14/08/2025
Thứ
Năm tuần 19 thường niên.
Thánh Mácximilianô
Maria Kônbê, lm tử đạo.
Lễ nhớ
* Thánh nhân sinh ngày 8 tháng 1 năm 1894 tại Ba
Lan. Người gia nhập Dòng Anh Em Hèn Mọn và năm 1918 thụ
phong linh mục tại Rôma. Đầy lòng yêu mến nồng nàn đối với Đức Trinh Nữ Maria
Thánh Mẫu Thiên Chúa, người lập một hội đạo đức lấy tên là “Đạo binh Đức Maria
Vô Nhiễm”. Hội này đã được truyền bá rộng rãi cả ở quê hương của người lẫn ở
nhiều miền khác. Người đã đến Nhật Bản để truyền giáo, hăng
say loan báo đức tin Kitô giáo dưới sự chăm sóc và bảo trợ của Đức Trinh Nữ Vô
Nhiễm Nguyên Tội. Khi đã trở về Ba Lan, người phải chịu biết bao cơ cực, nhọc
nhằn một thời gian dài trong trại tập trung Ốt-suýt vì chính sách kỳ thị chủng
tộc. Người đã hiến dâng mạng sống mình làm lễ toàn thiêu vì lòng
bác ái ngày 14 tháng 8 năm 1941.
Bài Ðọc I: (Năm
I) Gs 3, 7-10a. 11. 13-17
“Hòm giao ước của Thiên Chúa sẽ dẫn các ngươi qua sông
Giođan”.
Trích sách ông Giosuê.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Giosuê rằng: “Hôm nay Ta
sẽ bắt đầu tôn ngươi lên trước mặt toàn thể Israel, để chúng biết rằng: Ta đã ở
với Môsê thế nào, thì cũng sẽ ở với ngươi như vậy. Phần ngươi, ngươi hãy truyền
lệnh này cho các thầy tư tế mang hòm giao ước rằng: “Khi các thầy đã đến sông
Giođan, các thầy hãy đứng giữa lòng sông”.
Rồi Giosuê nói với con cái Israel rằng: “Hãy tiến lại đây mà
nghe lời Chúa là Thiên Chúa các ngươi”. Và Giosuê nói: “Cứ dấu này mà các ngươi
nhận biết Thiên Chúa hằng sống ở giữa các ngươi. Ðó là hòm giao ước của Thiên
Chúa, chủ tể địa cầu, sẽ dẫn các ngươi qua sông Giođan. Khi các thầy tư tế mang
hòm giao ước của Thiên Chúa, chủ tể địa cầu, vừa đặt chân trong nước sông
Giođan, thì nước phía dưới tiếp tục chảy đi và khô cạn, còn nước phía trên thì
dừng lại thành một khối”.
Vậy, khi dân nhổ trại để qua sông Giođan, thì các thầy tư tế
mang hòm giao ước đi trước dân. Vừa khi những người mang hòm giao ước đến sông
Giođan và chân họ đụng nước, (suốt mùa gặt, sông Giođan tràn lan dọc theo hai
bên bờ) thì nước từ nguồn chảy xuống dừng lại một nơi, từ xa trông như dãy núi
kéo dài, từ thành Ađam đến luỹ Sarthan; còn phần nước phía dưới chảy vào biển
Araba tức là Biển Mặn, thì chảy cạn hết. Dân vượt qua nhắm thẳng thành Giêricô.
Các thầy tư tế mang hòm giao ước của Thiên Chúa đứng yên trên đất khô, giữa
sông Giođan, và dân đi qua lòng sông khô cạn.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 113A, 1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Alleluia.
Xướng: Hồi Israel
ra khỏi Ai-cập, nhà Giacóp thoát xa dân mọi, Giuđa đã trở nên cung thánh,
Israel biến thành vương quốc của Người. – Ðáp.
Xướng: Biển khơi
xem thấy và chạy trốn, Giođan thì bước lại đàng sau. Núi non nhảy chồm lên như
bầy dê đực, các ngọn đồi như đàn chiên con. – Đáp
Alleluia: Tv 110, 8ab
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, mọi giới răn Chúa được lập
ra cho tới muôn ngàn đời. – Alleluia.
Phúc Âm: Mt 18, 21 – 19, 1
“Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi
lần bảy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, khi
anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần
không?” Chúa Giêsu đáp: “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy
mươi lần bảy.
“Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn
tính sổ với các đầy tớ. Trước hết người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười
ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả
tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van
lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, và tôi sẽ trả lại cho ngài tất
cả”. Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.
“Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc:
Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: “Hãy trả nợ cho ta”. Bấy giờ người bạn sấp mình
dưới chân và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết
nợ cho anh”. Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ
xong. Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ
tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: “Tên đầy tớ ác độc kia,
ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không
chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?” Chủ nổi giận, trao y cho lý hình
hành hạ, cho đến khi trả hết nợ.
“Vậy, Cha Thầy trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu
mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
Khi Chúa Giêsu nói những lời đó xong, thì Người bỏ xứ
Galilêa mà đến Giuđêa, bên kia sông Giođan.
Ðó là lời Chúa.
Chú giải về Giô-suê 3,7-11.13-17
Chúng ta hãy chuyển sang giai đoạn tiếp theo trong lịch sử Ít-ra-en. Chúng ta bắt đầu đọc sách
Giô-suê. Đây là cuốn sách đầu tiên trong số những sách được gọi là sách lịch sử,
bao gồm Giô-suê, Thủ Lãnh,
Rút, 1 và 2 Sa-mu-en, 1 và 2 Các Vua. Chúng còn được gọi là 'Các Tiên Tri Sơ
Khai'.
Sách Giô-suê được chia thành ba phần:
1. Cuộc chinh phục Đất Hứa (chương 1-12);
2. Sự phân chia lãnh thổ giữa các chi phái (chương 13-21);
3. Những ngày cuối cùng của Giô-suê, đặc biệt là bài giảng
cuối cùng của ông và cuộc họp tại Si-khem (chương 22-24).
Giô-suê là mối liên kết với năm sách trước và tiếp nối phần
còn lại của sách Đệ Nhị Luật.
Ông là người lãnh đạo, được Môi-se chọn và được dân chúng chấp nhận, để dẫn dắt
dân Ít-ra-en vào Đất Hứa.
Bài đọc hôm nay được trích từ chương 3, mô tả phép lạ vượt
sông Gio-đan vào Đất Hứa. Nó
gợi nhớ đến việc dân Ít-ra-en
vượt qua Biển Sậy khi họ trốn thoát khỏi Ai Cập. Sau đó, chính lệnh truyền của
Môsê đã đẩy lùi biển. Ở đây, các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước, bên trong có
các bia đá Luật, tượng trưng cho sự hiện diện và quyền năng của Thiên Chúa,
ngăn dòng sông chảy và cho phép toàn thể dân Ít-ra-en vượt qua an toàn.
Khi bài đọc bắt đầu, chúng ta nghe Chúa phán với Giô-suê:
Hôm nay, Ta sẽ bắt đầu
tôn vinh ngươi trước mặt toàn thể dân Ít-ra-en, để họ biết rằng Ta sẽ ở
cùng ngươi như Ta đã ở cùng Môsê.
Giô-suê sẽ được tôn cao trước mắt dân chúng, để họ biết rằng,
như với Môsê trong quá khứ, Thiên Chúa hiện đang ở cùng Giô-suê. Một mục đích
chính của việc Thiên Chúa can thiệp kỳ diệu vào việc vượt sông Gio-đan là để xác nhận quyền lãnh đạo của
Giô-suê. Với một sự kiện kỳ diệu tương tự như sự kiện vượt qua Biển Sậy, địa vị
của Giô-suê với tư cách là tôi tớ của Chúa sẽ được chứng minh là ngang hàng với
Mô-sê.
Sau đó, Giô-suê được lệnh ra lệnh cho các thầy tế lễ đang
khiêng Hòm Giao Ước. Khi họ đến bờ sông Gio-đan, họ phải dừng lại ở chính dòng
sông. Nói chuyện với dân Ít-ra-en,
ông bảo họ hãy tập hợp lại và lắng nghe lời của Đức Chúa Đức Chúa Trời của họ. Sẽ có một dấu hiệu
để họ biết rằng Đức Chúa Trời hằng sống ở cùng họ và Ngài sẽ đuổi dân Ca-na-an
khỏi họ (cũng như dân Hê-tít, Hê-vít, Phê-rê-sít, Ghi-rê-ga-sít, A-mô-rít và
Giê-bu-sít).
Cách thức mà Đức Chúa Trời sắp đưa dân Ít-ra-en vượt qua Sông Gio-đan, ranh giới
nước của Đất Hứa, sẽ mang lại sự đảm bảo rằng Đức Chúa Trời chân thật duy nhất ở
cùng họ và Ngài chắc chắn sẽ đuổi cư dân Ca-na-an hiện tại ra khỏi đó. Có hai vấn
đề cơ bản đang được đặt ra:
1. Ai là Đức Chúa Trời chân chính và toàn năng—Đức Chúa Trời
của Ít-ra-en hay vị thần mà
dân Ca-na-an nương tựa (Ba-anh, người được cho là vua giữa các vị thần vì đã
chiến thắng thần biển)? Bằng cách mở đường qua sông Gio-đan ngập lụt, Chúa sẽ
cho cả dân Ít-ra-en lẫn dân
Ca-na-an thấy rằng Ngài là Chúa tể trên mặt nước (như Ngài đã làm ở “Biển Đỏ”,
trong trận Đại Hồng Thủy và trong thời kỳ Sáng Thế) và Ngài có thể thiết lập trật
tự của riêng mình trên thế giới.
2. Ai có quyền sở hữu hợp pháp đối với vùng đất này—Đức Chúa
Trời hay dân Ca-na-an? Bằng cách dẫn đầu quân đội vượt qua sông Gio-đan an
toàn, Chúa đã cho thấy quyền sở hữu hợp pháp của Ngài đối với vùng đất này. Ở Cận
Đông cổ đại, một cách phổ biến để có được phán quyết của các vị thần là buộc bị
cáo phải chịu thử thách dưới nước. Thông thường, điều này bao gồm việc ném bị
cáo xuống sông (nếu bị cáo chết đuối, các vị thần đã kết tội; nếu không, các vị
thần đã tuyên bố vô tội).
Tuy nhiên, ở Ít-ra-en,
một hình thức thử thách khác về nước đã được thực hành. Điều đáng chú ý là Chúa
sẽ vào sông Gio-đan trước
(cùng với các thầy tế lễ trong Hòm Bia Giao Ước) và sau đó ở lại đó cho đến khi
toàn bộ quân đội của Ngài đã vượt qua an toàn. Như vậy, tuyên bố của Ngài về
vùng đất này đã được chứng minh trước mắt tất cả những ai nghe về điều đó. Và
đó là tuyên bố của Đức Chúa,
chứ không phải của Ít-ra-en.
Dân Ít-ra-en chỉ đi qua sông Gio-đan cùng với Ngài và với tư
cách là quân đội của Ngài, được “Rửa
tội” để phục vụ Ngài. Đó là một thông điệp không chỉ dành cho dân Ít-ra-en, mà còn cho cư dân
Ca-na-an, và họ sẽ hiểu rất rõ các biểu tượng.
Bấy giờ Giô-suê bảo dân chúng:
…Hòm Giao Ước của Chúa
Tể cả trái đất sẽ đi trước các ngươi vào sông Gio-đan.
Khi dân chúng rời khỏi lều trại để băng qua sông, các thầy tế
lễ khiêng Hòm Giao Ước đi trước họ. Ngay khi các thầy tế lễ khiêng Hòm Giao Ước
đặt chân xuống nước sông Gio-đan:
…nước từ trên chảy xuống
dừng lại, dồn lại thành một đống, cách xa thành A-đam, thành phố bên cạnh
Xa-rê-than, trong khi nước chảy về phía biển A-ra-ba, tức Biển Chết, thì bị chặn
lại hoàn toàn.
Điều Giô-suê đã báo trước đã xảy ra ngay lập tức. Xa-rê-than
cũng gần cửa sông Gia-bốc, chảy vào sông Gio-đan ở bờ đông.
Và điều này đã xảy ra mặc dù vào thời điểm đó trong năm, mùa
gặt, dòng sông đang dâng nước lũ. Mùa gặt ở hạ lưu thung lũng sông Gio-đan là
vào cuối tháng Ba và đầu tháng Tư, khi ngũ cốc và các loại cây trồng khác được
trồng trong mùa mưa mùa đông được thu hoạch. Cuộc vượt sông diễn ra “vào ngày
10 tháng giêng” theo lịch Do Thái, bắt đầu từ ngày trăng non đầu tiên sau xuân
phân. Vào thời điểm này trong năm, sông Gio-đan sẽ dâng cao do mưa mùa đông và tuyết tan từ núi Hermon.
Từ “đống” trong tiếng Do Thái được sử dụng hai lần ở đây
cũng có thể được tìm thấy trong các câu chuyện thơ ca về cuộc vượt sông Biển Sậy.
Việc dòng sông đột ngột bị chặn lại có thể là do lở đất, như đã xảy ra trong những
lần khác. Theo một sử gia Ả Rập, một điều tương tự đã xảy ra vào năm 1267 sau
Công nguyên; lở đất đã chặn dòng sông ở khu vực này (Adama-Damieh) trong vài giờ.
Và, gần đây nhất là vào năm 1927, một vụ tắc nghẽn nước ở khu vực này đã được
ghi nhận kéo dài hơn 20 giờ.
Tuy nhiên, yếu tố kỳ diệu của sự kiện này không hề giảm bớt,
bởi vì Đức Chúa Trời, Đấng đã báo trước điều đó (Giô-suê 3,13), cũng đã khiến
nó xảy ra đúng vào thời điểm đó (Giô-suê 3,15), bất kể Ngài có sử dụng các lực
lượng tự nhiên để thực hiện ý muốn của mình hay không. Tương tự, sự khô cạn của
Biển Sậy được cho là do ảnh hưởng của một trận động đất ở Địa Trung Hải, có thể
kèm theo sóng thần. Trong khi đó, hạ lưu của dòng sông đổ vào Biển A-ra-va, Biển Muối và Biển Chết
hoàn toàn bị cắt đứt khỏi thượng nguồn.
Dân chúng lúc này đã băng qua sông gần Giê-ri-cô. Khi họ làm như vậy, các thầy tế
lễ mang Hòm Giao Ước đứng trên đất khô ráo giữa lòng sông, trong khi toàn thể
dân Ít-ra-en cũng băng qua
trên đất khô ráo cho đến khi tất cả mọi người đều hoàn thành việc băng qua. Các
thầy tế lễ đứng vững trên đất khô ráo, biểu thị rằng chính Chúa đã ở nơi nguy
hiểm cho đến khi toàn thể dân Ít-ra-en
vượt qua sông Gio-đan.
Toàn bộ hoạt động này được Đức Chúa chấp thuận và bảo vệ. Đó là sự ứng nghiệm lời hứa long trọng
mà Ngài đã hứa sẽ ban cho một dân tộc lưu lạc. Nó khép lại câu chuyện sử thi bắt
đầu bằng việc vượt qua Biển Sậy và dân Do Thái trốn thoát đến tự do, và giờ đây
kết thúc bằng một lần vượt sông khác và tiến vào Đất Hứa được mong đợi từ lâu.
Bản Kinh Thánh
Jerusalem cho thấy mối liên hệ giữa hai sự kiện:
“Có một sự tương đồng cố ý giữa các câu chuyện về việc vượt
sông Jordan và tiến vào Canaan với câu chuyện về cuộc Xuất Hành khỏi Ai Cập.
Chính biên tập viên đã lưu ý đến điều này (3,7): Đức Chúa chặn sông Gio-đan giống như Ngài đã làm khô Biển Sậy;
Hòm Bia Đức Chúa dẫn dắt dân Ít-ra-en giống như trụ mây hoặc trụ
lửa; Gio-suê đóng vai trò mà Mô-sê đã đóng trong cuộc Xuất Hành;
và cũng như những người trưởng thành trong thời kỳ Xuất Hành đã được cắt bì,
thì đến lượt con cái của họ sinh ra trong sa mạc cũng vậy; manna đã phục vụ dân
Ít-ra-en trong sa mạc chấm dứt
ngay khi dân Ít-ra-en tiến
vào Canaan và Lễ Vượt Qua được cử hành tại Ghin-gan sau lần ‘vượt sông’ thứ hai, giống như đã được cử hành ở Ai
Cập trước lần đầu tiên. Sự tương đồng giữa các sự kiện ở đầu và cuối cuộc Xuất
Hành tạo ra một phép lạ nước khi rời khỏi Ai Cập, tương tự như các phép lạ nước
khi vượt sông Gio-đan. Khi Cuộc
Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô đổi mới các sự kiện về mặt tinh thần của cuộc
Xuất Hành, vì vậy Giô-suê, người đã làm cho các sự kiện của cuộc Xuất Hành được
hoàn thành về mặt thể lý, được một số Giáo Phụ coi là tiền thân của Chúa
Giê-su, người có cùng tên (Giô-suê là một dạng khác của tên Giê-su và có nghĩa
là 'Thiên Chúa cứu độ').
Trong phụng vụ của các nhà thờ Công giáo và các Kitô giáo
khác, những lần băng qua nước này được xem là biểu tượng báo trước về nguồn nước
cứu độ của Bí tích Rửa tội. Chúng được nhắc lại đặc biệt trong phụng vụ Đêm Vọng
Phục Sinh khi nước rửa tội được làm phép. Hôm nay, chúng ta hãy tưởng nhớ Bí
tích Rửa tội của chính mình và ý nghĩa của nó được biểu tượng hóa như thế nào
trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta với tư cách là người theo Chúa Kitô.
Chú giải về
Mát-thêu 18,21—19,1
Phần cuối trong bài giảng của Mát-thêu về Hội thánh nói về sự tha thứ. Điều
này không nằm ngoài phần trước về việc khai trừ anh chị em không ăn năn. Ngay
khi một anh chị em ăn năn, phải có sự tha thứ—không phải một lần mà là vô thời
hạn—“bảy mươi bảy lần”.
Lý do được nêu ra trong dụ ngôn mà Chúa Giê-su nói về hai
người đầy tớ mắc nợ. Người mắc nợ nhà vua một khoản nợ khổng lồ đã được tha thứ,
nhưng sau đó lại từ chối tha một khoản nợ tương đối nhỏ cho một người đầy tớ
khác. Hãy hiểu rằng mười ngàn ta-lâng lúc đó tương đương với hàng trăm triệu đô
la theo một loại tiền tệ lớn ngày nay, và 300 đơ-na-ri tương đương với khoảng
ba tháng lương.
Trong Phúc Âm, những người mắc nợ nhà vua lớn rõ ràng là
chính chúng ta; những người mắc nợ nhỏ với chúng ta là anh chị em của chúng ta.
Chúng ta không mong đợi Chúa tha thứ cho chúng ta một hoặc
hai lần hoặc bất kỳ số lần giới hạn nào, mà là mọi lúc. Không có chỗ nào chép rằng
chúng ta chỉ có, ví dụ, mười cơ hội để xưng tội, và một khi đã dùng hết số lần
xưng tội, thì chẳng còn gì nữa. Nhưng nếu điều đó đúng với mối quan hệ của
chúng ta với Chúa, thì nó cũng phải đúng trong mối quan hệ của chúng ta với người
khác. Chúng ta không bao giờ được từ chối lời đề nghị hòa giải. Và, chúng ta có
thể nói thêm, sự tha thứ sẽ dễ dàng được hoàn tất trọn vẹn hơn nhiều khi sự hòa
giải đã diễn ra.
Điều này hoàn toàn không giống với việc nhắm mắt làm ngơ trước
hành vi sai trái. Đoạn Kinh Thánh hôm qua đã nói rất rõ điều đó. Chúng ta đang
nói về việc hàn gắn những chia rẽ giữa con người; chúng ta đừng bao giờ được cản
trở điều đó.
Giờ đây, chúng ta đã đến phần cuối của bài giảng này, được
chỉ ra bởi câu đầu tiên của chương 19:
Sau khi nói những lời ấy,
Đức Giê-su rời Ga-li-lê và đi đến miền Giu-đê, bên kia sông Gio-đan.
https://livingspace.sacredspace.ie/o1195g/
Suy Niệm: Bản Sắc Của Người
Kitô Hữu
Cuộc xung đột đẫm máu giữa người Do Thái và Palestin tại
Trung Ðông cũng như những người công giáo và tin lành tại Bắc Ailen, hay giữa
những chủng tộc khác nhau tại nhiều nơi khác trên thế giới cho chúng ta thấy rằng
oán thù luôn sinh ra oán thù, bạo động luôn kéo theo bạo động, thế giới sẽ chẳng
bao giờ có được hòa bình đích thực khi con người chưa biết tha thứ cho nhau.
Tin Mừng hôm nay một lần nữa mời gọi chúng ta đi vào cốt lõi
của Tin Mừng là sự tha thứ, đây là tuyệt đỉnh của giáo huấn của Chúa Giêsu.
Ngài sẽ chỉ là một kẻ lừa bịp và tòa giáo huấn của Ngài sẽ sụp đổ nếu trong
giây phút cuối đời, từ trên thập giá, Ngài đã không tha thứ cho những kẻ đang
hành hạ mình. Lời cầu xin tha thứ của Chúa Giêsu là bảo chứng của những lời
Ngài rao giảng. Suy Niệm về sự tha thứ, trước hết chúng ta phải hướng về tình
yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng thương xót, chậm giận và hay
tha thứ. Toàn bộ Kinh Thánh là lịch sử của những cử chỉ tha thứ của Thiên Chúa
và sự bắt đầu lại của con người. Mỗi một lần con người vấp ngã là mỗi lần Thiên
Chúa thực thi lòng thương xót. Ngay từ trang đầu tiên của Kinh Thánh, chúng ta
đã thấy được sự tha thứ của Thiên Chúa. Sau khi ông bà nguyên tổ phạm tội,
Thiên Chúa đã không bỏ mặc hay trừng phạt, mà trái lại còn hứa ban ơn cứu rỗi.
Xuyên suốt Kinh Thánh Cựu Ước, Thiên Chúa trải dài tình yêu nhẫn nhục tha thứ
cho dân riêng của Ngài. Qua Chúa Giêsu, lòng tha thứ của Chúa Cha đã bộc bạch một
cách trọn vẹn. Những trang cảm động nhất trong Tân Ước hẳn phải là những trang
về lòng tha thứ của Thiên Chúa được thể hiện qua lời nói, cử chỉ của Chúa
Giêsu.
Còn bức tranh nào đẹp và cảm động cho bằng phiên tòa xử người
đàn bà phạm tội ngoại tình bị bắt quả tang. Từ buổi sáng tinh mơ, trong khi đám
đông do các luật sĩ và biệt phái động viên đang hậm hực sẵn sàng ném đá người
đàn bà khốn khổ, Chúa Giêsu đã giữ thinh lặng, và cuối cùng, khi đám đông đã
rút lui, Ngài chỉ ôn tồn nói với chị: "Chị hãy về đi, Ta không kết án chị".
Còn áng văn nào đẹp cho bằng dụ ngôn về người con hoang đàng
được ghi lại trong Tin Mừng theo thánh Luca. Còn lời nào dịu ngọt hơn lời tha
thứ của Chúa Giêsu dành cho người được mệnh danh là kẻ trộm lành chịu đóng đinh
bên hữu Ngài, và dĩ nhiên còn cử chỉ nào hào hùng và cao thượng hơn lời cầu xin
tha thứ cho những kẻ lý hình trước khi trút hơi thở cuối cùng.
Thiên Chúa giàu lòng thương xót, chậm giận và hay tha thứ.
Ðó là tuyệt đỉnh của mạc khải Kitô giáo. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu tỏ bày cho
chúng ta qua lời giảng dạy và cách cư xử của Ngài là Thiên Chúa hay thương xót
và tha thứ. Lòng thương xót và tha thứ thiết yếu là của Thiên Chúa, con người
không thể tự mình tha thứ. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã không tự mình tha thứ,
Ngài cầu xin Chúa Cha tha thứ. Thiên Chúa thực thi lòng tha thứ qua con cái
Ngài. Tự mình tha thứ không phải là điều tự nhiên đối với bản tính con người.
Chính vì thế mà Chúa Giêsu dạy chúng ta phải kêu cầu ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Chỉ khi nào chúng ta cảm nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa, chúng ta mới có
thể tha thứ cho người khác: "Xin Cha tha cho chúng con, như chúng con cũng
tha kẻ có nợ chúng con".
Cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa và sẵn sàng tha thứ cho
người khác, đó là cuộc chiến đấu của cả một đời người nhưng đó cũng là cuộc chiến
làm nên bản sắc của người tín hữu Kitô. Người tín hữu Kitô chỉ thực sự là tín hữu
Kitô khi họ biết tha thứ mà thôi.
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét