài gọi đích danh ông “Này ông Dakêu”. Rồi Ngài gọi ông xuống “Xuống
mau đi”. Ngài còn ngỏ ý muốn đến trọ nhà ông “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”.
Điều này không ai ngờ. Dakêu không ngờ, mà tất cả mọi người có mặt ở đó cũng
không thể ngờ một người đạo đức như thế mà lại đến trọ nhà một người tội lỗi
công khai. Dakêu sung sướng quá, “Ông vội vàng trèo xuống và mừng rỡ đón rước
Ngài”. Ban đầu ông chỉ mong nhìn được Chúa Giêsu một cái thôi. Bây giờ ông được
nhìn Ngài mặt đối mặt và sắp được ở chung với Ngài ngay trong nhà của ông nữa.
Dakêu đã biết chẳng những
tướng mạo mà cả con người của Chúa Giêsu. Ông còn biết được tâm hồn dạt dào yêu
thương của Ngài nữa.
Và khi nhìn thấy tâm hồn
Chúa Giêsu rồi, Dakêu cũng nhìn lại tâm hồn của ông : một tâm hồn đầy tội
lỗi. Ông thấy đời mình bấy lâu nay như một sa mạc khô cằn, thế mà hôm nay Chúa
Giêsu lại đến, như một cơn mưa rào.
Thế là Dakêu hoán cải.
Cuộc hoán cải thể hiện bằng những hành động cụ thể : đền bồi tất cả những
thiệt hại đã gây ra cho người khác, và phân chia tài sản mình cho những người
nghèo. Đây không phải là hoán cải chỉ bằng ý muốn mà bằng cả con tim :
Dakêu đã biết xót xa cho những người bị ông làm thiệt hại, và biết yêu thương
những người nghèo khổ. Đây chính là sự hoán cải thật, vì con tim có hoán cải
thì cuộc đời mới hoán cải thật.
Con tim của Dakêu hoán
cải nhờ Chúa Giêsu đã để ý tới ông, quan tâm ông, đối xử nhẹ nhàng với ông.
Goethe đã viết : “Hãy đối xử với một người như người ấy là, và
người ấy sẽ xấu hơn. Hãy đối xử với người ấy như người ấy phải là,
hoặc như người ấy muốn là, và người ấy sẽ tốt hơn. Bởi vì những ước
muốn trong chúng ta chính là phần tốt nhất của con người chúng ta”.
Chúa Giêsu hiểu rằng
những việc làm xấu của Dakêu không phải là toàn phần con người của ông ;
Ngài hiểu trong ông còn có phần tốt, phần muốn làm điều tốt và có khả năng làm
những điều tốt ấy. Ngài đã khơi lên chính cái phần tốt ấy.
Cuộc hoán cải của
Dakêu là hoán cải con tim, là hướng con tim về điều tốt.
Cũng giống như Dakêu,
trong con người chúng ta cũng có phần tốt mặc dù có thể phần tốt ấy xưa nay bị
những việc xấu chèn ép và chưa phát huy ra. Hãy hoán cải con tim bằng cách để
Chúa để ý đến ta, quan tâm ta, nói với ta, trọ trong tim ta và đánh động con
tim ta.
* 4. Từ đứng
nhìn đến tham dự
Nhiều khi chúng ta xem
Tivi, thấy những cảnh nghèo, cảnh khổ, cảnh tai nạn… Chúng ta cảm động. Nhưng
chỉ một thoáng thôi. Sau đó tới phần chiếu phim, chúng ta say sưa theo dõi chuyện
phim, những xúc động kia đã tan biến đâu mất. Nghĩa là chúng ta thường là khách
bàng quan, là khán giả.
Ông Dakêu cũng thế.
Hôm đó ông muốn làm khán giả. Ông trèo lên một cành cây để nhìn xuống. Ở vị trí
đó, ông có thể nhìn Chúa Giêsu và nhìn mọi người mà không bị ai nhìn ông. Ông
là một người ngoài cuộc, không cùng đám đông đi theo Chúa Giêsu. Cũng như trước
đó ông đã là một người ngoài cuộc : ông giàu có, đầy đủ, không cần đến ai,
cũng không muốn dây dưa làm chi đến đa số người khác nghèo nàn thiếu thốn.
Nhưng điều gì đã xảy
ra ? Chúa Giêsu gọi Dakêu xuống, Ngài ngỏ ý đến trọ nhà ông. Nghĩa là Ngài
kéo ông ra khỏi tư thế khán giả bàng quan để nhập cuộc và tham gia. Và như
chúng ta thấy, Dakêu đã tham gia tích cực như thế nào.
* 5. Dakêu,
tấm gương hoán cải
Câu chuyện về ông
Dakêu có nhiều chi tiết giúp chúng ta hiểu thế nào là hoán cải thật :
– Ông tích cực đi tìm
Chúa : “Ông chạy tới phía trước, leo lên một cây sung”.
– Khi nghe tiếng Chúa
gọi, ông đã nhanh chóng và vui mừng đáp lại : “Ông vội vàng tụt xuống”
– Ông còn “vui mừng
đón rước Ngài về nhà”.
– Ông nhìn nhận tội lỗi
của mình và còn thứ nhận trước mặt mọi người.
– Ông đền bù những thiệt
hại mình gây cho kẻ khác
– Hơn nữa, Ông còn lấy
tài sản bố thí cho người nghèo.
Hoán cải thật là từ bỏ
những tội lỗi, quảng đại đáp lại tiếng Chúa và tổ chức lại đời sống mới.
V. Lời nguyện
cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Chúa là Đấng từ bi nhân hậu.
Người yêu thương và muốn cứu rỗi hết thảy mọi người. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa
và dâng lời cầu xin :
1.
Hội thánh là đoàn
chiên của Đức Kitô / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử luôn noi
gương Người / mà đối xử nhân từ với các con chiên lạc đã thật lòng sám hối
ăn năn.
2.
Ông Dakêu tìm
cách để xem cho biết Chúa Giêsu là ai / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những
ai đang đi tìm Chúa / đều được Người chỉ lối đưa đường / trong cuộc
hành trình tìm về nguồn chân thiện mỹ.
3.
Trong đời sống
thường ngày / lúc nào cũng có những người bị đồng loại của mình khinh dể /
cô lập / và đối xử tệ bạc / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai là
nạn nhân của áp bức bất công / được Chúa thương nâng đỡ ủi an.
4.
Ý thức thân phận
tội lỗi của mình / và quyết tâm đổi mới đời sống nên hoàn thiện hơn /
là điều mà mọi Kitô hữu cần quan tâm thực hiện / Chúng ta hiệp lời cầu xin
cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta hiểu được điều đó / và cố gắng thực hiện
trong đời sống đức tin thường ngày.
Chủ tế : Lạy Chúa, không ai trong chúng con là hoàn toàn
trước mặt Chúa. Vậy xin Chúa ban cho chúng con biết noi gương Chúa mà có một
cái nhìn khoan dung đối với lỗi lầm của anh chị em mình. Chúng con cầu
xin :
VI. Trong Thánh
Lễ
– Trước kinh Lạy
Cha : Chúng ta hãy đọc kinh Lạy Cha trong tâm tình của ông Dakêu, xin
Thiên Chúa là Cha tha thứ những tội lỗi của chúng ta và giúp chúng ta hoán cải
thật lòng.
VII. Giải tán
Anh chị em đã thấy ông
Dakêu sau khi hoán cải đã rất rộng rãi đem tài sản mình phân chia cho người
nghèo. Anh chị em cũng hãy cố gắng noi theo gương chia xẻ ấy.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina:
Chúa Nhật XXXI Thường Niên (C)
Sunday 3 November,
2019
Lectio Divina |
Lection Divina Năm C
Sự hoán cải của Giakêu
Lc 19:1-10
1. BÀI ĐỌC
a) Lời nguyện
mở đầu
Lạy Thiên Chúa, Đấng Tạo
Dựng Trời Đất và là Cha của tất cả các con cái Abraham, xin ban cho chúng con
ánh sáng của Thần Khí Chúa để chúng con có thể phục vụ Chúa một cách tốt đẹp
và xứng đáng, xin ban cho chúng con có thể đi theo những bước chân của Lời Chúa
và để các hành động cử chỉ của chúng con có thể phản ảnh rằng chúng con là môn
đệ của Đức Giêsu, Đấng đã xuống thế làm người vì tình yêu chúng con và vì sự cứu
rỗi của chúng con.
b) Phúc Âm:
1 Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua
thành, 2 thì kìa, có một người tên là Giakêu xuất hiện;
ông là thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có. 3 Ông
tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì người
ta đông quá, mà ông lại thấp bé. 4 Vậy ông chạy lên
trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua
đó. 5 Khi vừa đến nơi, Chúa Giêsu nhìn lên và trông
thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: “Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm
nay Ta phải lưu lại nhà ngươi.” 6 Ông vội vàng trèo xuống
và vui vẻ đón tiếp Người. 7 Mọi người thấy vậy, liền
lẩm bẩm rằng: “Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi.” 8 Ông
Giakêu đứng lên thưa cùng Chúa rằng: “Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của
cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp
bốn.” 9 Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: “Hôm nay
nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. 10 Vì
chưng, Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất.”
b) Giây phút
thinh lặng cầu nguyện:
Để Lời Chúa có thể thấm
nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
2. SUY GẪM
a) Chìa
khóa dẫn đến bài đọc:
Trong câu chuyện Phúc
Âm, thánh Luca ưa thích cho thấy lòng thương xót của Đức Giêsu đối với những
người tội lỗi và đoạn Tin Mừng Lc 19:1-10 là một ví dụ điển hình. Câu
chuyện về sự hoán cải của Giakêu nói cho chúng ta biết rằng không có một tình
trạng con người nào mà không thích hợp với ơn cứu độ: Chúa Giêsu nói rằng:
Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi vì người này cũng là con cái Abraham (Lc
19:9). Lời mở đầu của chương 19 được đưa ra sau khi Chúa Giêsu dạy cho
chúng ta những giáo lý và thái độ sống trong chương 18. Trong chương đó,
chúng ta thấy có dụ ngôn về người Biệt Phái là kẻ phán đoán và người Thu Thuế
là kẻ đang khiêm nhu hạ mình trước mặt Thiên Chúa và van xin sự tha thứ (Lc
18:9-14). Kế đến, có cảnh Chúa Giêsu đón chào các trẻ thơ, cảnh báo các
môn đệ rằng nước Thiên Chúa là của những ai giống như trẻ thơ… ai không
đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào (Lc
18:16-17). Ngay sau đó, Chúa Giêsu nói với nhà thủ lãnh giàu có là kẻ muốn
có được sự sống đời đời (Lc 18:18) rằng ông ta cần phải bán tất cả những gì ông
có mà phân phát cho người nghèo để theo Chúa Giêsu và có được một kho tàng trên
trời (Lc 18:22). Sau đó là giáo lý của Chúa Giêsu về sự giàu có là một trở
ngại cho sự cứu rỗi và sự hứa hẹn một phần thưởng cho những ai từ bỏ tất cả vì
lợi ích của Nước Thiên Chúa (Lc 18:24-30). Những phần này của chương 18
dường như dẫn chúng ta đến câu chuyện việc hoán cải của Giakêu. Trước câu
chuyện của Giakêu chúng ta có hai bản văn chứa các chi tiết quan trọng:
1.
Lời tiên báo lần thứ
ba về cuộc thương khó, nơi Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng bây giờ chúng ta sẽ
lên Giêrusalem (Lc 18:31). Dường như thánh Luca muốn sắp đặt mọi thứ
trong bối cảnh của việc đi theo Chúa Giêsu; và
2.
Việc chữa lành người
mù tại Giêricô, người đã kêu khẩn cùng Chúa Giêsu, mặc dù đám đông đã ngăn cản
anh ta đến gần Chúa ( Lc 18:35-39). Một lần nữa, Chúa Giêsu đem đến ánh
sáng cho đôi mắt tối tăm và nói rằng đức tin đã chữa người đàn ông mù này (Lc
19:42). Sau khi anh ta nhìn thấy được, người mù đã đi theo Chúa Giêsu và
tôn vinh Thiên Chúa (Lc 18:43).
Hai đoạn văn này cùng
với những đoạn trước đây làm sáng tỏ câu chuyện trở lại của Giakêu. Trong
câu chuyện này, chúng ta thấy có các chi tiết đáng ngạc nhiên đã được hiện diện
trong các đoạn văn nêu trên:
1.
Giakêu là một người
giàu có và là thủ lãnh những người thâu thuế – Lc 19:2
2.
Ông ta tìm cách để
nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì người ta đông
quá – Lc 19:3
3.
Ông ta thấp bé – Lc
19:3
4.
Đám đông lên án
Giakêu: người tội lỗi – Lc 19:7
5.
Việc bố thí của cải
cho kẻ khó – Lc 19:8
6.
Lời công bố của Chúa
Giêsu rằng ơn cứu độ đã đến nhà của Giakêu – Lc 19:9
Giakêu, một người thấp
bé, giàu có và là thủ lãnh của những người thu thuế, đón tiếp Nước Thiên Chúa
như một trẻ nhỏ. Ông ta hạ mình và ăn năn về quá khứ của mình và do đó
tìm thấy ơn cứu độ từ Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, người Samaritanô nhân
lành (Lc 10:29-37) Đấng đã đến với chúng ta để tìm và cứu những gì đã mất (Lc
19:10). Đây là một chủ đề thân yêu của Luca và chúng ta tìm thấy điều này
trong các phần khác của câu chuyện Phúc Âm của ông (ví dụ: Lc 15: 11-31).
b) Một
vài giây phút cho việc suy gẫm cá nhân:
Bạn hãy đặt mình trong
thinh lặng trước Lời của Chúa và suy gẫm đoạn Tin Mừng được trình bày trong
chìa khóa dẫn đến bài đọc này. Bạn hãy tự hỏi mình:
1.
Sự nối kết giữa những
văn bản này là gì?
2.
Ơn cứu độ mang ý
nghĩa gì đối với bạn?
3.
Giakêu, một người thấp
bé, cho thấy sự sẵn lòng đón tiếp Chúa bằng cách trèo lên cây sung. Sự tò
mò của ông ta đã được đền bù bằng chuyến thăm viếng của Chúa Giêsu. Bạn sẽ
làm gì để chứng tỏ sự sẵn lòng đón tiếp ơn cứu độ của Thiên Chúa?
4.
Hành động của Giakêu
nhắc nhớ chúng ta lòng tò mò của Môisen thúc giục ông bước tới bụi gai đang
cháy. Ở đó Môisen cũng đã tìm thấy ơn cứu độ. Bạn có đã tìm cách gặp
Chúa chưa? Bạn có đã cảm thấy bị lôi cuốn bởi Người không?
5.
Chúa Giêsu đến với
Giakêu trong sự tội lỗi của ông và vào nhà ông để Người mang đến cho ông ơn cứu
độ. Bạn đã bị trói buộc với tội lỗi ra sao? Bạn có sẽ để cho Chúa đến
với bạn, vào trong căn nhà tối tăm ấy không?
3. CẦU NGUYỆN
a) Lời cầu nguyện của cộng đoàn:
Thân lạy Chúa, Đấng ở cùng
Con Chúa đã đến để tìm và cứu những gì đã mất, xin hãy làm cho chúng con xứng
đáng với lời kêu gọi của Chúa: xin hãy hoàn thành mọi ước nguyện của
chúng con một cách vĩnh viễn, để chúng con có thể biết cách đón tiếp Chúa một
cách vui vẻ vào nhà chúng con để chia sẻ của cải thế gian và của thiên
đàng. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
b) Giây phút thinh lặng:
cho các lời nguyện cá
nhân.
4. CHIÊM NIỆM
Chúa sẽ dạy con biết
đường về cõi sống:
trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề,
ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!
trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề,
ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!
(Tv 15/16:11)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét