Ngày 29 tháng 12
(Trong Tuần Bát Nhật Lễ Chúa Giáng Sinh)
Bài Ðọc
I: 1 Ga 2, 3-11
"Ai
thương yêu anh em mình thì ở trong sự sáng".
Trích thư
thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con
thân mến, chính nơi điều này mà chúng ta biết rõ được là chúng ta biết Chúa
Giêsu, nếu chúng ta giữ các giới răn Người. Ai nói mình biết Người, mà không giữ
giới răn Người, là kẻ nói dối, và nơi người ấy không có chân lý. Còn ai giữ lời
Người, thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy, và nhờ
điều đó mà chúng ta biết được chúng ta ở trong Người. Ai nói mình ở trong Người,
thì phải sống như Người đã sống.
Các con
thân mến, đây không phải là một giới răn mới mà cha viết cho các con, nhưng là
giới răn cũ các con đã có từ ban đầu. Giới răn cũ đó, là lời các con đã nghe rồi.
Nhưng đây cha lại viết cho các con một điều răn mới, là điều chân thật nơi Người
và nơi các con, vì tối tăm đang qua đi, và sự sáng đã soi đến rồi.
Ai nói
mình ở trong sự sáng, mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong tối tăm. Ai
thương yêu anh em mình, thì ở trong sự sáng, và nơi người ấy không có cớ vấp phạm.
Còn ai ghét anh em mình, thì ở trong tối tăm, đi trong tối tăm và không biết
mình đi đâu, vì tối tăm đã làm mù mắt họ.
Ðó là lời
Chúa.
Ðáp Ca:
Tv 95, 1-2a. 2b-3. 5-6
Ðáp: Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan (c. 11a).
Xướng: 1)
Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu.
Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.
2) Ngày
ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư
dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. - Ðáp.
3) Vì mọi
chúa tể của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh. Sáng láng
và oai nghiêm toả trước thiên nhan, uy hùng và tráng lệ phủ trên ngai báu. -
Ðáp.
Alleluia:
Alleluia,
alleluia! - Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể và đã cư ngụ giữa chúng ta. Những ai
tiếp nhận Người, thì Người ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa. -
Alleluia.
Phúc Âm:
Lc 2, 22-35
"Ánh
sáng đã chiếu soi các lương dân".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi mãn thời
hạn thanh tẩy theo Luật Môsê, ông bà đem Chúa Giêsu lên thành Giêrusalem, để
dâng cho Chúa, như đã viết trong lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng
sẽ được gọi là của thánh, dâng cho Thiên Chúa", và việc dâng lễ vật như đã
nói trong lề luật Chúa là "một cặp chim gáy, hoặc hai bồ câu con".
Và lúc đó
tại Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính và có lòng kính
sợ, đang mong đợi niềm an ủi Israel, có Thánh Thần ở trong ông. Ông được Thánh
Thần mách bảo là sẽ không thấy giờ chết đến, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa.
Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ. Khi cha mẹ bồng trẻ Giêsu đến để
thi hành cho Người các nghi thức theo luật dạy, thì ông ẵm lấy Người trên cánh
tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Lạy
Chúa, bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an, theo như lời Chúa. Vì chính mắt
con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng đã chiếu
soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".
Cha mẹ Người
đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà,
và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều
người trong Israel
phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối.
Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư nhiều tâm hồn được
biểu lộ".
Ðó là lời
Chúa.
Suy Niệm:
Theo luật
Môisê: "Mọi con trai đầu lòng phải được dâng hiến lên Thiên Chúa". Ðức
Giêsu cũng được Ðức Mẹ và thánh Giuse dâng hiến cho Thiên Chúa trong đền thờ. Cuộc
đời Ðức Giêsu chứng tỏ Ngài hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Ngài đã tự hiến
dâng, để Thiên Chúa toàn quyền sử dụng trên Ngài. Ðức Giêsu đã dâng trọn vẹn
trên đỉnh cao Thập Tự.
Cầu Nguyện:
Lạy Cha, mỗi
người chúng con cũng đã dâng hiến khi chúng con lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội.
Chúng con tuyên xưng từ bỏ Satan và đường lối của nó. Chúng con tuyên xưng, tin
nhận cha làm chủ cuộc đời chúng con. Thế nhưng, thực tế lại rất khác, chúng con
đã để quyền lực sự dữ xâm lấn, đánh gục chúng con. Xin Thánh Thần Cha giúp
chúng con dành lại quyền tự do của con cái Cha, để chúng con được sống hạnh
phúc. Xin nhận lời chúng con cầu xin, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Thinh Lặng Chiêm Ngắm Máng Cỏ
Thi hào
người Tây Ban Nha Migele des Punamuno, sinh năm 1864 và qua đời năm 1936 có để
lại dòng suy tư sau đây:
Báo chí
không hề đá động đến cuộc sống âm thầm của những người không làm nên lịch sử. Hằng
ngày, từng giờ trên khắp thế giới, cứ mỗi khi mặt trời lên, họ lại thức giấc ra
đồng để làm công việc âm thầm và tăm tối mỗi ngày và muôn thuở. Một công việc
như thế cũng giống như công việc của những tảng san hô chìm sâu giữa lòng đại
dương. Ðây là công việc xây nền đắp móng để cho những hòn đảo của lịch sử được
nhô lên. Chính trong thinh lặng mà âm thanh mới được sống lọt. Chính từ cái khối
người bao la thinh lặng ấy mới trồi lên được những người có tiếng nói trong lịch
sử.
*
* *
Quí vị và
các bạn thân mến,
Những dòng
suy tư trên đây của thi hào Migele des Punamuno không thể không gợi lên cho
chúng ta khung cảnh thinh lặng trong máng cỏ, nơi Hài Nhi Giêsu đang ngủ say dưới
ánh mắt chiêm ngắm của Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse. Thinh lặng là luật của máng
cỏ. Cả ba nhân vật mà chúng ta chiêm ngắm bên máng cỏ đều thinh lặng.
Quả thực,
nếu đặt vào trong cuộc sống 33 năm của Ngài, thì phần lớn quãng đời của Ngài chỉ
là thinh lặng. Là Lời của Thiên Chúa ngỏ với con người. Chúa Giêsu nói bằng
thinh lặng nhiều hơn bằng những lời rao giảng của Ngài. Phải chăng cũng chỉ
trong thinh lặng mà con người mới có thể nghe được lời của Chúa. Thinh lặng
cũng là luật sống của Mẹ Maria. Thánh Luca đã tóm gọn cuộc sống của Mẹ trong
câu: Và Mẹ Maria đã ghi nhớ tất cả mọi sự và suy niệm trong lòng. Nếu Tin Mừng
còn ghi lại một vài câu nói của Mẹ Maria thì tất nhiên hoàn toàn thinh lặng là
những lời phát biểu của Thánh Cả Giuse. Ngay giữa lúc được thiên thần hiện đến
trong giấc mộng để báo tin về Mẹ Maria cưu mang Ngôi Hai Thiên Chúa. Thánh
Giuse xem chừng cũng không nói một lời nào, và nhất là Ngài cũng âm thầm biến
khỏi cuộc đời còn lại của Mẹ Maria và Chúa Giêsu lúc nào cũng không ai hay biết.
Thánh Cả
Giuse quả là vị thánh của thinh lặng. Chiêm ngắm Chúa Hài Nhi bên cạnh Mẹ Maria
và thánh cả Giuse có lẽ chúng ta cũng được mời gọi để sống thinh lặng. Chỉ
trong thinh lặng của máng cỏ chúng ta mới hiểu được ý nghĩa của cuộc sống âm thầm
từng ngày của chúng ta. Chúng ta thuộc về cái khối người thinh lặng bao la,
ngày ngày lặng lẽ sống mà không hề được ai nhắc tới. Không được ai nhắc tới
nhưng nếu không có cái khối người âm thầm lặng lẽ ấy thì cũng chẳng bao giờ có
lịch sử. Thi hào Migele des Punamuno gợi lên cho chúng ta hình ảnh cái khối san
hô chìm sâu dưới lòng đại dương. Ngày qua ngày, trong âm thầm lặng lẽ, khối san
hô ấy tích tụ lớn dần và trổi lên thành những hòn đảo xanh tươi giữa lòng đại
dương. Lịch sử nhân loại được hình thành từ những công lao âm thầm của khối người
vô danh mà mỗi người chúng ta là thành phần. Như hạt giống được âm thầm gieo
vào lòng đất, những vất vả phấn đấu và khổ đau từng ngày của chúng ta là nền
móng vững chắc cho lịch sử của nhân loại được hình thành và tiến tới. Chỉ trong
niềm tin, chúng ta mới nhận ra được những đóng góp âm thầm ấy. Chỉ trong ánh
sáng của máng cỏ chúng ta mới nhìn thấy được giá trị của những hy sinh âm thầm
của con người. Chỉ trong thinh lặng của máng cỏ, chúng ta mới lắng nghe được những
hạt giống của tin yêu và hy vọng đang nảy mầm.
Lạy
Chúa, xin cho ánh sáng của mầu nhiệm nhập thể chiếu rọi vào tâm trí của chúng
con. Và nhờ những thực tại chóng qua ở đời này, chúng con biết nhận ra những
giá trị vĩnh cửu của Nước Trời.
Xin cho
những hạt giống chúng con âm thầm gieo vải từng ngày được trổ bông chín vàng
trong ngày mùa sau hết. Amen.
29/12/2011 - THỨ NĂM TUẦN BÁT NHẬT GS
Th. Tôma Béckét, giám mục, tử đạo
Lc 2,22-35
*******
ƯỚC MONG THẤY CHÚA
“Xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy
ơn cứu độ.” (Lc 2,29-30)
Suy niệm: Một bà lão gặp vị linh mục
và nói: Thưa Cha, con đã cầu nguyện rất nhiều, con chỉ mong thấy Chúa một lần
là đủ cho con, nhưng Chúa chưa nhận lời. Ước mong đơn sơ của bà thật sự gói trọn
niềm hy vọng của người kitô hữu; bởi cùng đích của cuộc đời chúng ta là gặp gỡ
và kết hợp trọn vẹn với Chúa. Mặt khác, lời cầu xin đó cũng khiến chúng ta giật
mình, bởi nhiều khi chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng cứu độ, nhưng cuộc sống của
chúng ta lại không nói lên niềm trông đợi Chúa đến. Gương sống của cụ Simêon thật
đáng để chúng ta noi theo: cụ chờ đợi Chúa không chỉ một vài “mùa Vọng” nhưng
là suốt cuộc đời; cuộc đời công chính và sùng đạo, cụ để cho Chúa Thánh Thần hằng
ngự và dẫn dắt; điều đặc biệt nữa đó là, cụ tin vào lời Thánh Thần linh báo. Và
đến cuối đời, cụ đã được phần thưởng xứng đáng là ẵm Chúa Hài Đồng. Cụ đã thấy
ơn cứu độ và chỉ xin được an bình ra đi.
Mời Bạn: Cụ già Simêon được diễm
phúc thấy và ẵm Hài Nhi trên tay. Còn chúng ta, chúng ta có thể rước Chúa Thánh
Thể vào lòng. Vấn đề là, chúng ta có sùng đạo và những ước mong thấy Chúa như cụ
Simêon không?
Sống Lời Chúa: Mỗi tối trước khi ngủ, tôi hướng về Chúa và lặp lại lời của
cụ Simêon: “Lạy Chúa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi, vì chính mắt con được
thấy ơn cứu độ.”
Cầu nguyện: Lạy Chúa! Đôi khi trong đời của con cũng được khơi lên khát
vọng gặp Chúa, nhưng điều đó đến với con không liên lỉ, bởi vì con chưa sùng đạo
và ước mong gặp Chúa như cụ Simêon. Xin giúp con hằng trông đợi Chúa trong suốt
cuộc đời. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
*****************************************
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 29 - 12
Ngày V trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh; Thánh Tôma Becket, Giám mục,
Tử Đạo;
1Ga 2, 3-11; Tin Mừng theo Thánh Lc 2, 22-25.
LỜI SUY NIỆM:
“Khi đã đến
ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Maria và ông Giuse đem con
lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa.” (Lc 2,22).
Lễ thanh tẩy, là lễ tẩy sạch sau khi sinh nở, nếu
sinh bé trai thì người mẹ bị ô-uế 40 ngày, nếu là gái thì 80 ngày. Trong thời
gian này không được vào Đền Thờ tham dự các lễ nghi tôn giáo. Điều này đối với
Đức Mẹ không cần thiết, nhưng Đức Mẹ là người luôn sống khiêm nhường và Mẹ đã
thi hành vì yêu mến lề luật. Mẹ dâng lễ vật bằng cặp chim câu, thay vì một con
chiên và một con chim câu. Ba sự kiện này cho chúng ta một cái nhìn về phía bản
thân của mình. Thứ nhất chúng ta phải biết yêu kính các giới luật của Chúa và của
Giáo Hội, với một tâm tình vâng phục khiêm nhường. Thứ đến là với một hoàn cảnh
sống của gia đình, chúng ta phải biết sống đơn sơ, không đua đòi, để bớt gánh nặng
cho các thành viên trong gia đình. Điểm cuối cùng chúng ta phải biết tạ ơn: Vì
con cái là phúc lộc của Chúa ban cho, chúng ta phải biết tiến dâng cho Chúa, và
có trách nhiệm nuôi dạy con cái tốt theo đúng đường hướng của Giáo Hội Chúa.
Mạnh Phương
*****************************************
Gương Thánh Nhân
Ngày 29-12: Thánh TOMA BECKET
Giám Mục Tử Đạo - (1118
- 1170)
Thánh
Toma Becket sinh ra tại Luân Đôn năm 1118. Cha Ngài, ông Gibert Becket, là một
hiệp sĩ người Normandy, đã trở thành thương gia giàu có ở Luân Đôn. Mẹ Ngài
cũng là người Normandy .
Ngài có ít là hai chị em mà một người sau này làm tu viện trưởng Barking. Ngài
thừa hưởng từ người mẹ lòng đạo đức, lòng sùng kính Đức Mẹ và lòng quảng đại đối
với người nghèo khó.
Từ
người cha, Toma Becket thừa hưởng một tính khí kiêu hùng và cương quyết. Dáng
người cao ráo, đẹp trai, hấp dẫn và thông minh. Sau khi theo học tại Oxford , Đức Tổng giám mục
Cantebury là Thaobald đã triệu mời Ngài làm quản trị, lo những chuyện liên hệ với
Roma. Toma Becket đã kể ra đáng kể đến nỗi vua Henri II đã đặt Ngài làm chưởng ấn
của vương quốc. Ngài thường khoe khoang, ngựa giòng chim ưng, chó quí là bạn
thân của Ngài. Bù lại sự xa hoa này, Ngài đã tỏ ra quảng đại nhiều với những hy
sinh thầm kín. Ngài cũng rất hiếu chiến và dùng đến các quyền hạn của hoàng tử
mình, Ngài đã tỏ ra có giá trong một trận chiến gần Toulouse . Ngài còn tự lượng sức trong một trận
chiến đấu đơn với một hiệp sĩ danh tiếng người Pháp.
Tổng
giám mục Theobald qua đời, và Toma được chọn làm kế vị bất kể sự chống đối Chúa
hàng giáo sĩ khi thấy "một người thế tục và ồn ào như vậy" được đưa
lên tòa giám mục.
Trong
khi đó, Toma Becket đã tiên báo cho nhà vua biết rằng: - "Thưa Ngài, nếu
Chúa cho phép tôi làm Tổng giám mục Canterbury ,
tôi sẽ hết được Ngài sủng ái. Ngài sẽ đòi tôi nhiều điều, và Ngài đã làm nhiêu
điều chống lại Giáo hội mà tôi sẽ không thể chịu nổi. Tình cảm của Ngài sẽ sớm
đổi thành thù hận không chấm dứt nổi.
Nhưng
nhà vua vẫn muốn thấy Ngài lên ngai giám mục. Ngày 3 tháng sáu năm 1162, Toma
Becket đã thụ phong linh mục và ngày hôm sau được tấn phong giám mục. Kẻ nô bộc
của các hoàng tử đã trở thành nộ bộc của Giáo hội, và chỉ còn muốn giữ vẻ xa hoa
bên ngoài, Ngài trở nên khiêm tốn hơn, mặc áo nhặm, tha thiết yêu thương kẻ
nghèo và xa cách đối với người giàu. Những nhưng điều lo ngại của thánh nhân
không tự biện minh mãi được.
Vua
Henri II bóp nghẹt sự tự do của các tác viên Giáo hội, muốn bắt chàng giáo sĩ
nước Anh phải phục thẩm quyền các tòa án hoàng gia, tước đoạt kho tàng của dân
nghèo. Trước ý muốn của nhà vua, các vị giám mục ngập ngừng, nhiều vị khứng chịu.
Nhưng Tổng giám mục Canterbury
không để mình bị quyến dũ. Tức giận, nhà vua triệu vời các giám mục vương quốc
lại.
Trong
căn phòng tụ họp, hiện ra những con người mang khí giới như s ẵn sàng tiêu diệt
các Ngài. Các giám mục và các lãnh Chúa kinh hoàng khấn nài xin vị giáo chủ nhượng
bộ.
Để
cứu những người chung quanh, Toma Becket như nửa ưng thuận, đã xin hoãn lại để
nghiên cứu vấn đề. Ngài viết thư cho đức Thánh Cha xin phán định. Đức Thánh Cha
đã kết án tất cả những ai đã phát thệ. Thế là Toma Becket đã rút lại lời một
cách cao thượng. Nhà vua bắt bớ Ngài. Đáp lại các lời tố cáo, Ngài tỏ ra cương
quyết và luôn giữ được tâm hồn thanh thản. Thất vọng nhà vua hô hoán: -
"Hoặc là ta mất ngôi, hoặc là con người ấy không còn là tổng giám mục nữa".
Các
hiệp sĩ gọi Ngài là kẻ bội phản. Toma Becket đã trả lời cho một người trong bọn
họ: "Nếu đôi tay này không phải là đôi tay của một linh mục thì ông
phải biết".
Trong
một công đồng ở Nerthampton năm 1164, Ngài lại tỏ ra chống đối và khi bị đe dọa
đếng mạng sống hoặc tù tội. Một đêm kia, Ngài đã tàng hình để thoát thân. Lang
thang nhiều ngày, Ngài tới bờ biển và được một thuyền đánh cá tiếp nhận Ngài
đang lúc mệt nhọc đến đứt hơi và đưa qua Pháp.
Vua
Lu-y VII đã hân hạnh tiếp đón vị tổng giám mục Caterbury, ông nói: - "Nước
Pháp có thói quen nuôi dưỡng vbảo vệ những người chịu đau khổ, nhất là những người
bị lưu đày vì công chính".
Vị
giáo chủ lưu ngụ tại tu viện Pontiguy và tăng gấp nếp sống khắc khổ, đến nỗi có
thể nói được đây là cuộc "Hoán cải thứ nhì, từ đạo đức tới thánh thiện".
Ngài có giờ để cầu nguyện và suy gẫm. Ngài tuân theo luật và nếp sống của tu viện.
Dầy vậy cuộc trả thù của nhà vua vẫn tiếp tục. Cha mẹ và bạn hữu Ngài bị tước hết
tài sản, bị trục xuất tới số 400 người. Họ buộc lòng phải đến với Ngài, làm
thành một đoàn người đáng thương. Toma Becket rất nhiệt thành năng đỡ người
nghèo. Lần này bất lực vì không thể giúp đỡ được những người thân yêu nhất đang
bị khổ cực vì mình. Sau cùng, vua Henri loan báo là sẽ tiêu diệt mọi nhà dòng
Xitô, nếu một nhà dòng Xitô nào còn tiếp tục dung duõng Ngài. Toma Becket liền
đến một nữ tu viện Bênedictô ở Sens. Những năm tháng đau khổ và trơ trọi nối tiếp
nhau.
Trong
khi đó, nhà vua bị Đức Thánh Cha đe dọa, tỏ ra muốn giao hòa với vị Tổng giám mục
vào những tháng cuối cùng năm 1169. Một thứ hòa hoãn chẳng dễ gì. Nhưng vị giáo
chủ đã nói với những người muốn ngăn cuộc hồi hương của mình rằng: -
"Dù có biết chắc mình sẽ bị chặt thành trăm mảnh, tôi vẫn trở về. Đã sáu
năm rồi, đoàn chiên của tôi vắng bóng chủ chăn".
Ngài
tạo thêm nhiều thù địch khi đưa ra những sắc lệnh huyền chức những vị giám mục
muốn chống đối lại Ngài. Khi tới Canterbury ,
dân chúng chen lẫn nhau giữa những khúc thánh ca và những hồi chuông đổ dồn để
đến lãnh phép lành của Ngài. Những lời đầu tiên Ngài nói trên tòa giảng là: -
"Tôi đã tới để chịu chết giữa anh em".
Nhà
vua tức giận với cuộc trở về khải hoàn này của Toma Becket, một con người không
thể lay chuyển trong mọi việc bảo vệ những quyền tự do của Giáo hội. Người ta
nghe thấy vua Henri kêu lớn: - "Không có được lấy một người trong số những
kẻ hèn ta nuôi dưỡng đây gỡ cho chúng ta người giáo sĩ ngạo mạn này sao ?"
Khi
ấy có bốn hiệp sĩ đi Canterbury .
Họ gặp vị giáo chủ trong căn phòng gần nhà thờ chính tòa với các linh mục và tu
sĩ. Họ nhục mạ Ngài, nhưng Ngài nói: - "Đừng mất thời gian đe dọa tôi. Để
sát cánh chiến đấu, các người sẽ thấy tôi luôn luôn ở trong trận chiến của
Chúa".
Các
hiệp sĩ hùng hổ đi ra. Các giáo sĩ trách Ngài làm cho họ phải chết. Toma Becket
không trốn tránh, Ngài nói với họ: - "Tất cả chúng ta hoặc phải chết. Đừng
để sự sợ hãi làm cho chúng ta xa rời sự công chính. Tôi sẵn sàng chết vì tình
yêu Chúa mà những người này giết tôi không phải vì tình yêu như vậy".
Và
khi nghe bước chân và tiếng kêu của các hiệp sĩ có võ trang, Ngài leo lên thang
nhà thờ chính tòa Ngài nói: - "Tôi ra tiền tuyến".
Trả
lời cho những lăng nhục, Ngài nói: - "Tôi không phải là kẻ phản bội, nhưng
là một linh mục. Tôi sẵn sàng vì Danh đấng đã lấy máu cứ chuộc tôi ... Nhưng vì
Danh Thiên Chúa, đừng động tới những người này của tôi".
Dựa
lưng vào cột, Đức Tổng giám mục chống lại những người muốn đưa Ngài đi, đẩy những
người tấn công ngã soài xuống đất: "Tôi không đi đâu hết, hãy làm việc đó ở
đây đi".
Những
người khác ngập ngừng. Vị tử đạo lớn tiếng phú mình cho Chúa và Giáo hội:
"Lạy Chúa, con phó linh hồn con trong tay Chúa".
Hai
nhát gươm tiếp liền. Toma Becket ngã xuống miệng còn nói: - "Vì danh Chúa
Giêsu và vì Giáo hội, tôi bằng lòng chịu chết". Và Ngài nằm chết cạnh bàn
thờ.
Cái
chết của Đức tổng giám mục làm chấn động lương tâm toàn thể Chân Au. Các phép lạ
được phổ biến trên mộ Ngài. Đức Alexander III năm 1173 đã phong Ngài làm thánh
tử đạo. Nhà vua đã thống hối công khai bên mộ Ngài và những gì khiến thánh nhân
chịu khổ đã được sua sai nhờ cái chết của Ngài. Canterbury trở thành nơi hành hương thứ nhì
sau Rôma.
(daminhvn.net)
*****************************************
29 Tháng Mười Hai
Hoàng Tử Và Cậu Bé Nghèo
Văn hào Anh Mark Twain cách đây ba thế kỷ, có viết
một quyển tiểu thuyết mang tựa đề "Hoàng tử và cậu bé nghèo". Chuyện
kể lại tình bạn của hai cậu bé giống hệt nhau khiến người ta tưởng là sinh đôi.
Một trong hai cậu bé tên là Edward, hoàng tử xứ Galles. Còn Tom Canty, người bạn
của vị hoàng tử, lại là một cậu bé con nhà nghèo.
Một ngày kia, hai cậu bé có một ý nghĩ ngộ
nghĩnh là thay đổi địa vị xã hội. Tom vào thế chỗ của vị hoàng tử Edward trong
triều đình, còn Edward thì khoác lên mình mảnh áo rách rưới và bắt đầu cuộc
phiêu lưu. Cậu lang thang đầu đường xó chợ bên cạnh những người cùng cực nhất
trong xã hội.
Thế nhưng một lúc nào đó, hai cậu bé cũng cảm thấy
mệt mỏi với trò chơi đầy phiêu lưu này. Edward mới sực tỉnh về ngôi vị hoàng tử
của mình. Trong bộ quần áo rách rưới nhơ bẩn, cậu tìm đủ mọi cách để chứng minh
rằng mình là hoàng tử nối ngôi của xứ Galles. Nhưng cảnh sát đã không tin... Thế
là hoàng tử Edward đành phải lặng lẽ bước vào tù vì tội giả mạo.
Giữa lúc Tom, cậu bé nghèo, sắp sửa được tấn
phong làm vua, thì hoàng tử Edward xuất hiện... Không mấy chốc cậu đã được phục
hồi trong ngôi vị hoàng tử của cậu. Chính nhờ kinh nghiệm của những tháng ngày
làm người ăn xin, lang thang đầu đường xó chợ với những người cùng khổ, mà
Edward đã trở thành một vị vua đạo đức và giàu lòng thương người.
Cũng giống như câu chuyện trên đây, Thiên Chúa
đã đến giữa loài người để hoán đổi vị thế với chúng ta. Ngài mặc lấy thân xác
nghèo hèn của chúng ta để chúng ta được mang lấy tước phẩm được làm con Chúa.
Nhờ ân sủng của Ngài, Ngài chia sẻ với chúng ta sự sống thần linh và đón nhận
trong thân xác Ngài tất cả những hệ lụy của kiếp sống khổ đau của con người.
Mang lấy trong thân xác Ngài khổ đau của nhân loại,
Chúa Giêsu đã tự đồng hóa mình với từng người, nhất là những người khổ đau. Ðồng
hóa mình với những người đau khổ, Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta con đường để
gặp gỡ Ngài: Ngài hiện diện trong những đau khổ, bé mọn nhất. Tiếp rước những người
đó chính là tiếp rước Ngài.
Thiên Ðàng là một gặp gỡ triền miên với Chúa,
nhưng cuộc gặp gỡ này chỉ được chuẩn bị bằng những gặp gỡ của chúng ta với tha
nhân, chúng ta sẽ gặp được Chúa. Chúng ta khước từ tha nhân, chúng ta cũng khước
từ chính Chúa.
Tha nhân là Bí Tích của Thiên Chúa. Chính trong tha nhân mà chúng ta phải nhận ra và yêu mến Chúa.
Tha nhân là Bí Tích của Thiên Chúa. Chính trong tha nhân mà chúng ta phải nhận ra và yêu mến Chúa.
Nơi bàn thờ, vị linh mục đọc lại lời của Chúa
Giêsu: này là Mình Ta, này là Máu Ta... Khi chỉ cho chúng ta mỗi một con người,
có lẽ Chúa Giêsu cũng sẽ nói: "Này là Mình Ta...".
Thánh lễ là một cuộc gặp gỡ với Chúa. Cuộc gặp gỡ
này chỉ có ý nghĩa và giá trị nếu trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cũng biết
nhận ra Chúa trong từng cuộc gặp gỡ với tha nhân... Xin Chúa thêm Ðức Tin để
chúng ta có thể nhận ra Chúa Giêsu trong tha nhân, nhất là những người cùng khổ,
bé mọn trong xã hội.
(Lẽ Sống)
*****************************************
Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 29 tháng 12 Bát Nhật
Giáng Sinh
Bài đọc: I Jn 2:3-11; Lk
2:22-35.
1/ Bài đọc I: 3 Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra
rằng chúng ta biết Thiên Chúa:
là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người.
là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người.
4 Ai nói rằng mình biết
Người mà không tuân giữ các điều răn của Người,
đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy.
đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy.
5 Còn hễ ai giữ lời Người
dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo.
Căn cứ vào đó, chúng ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa.
Căn cứ vào đó, chúng ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa.
6 Ai nói rằng mình ở lại
trong Người, thì phải đi trên con đường Đức Giê-su đã đi.
7 Anh em thân mến, đây
không phải là một điều răn mới tôi viết cho anh em, nhưng là một điều răn cũ mà
anh em đã có ngay từ lúc khởi đầu. Điều răn cũ ấy là lời mà anh em đã nghe.
8 Nhưng đó cũng là một điều
răn mới tôi viết cho anh em, điều ấy thật là thế
nơi Đức Giê-su và nơi anh em, bởi vì bóng tối đang qua đi và ánh sáng thật đã tỏ rạng.
nơi Đức Giê-su và nơi anh em, bởi vì bóng tối đang qua đi và ánh sáng thật đã tỏ rạng.
9 Ai nói rằng mình ở trong
ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối.
10 Ai yêu thương anh em
mình thì ở lại trong ánh sáng, và nơi người ấy không có gì nên cớ vấp phạm. 11 Nhưng ai ghét anh em mình thì ở trong
bóng tối và đi trong bóng tối mà chẳng biết mình đi đâu, vì bóng tối đã làm cho
mắt người ấy ra mù quáng.
2/ Phúc Âm: 22 Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các
ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến
dâng cho Chúa, 23 như đã chép trong Luật Chúa rằng:
"Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa," 24 và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa
truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.
25 Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem,
có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những
mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông.
26 Ông đã được Thánh Thần
linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô
của Đức Chúa. 27 Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ.
Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền
liên quan đến Người,
28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi
trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
29 "Muôn lạy Chúa, giờ
đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
30 Vì chính mắt con được thấy
ơn cứu độ 31 Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
32 Đó là ánh sáng soi đường
cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài."
33 Cha và mẹ Hài Nhi ngạc
nhiên vì những lời ông Si-mê-ôn vừa nói về Người.
34 Ông Si-mê-ôn chúc phúc
cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: "Thiên Chúa đã đặt
cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu
còn là dấu hiệu cho người đời chống báng;
35 và như vậy, những ý nghĩ
từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn
bà."
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Biết Thiên Chúa là bước đi trong đường lối của
Ngài.
Quan
niệm về “biết” của người Việt-Nam gần gũi với người Do-Thái hơn Hy-Lạp. Người
Hy-Lạp quan niệm biết là họat động của tri thức, trong khi người Do-Thái quan
niệm biết phải ảnh hưởng đến đời sống. Người Việt-Nam chúng ta quan niệm “tri
hành phải đồng nhất” thì mới mang lại kết quả tốt đẹp cho con người, và chúng
ta đặt tầm quan trọng trên việc làm hơn là lời nói: “lời nói mới lung lay,
nhưng gương bày lôi kéo.” Biết mà không làm, có lợi chi đâu?
Các
Bài đọc hôm nay đặt trọng tâm vào việc biết Thiên Chúa là phải bước đi trong đường
lối của Người. Trong Bài đọc I, Thánh Gioan làm sáng tỏ quan niệm “biết Thiên
Chúa” cho người Hy-Lạp. Theo ngài, biết Thiên Chúa không phải chỉ thuần tri thức,
nhưng liên quan đến đời sống luân lý của người tin. Ngài quả quyết: “Ai nói rằng
mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và
sự thật không ở nơi người ấy.” Trong Phúc Âm, Thánh Luca nêu lên những tấm
gương của những người biết và sống theo đường lối của Thiên Chúa: Thánh Giuse,
Đức Mẹ Maria, và cụ già Simeon.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải
đi trên con đường Đức Giêsu đã đi.
1.1/
Hai lối hiểu biết khác nhau: Khi Kitô Giáo vượt qua lãnh thổ Do-Thái tràn vào
Hy-Lạp, Thánh-sử Gioan phải đương đầu với sự hiểu biết và lý luận của người
Hy-Lạp; một trong những điều ngài phải làm sáng tỏ là quan niệm “biết Thiên Chúa.”
(1)
Theo Hy-Lạp: Biết Thiên Chúa là lãnh vực của trí tuệ, chứ không phải là lãnh vực
của luân lý; vì thế, một người có thể nói mình biết Thiên Chúa mà không cần giữ
giới răn của Ngài. Đối với người Hy-Lạp, con người có thể tự mình giải thóat bằng
kiến thức và suy luận (Gnosticism, chủ thuyết thuần tri thức).
(2)
Theo Do-Thái: Biết Thiên Chúa là bước đi theo đường lối của Ngài, là giữ cẩn thận
các giới răn của Ngài. Đó là lý do tại sao ngài cắt nghĩa: “Căn cứ vào điều
này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: là chúng ta tuân giữ các
điều răn của Người. Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn
của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Còn hễ ai giữ lời
Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Căn cứ vào
đó, chúng ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa. Ai nói rằng mình ở lại
trong Người, thì phải đi trên con đường Đức Giêsu đã đi.”
1.2/
Giới răn yêu thương vừa cũ vừa mới: “Anh em thân mến, đây không phải là một điều
răn mới tôi viết cho anh em, nhưng là một điều răn cũ mà anh em đã có ngay từ
lúc khởi đầu. Điều răn cũ ấy là lời mà anh em đã nghe. Nhưng đó cũng là một điều
răn mới tôi viết cho anh em, điều ấy thật là thế nơi Đức Giêsu và nơi anh em, bởi
vì bóng tối đang qua đi và ánh sáng thật đã tỏ rạng.”
(1)
Là giới răn cũ: vì đã được nhắc tới ngay từ đầu. Sách Levi có giới răn này:
“Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lev 18:19).
(2)
Là giới răn mới: vì được thực hiện bởi Đức Kitô (Jn 13:34). Có những cái cũ,
nhưng trở nên mới vì người thực hành nó; chẳng hạn, bài nhạc cũ nhưng được
trình bày theo lối mới. Cũng vậy, khi Đức Kitô sống giới răn yêu thương, Ngài mở
ra cho con người một chân trời hòan tòan mới. Ngài mở rộng giới răn yêu thương
tới tội nhân và kẻ thù. Ngài dạy: “không có tình yêu nào cao quí cho bằng tình
yêu của người dám thí mạng sống cho người mình yêu.” Ngài đã đi trước làm gương
cho con người bằng cái chết trên Thập Giá.
1.3/
Ánh sáng và bóng tối: Thánh Gioan đồng nhất:
-
Ánh sáng là yêu thương: “Ai yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng, và
nơi người ấy không có gì nên cớ vấp phạm.”
-
Bóng tối là hận thù: “Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em
mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối... Ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối
và đi trong bóng tối mà chẳng biết mình đi đâu, vì bóng tối đã làm cho mắt người
ấy ra mù quáng.”
2/ Phúc Âm: Các mẫu gương của những người sống theo đường
lối của Thiên Chúa.
2.1/
Gia Đình Thánh tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa: Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của
các ngài theo luật Moses, Bà Maria và Ông Giuse đem con lên Jerusalem, để tiến
dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải
được gọi là của thánh, dành cho Chúa," và cũng để dâng của lễ theo Luật
Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.
2.2/
Ông Simeon tin vào Lời Thiên Chúa hứa và sự thúc đẩy của Thánh Thần.
(1)
Ông Simeon là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của
Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết
là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. Được
Thánh Thần thúc đẩy, ông lên Đền Thờ.
(2)
Lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới, ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng
Thiên Chúa rằng: "Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi
tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn
cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel
Dân Ngài."
2.3/
Ông Simeon nói tiên tri:
(1)
Về con trẻ: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống
hay đứng dậy. Cháu còn là mục tiêu cho người đời chống đối; và như vậy, những ý
nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra.” Nhiều người bị ngã xuống hay được đứng
dậy là hòan tòan tùy thuộc vào phản ứng của họ đối với Đức Kitô. Trong cuộc đời
của Chúa, người bị ngã xuống là phần đông là các Kinh-sư và Biệt-phái, vì họ từ
chối không tin và luôn tìm cách bắt bẻ và tiêu diệt Ngài. Những người được đứng
dậy là các người thu thuế, gái điếm, và dân ngọai; tuy bị coi là tội lỗi, nhưng
khi được Chúa tỏ lòng thương xót, họ đã ăn năn và tin vào Ngài.
(2)
Về Mẹ Maria: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà." Cuộc đời
của Chúa Giêsu là cuộc đời của Mẹ; đau khổ của Con là của Mẹ. Mẹ Maria đã đồng
hành với con từ lúc sinh ra trong máng cỏ cho tới lúc sinh thì tên Thập
Giá.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải chứng minh việc biết Thiên Chúa bằng đời sống chứng nhân: tuân giữ
những gì Thiên Chúa truyền dạy.
-
Giới răn quan trọng nhất Thiên Chúa dạy chúng ta là “mến Chúa yêu người.” Chúng
ta không chỉ biết giới răn này, nhưng phải mang ra áp dụng trong cuộc đời và với
mọi người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
*****************************************
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét