11/04/2014
Thứ Sáu sau Chúa Nhật
V Mùa Chay
Bài
Ðọc I: Gr 20, 10-13
"Chúa
ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng".
Trích
sách Tiên tri Giêrêmia.
Tôi
đã nghe nhiều người thoá mạ và chế nhạo rằng: "Người này gieo khủng bố khắp
nơi. Chúng ta hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó". Tất cả bạn hữu tôi
rình tôi vấp ngã mà nói rằng: "Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó
và sẽ trả thù nó". Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng;
vì thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức. Chúng sẽ thất bại bẽ bàng,
chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên được.
Còn
Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Ðấng xét xử người công chính, thấu suốt tâm can, lạy
Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù chúng cho con, vì con đã tỏ bày công
việc con cho Chúa.
Hãy
hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh
khỏi tay kẻ dữ.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 17, 2-3a. 3bc-4. 5-6. 7
Ðáp: Trong cơn đại
hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa của tôi (x.c. 7).
Xướng:
1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Tảng Ðá, chiến luỹ,
cứu tinh. - Ðáp.
2)
Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy
quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ
được cứu thoát khỏi tay quân thù. - Ðáp.
3)
Sóng tử thần đã bao bọc thân con, và thác nước ôn dịch làm con kinh hãi. Thừng
chão địa ngục đã quấn lấy con, lưới tử thần đã chụp bắt con rồi. - Ðáp.
4)
Trong cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa của tôi; từ
nơi thánh đài, Ngài nghe rõ tiếng, và tiếng tôi kêu thấu đến tai Ngài. - Ðáp.
Câu
Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11
Chúa
phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và
được sống".
Phúc
Âm: Ga 10, 31-42
"Họ
tìm bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, người Do-thái lượm đá để ném Chúa Giêsu. Người lên tiếng hỏi rằng: "Ta
đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà các
ngươi muốn ném đá Ta?"
Người
Do-thái trả lời: "Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng
vì một lời lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên
Chúa".
Chúa
Giêsu đáp lại: "Nào trong sách luật của các ngươi không có chép câu này:
"Ta đã nói: các ngươi là thần"? Vậy nếu sách luật gọi những kẻ được
nghe lời Chúa là thần, mà Kinh Thánh không thể huỷ diệt được, thì tại sao các
ngươi nói với Ðấng đã được Chúa Cha thánh hoá và sai đến trong trần gian rằng
"Ông nói lộng ngôn", vì Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa? Nếu Ta không
làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những việc
đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó, để các
ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha".
Bởi
đó họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ. Người lại qua bên kia
sông Giođan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở lại đó. Có nhiều kẻ
đến cùng Người. Họ nói: "Gioan đã không làm một phép lạ nào. Nhưng mọi điều
Gioan nói về người này đều đúng cả". Và có nhiều kẻ tin Người.
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Làm
Con Thiên Chúa
Có
người hỏi chị Chiara Lubic: "Làm sao chị có thể theo dõi hàng trăm ngàn
người trên thế giới? Làm sao chị có thể hướng dẫn tất cả mọi người theo cùng một
linh đạo?" Chị mỉm cười trả lời: "Tôi không theo dõi ai cả. Tôi chỉ
theo Thiên Chúa từng giây phút, và nếu tôi theo Thiên Chúa thì những người ấy họ
sẽ theo tôi".
Anh
chị em thân mến!
Bí
quyết của chị Chiara Lubic được mọi người Kitô chúng ta áp dụng. Chúng ta không
cần hô hào ai theo mình cả, chỉ cần chúng ta hết lòng sống theo Thiên Chúa, sống
thánh thiện theo mẫu gương và lời dạy của Chúa Giêsu Kitô cách cụ thể trong các
bổn phận hằng ngày, thì anh chị em xung quanh sẽ mộ mến đến với chúng ta. Việc
làm tốt luôn thu hút.
Ðối
với người Kitô hữu, việc làm tốt đó là việc thánh vì việc đó làm cùng với Chúa
và nhờ ân sủng Ngài thánh hóa. Do đó, có sức mạnh thu hút anh chị em không những
đến với cá nhân ta mà còn đến với Thiên Chúa nữa: "Chúng con hãy nên trọn
lành như Cha các con ở trên trời là Ðấng trọn lành. Ðể mọi người nhìn thấy việc
các con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời là Ðấng trọn lành".
Bí
quyết sống trên của chị Chiara Lubic thật ra không phải là của chị nữa, nhưng
do sự gợi hứng nếp sống của chính Chúa Giêsu Kitô. Khi Ngài rao giảng cho dân
chúng tại Palestina, Ngài đã không nói suông, mà Ngài đã hành động qua việc thực
hiện những phép lạ, qua việc thi ân cho những ai thành tâm tin nhận vào Ngài, đến
với Ngài. Chúa đã sống điều Ngài giảng dạy và luôn sống kết hợp với Thiên Chúa
Cha, Ðấng đã sai Ngài đến trần gian. Vì thế, vào lúc gần kết thúc cuộc đời trần
gian, Chúa Giêsu xem như đã nài nỉ những kẻ cứng lòng tin vào Ngài rằng:
"Nếu các ngươi không tin vào những điều Ta nói, thì ít ra hãy tin vào những
việc Ta làm". Nhưng họ trả lời: "Chúng tôi muốn ném đá các ông không
phải vì việc lành, nhưng vì những lời nói lộng ngôn. Bởi vì ông là người mà dám
cho mình là Thiên Chúa".
Anh
chị em thân mến!
Nghe
Lời Chúa giảng dạy và nhìn thấy những việc lạ Chúa làm, những người Do Thái
khám phá được rằng: "Chúa Giêsu không vì chút lợi lộc trần gian nào mà chỉ
muốn minh chứng rằng Ngài là Con Thiên Chúa, là Ðấng cứu rỗi trần gian".
Trong
suốt tuần qua, chúng ta đọc những đoạn Phúc Âm của thánh Gioan ghi lại các
tranh luận giữa Chúa Giêsu cà những người Do Thái không tin. Trong các tranh luận
này, Chúa Giêsu luôn mạc khải những sự thật quan trọng về chính Ngài, về mối
tương quan giữa Ngài và Thiên Chúa Cha: Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha".
Những người Do Thái họ có thể hiểu được những lời này, nhưng họ không thể hay
không muốn tin vào Chúa. Họ vẫn giữ lập trường là coi Chúa Giêsu là một con người
phàm trần. Do đó, họ lượm đá ném Ngài và cho Ngài là dám lộng ngôn, dám tự xưng
mình là Con Thiên Chúa. Vì thế, những người Do Thái không tin này đã quá chìm
sâu trong sự trần tục, trong những tội lỗi của họ. Họ vui lòng với những gì họ
đang làm, không cảm thấy cần đến ơn cứu rỗi, không cần Ðấng cứu rỗi họ.
Người
Kitô hữu chúng ta ngày nay cũng có thể bị ảnh hưởng tư tưởng trần tục hóa này.
Chỉ muốn nhìn Chúa Giêsu như một con người, một nhà cách mạng xã hội, không hơn
không kém. Chúng ta có thể bị cám dỗ lượm đá ném Thiên Chúa và tất cả những gì
có liên quan đến Ngài. Như những con người ngông cuồng, chúng ta có thể dùng nước
sơn đen rải khắp nẻo đường, vẽ lên tường những khẩu hiệu xúc phạm đến Thiên
Chúa.
Ðức
cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách "Ðường Hy Vọng"
đã khuyên những người con tinh thần của ngài như sau: Con phải hiện diện trên
đường hy vọng để dâng hiến và kêu gọi kẻ khác dâng hiến. Ðó là cách con phục vụ
họ tốt đẹp hơn cả. Con giúp họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa trong Ðức Kitô. Ðó
là trách nhiệm của người Kitô. Là đồ đệ yêu quí của Chúa, chúng ta không nên
làm ngơ để mặc cho anh chị em xung quanh tha hồ ném đá Chúa.
Con
gặp trăm ngàn thanh niên đang lây lất bên đường. Họ bàn tán bất tận về mộng xây
dựng một xã hội mới, một con người mới. Nhưng họ đã gặp xì ke, bạo động, trụy lạc
chán nản. Họ cần con, họ kêu con tiếng kêu của người chết đuối, tiếng vang của
người ngộp thở. Chúng ta dùng danh từ đạo và đời, hồn và xác, nhưng các yếu tố ấy
không thể tách rời nhau được, chúng nối kết lẫn nhau trong lòng là làm con
Chúa. Chỉ có một cuộc sống, chỉ có một lịch sử đạo đời, hồn xác liên kết mật
thiết.
Bí
quyết để đọc xuyên qua các biến cố là con hãy lấy Phúc Âm nuôi linh hồn, sự thông
hiệp liên lỉ với Chúa Giêsu sẽ cho con có tinh thần của Ngài. Chúa nhìn trần
gian thế nào? Ðức Chúa Cha đã yêu trần gian đến nỗi đã sai Con Một Ngài xuống cứu
trần gian. Mỗi giây phút của cuộc đời, con hãy cố gắng thăng tiến nó một cách
không ngừng trong việc thực hiện chương trình của Thiên Chúa trong lịch sử cuộc
đời.
Lạy
Chúa, xin ban ơn đức tin cho con. Vì chỉ khi nào con tin Chúa vững mạnh, thì
con mới có thể dấn thân cho Chúa mà thôi. Xin cho con góp phần nhỏ bé của mình
để Chúa đừng bị ném đá, đừng bị xúc phạm nữa trong xã hội loài người chúng con.
Amen.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần V MC
Bài đọc: Jer 20:10-13; Jn
10:31-42.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ngôn sứ của Thiên
Chúa bị truy tố và bị ném đá.
Quyền
hành đến từ Thiên Chúa. Khi con người nắm quyền hành, họ phải biết dùng quyền
được trao để phân xử công minh: trừng trị kẻ gian ác và bảo vệ quyền lợi cho kẻ
vô tội. Thế nhưng nhiều người khi có quyền, đã không làm như thế. Họ nghĩ họ có
thể bắt mọi người làm theo lệnh truyền của họ, bất chấp sự thật và công bình.
Các
Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc lạm dụng uy quyền để đấu tố người công
chính. Trong Bài Đọc I, tư tế Pathhur lạm dụng uy quyền của mình để bắt bớ,
đánh đập, và bỏ tù tiên-tri Jeremiah, vì ông đã tuyên sấm tội lỗi và hình phạt
của dân thành Jerusalem. Trong Phúc Âm, những người Do-thái lượm đá ném Chúa
Giêsu vì cho Ngài phạm thượng, là người mà dám cho mình ngang hàng với Thiên
Chúa. Chúa Giêsu dùng Kinh Thánh để cắt nghĩa và dùng các việc làm để chứng
minh Ngài được Thiên Chúa thánh hiến và sai đến thế gian; nhưng họ vẫn ngoan cố
không tin vào Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Ngôn sứ Jeremiah bị truy tố.
1.1/
Jeremiah bị tư tế Pathhur chống đối: Là ngôn sứ của Đức Chúa, tiên-tri Jeremiah phải
tuyên sấm những gì Thiên Chúa muốn nói cho vua Judah, các tư tế, và dân thành
Jerusalem. Tư tế Pathhur, con ông Immer, tổng quản đốc Nhà Đức Chúa, chẳng những
đã không nghe lời Jeremiah tuyên sấm, lại còn cho đánh đòn ngôn sứ Jeremiah và
cho cùm ông tại cửa Bengiamin, tức là Cửa Trên trong Nhà Đức Chúa. Lão “Tứ phía
kinh hoàng” là tên của Jeremiah đặt cho tư tế Pashhur, sau khi ông này bắt bớ,
đánh đập, và giam cầm tiên tri (Jer 20:3).
Jeremiah
nói tiên tri về vận mạng của Pathhur và của tòan dân: “Quả thật, Đức Chúa phán
như sau: Này Ta sẽ biến ngươi thành nỗi kinh hoàng cho chính ngươi và tất cả bạn
bè của ngươi. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm quân thù, chính mắt ngươi sẽ chứng
kiến điều đó. Ta sẽ trao nộp toàn thể Judah vào tay vua Babylon; nó sẽ bắt
chúng đi lưu đày ở Babylon; sẽ dùng gươm tàn sát chúng. Tất cả của cải thành
này cùng với mọi công lao vất vả và mọi đồ quý giá, cũng như tất cả kho tàng của
các vua Judah, Ta sẽ nộp vào tay quân thù chúng; bọn này sẽ cướp phá, tịch thu
đem về Babylon. Còn ông, hỡi Pathhur, chính ông và tất cả những người ở trong
nhà ông sẽ phải đi lưu đày. Ông sẽ đi Babylon, sẽ chết tại đó và sẽ phải chôn tại
đó; ông cũng như tất cả bạn bè, tức là những người đã nghe ông tuyên sấm
láo!"
1.2/
Ngôn sứ Jeremiah tìm sức mạnh nơi Thiên Chúa: Một mình phải đương đầu với bao
nhiêu chống đối từ gia đình, bạn bè, các tư tế, và triều đình nhà vua, tiên-ri
Jeremiah biết mình sẽ không thể địch nổi với bè lũ hung tàn, nếu không có sức mạnh
của Thiên Chúa. Tiên tri tin tưởng và cầu nguyện: “Nhưng Đức Chúa hằng ở bên
con như một trang chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại con sẽ thất điên
bát đảo, chúng sẽ không thắng nổi con. Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề:
đó là một nỗi nhục muôn đời không thể quên.”
Tiên-tri
biết Thiên Chúa có uy quyền để trừng phạt và sức mạnh để giải thóat người công
chính: “Lạy Đức Chúa các đạo binh, Đấng dò xét người công chính, Đấng thấu suốt
tâm can, con sẽ thấy Ngài trị tội chúng đích đáng, vì con đã giãi bày cơ sự
cùng Ngài. Hãy ca tụng Đức Chúa, hãy ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã giải thoát
kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo.”
2/
Phúc Âm:
Chúa Giêsu bị người Do-thái ném đá.
2.1/
Lý do Chúa Giêsu bị ném đá: Chúa Giêsu chất vấn người Do-thái tại sao ném đá Ngài, người
Do-thái cho Chúa Giêsu biết lý do: "Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một
việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho
mình là Thiên Chúa." Lời mà họ vịn vào để ném đá Chúa Giêsu là “Tôi và
Chúa Cha là một” (Jn 10:30). Chúa Giêsu biết rất khó để cắt nghĩa cho họ hiểu
câu này, nên Ngài dùng cách cắt nghĩa bằng việc làm. Chúa Giêsu dùng lời Thánh
Vịnh 82:6: “Ta đã phán: Hết thảy các ngươi đây đều là bậc thần thánh (elohim),
là con Đấng Tối Cao (benê Elyôn).” Trong Cựu Ước, Thiên Chúa thường chọn
các Quan Án và gởi họ đến cho dân để họ xét xử dân theo lẽ công bình. Các Quan
Án này thường được coi như các vị thần của dân chúng. Ý tưởng này rõ ràng hơn
trong Sách Xuất Hành khi Đức Chúa phán với ông Moses: "Coi này, Ta làm cho
ngươi nên một vị thần (elohim) đối với Pharao, còn Aaron, anh ngươi, sẽ
là ngôn sứ của ngươi” (Exo 7:1). Chúa Giêsu kết luận: “Nếu Lề Luật gọi những kẻ
được Thiên Chúa ngỏ lời là những bậc thần thánh, mà lời Kinh Thánh không thể bị
huỷ bỏ, thì tôi là người Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian, làm sao
các ông lại bảo tôi: "Ông nói phạm thượng! vì tôi đã nói: "Tôi là Con
Thiên Chúa?"”
2.2/
Chúa Giêsu chứng minh bằng việc làm: Chúa Giêsu không chỉ chứng minh cho họ bằng lời Kinh
Thánh, mà còn bằng các việc Người đã làm: nuôi dân chúng ăn, chữa lành mọi bệnh
tật, trục xuất quỷ, cho người chết sống lại … Những việc này chứng minh Ngài có
uy quyền của Thiên Chúa. Chúa Giêsu hỏi họ: “Nếu tôi không làm các việc của Cha
tôi, thì các ông đừng tin tôi. Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông
không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó. Như vậy, các ông sẽ biết và ngày
càng biết thêm rằng: Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha." Không
thể tranh luận với Ngài lời, cũng không thể bắt lỗi Ngài bằng việc làm; lẽ ra họ
phải phục thiện và tin vào Ngài, nhưng họ lại chọn dùng vũ lực để uy hiếp Người
vô tội như trình thuật kể: “Bấy giờ họ lại tìm cách bắt Người, nhưng Người đã
thoát khỏi tay họ.”
Chúa
Giêsu trở về chỗ Ngài đã chịu Phép Rửa bởi Gioan và Ngài ở lại đó: Tại sao Chúa
Giêsu tìm đến nơi này? Ngài biết giờ của Ngài trên dương gian sắp hết và Ngài
muốn tìm lại nguồn sức mạnh nơi Ngài bắt đầu sứ vụ rao giảng để có đủ sức đương
đầu với những người chống đối. Đây là chỗ mà Thiên Chúa Cha đã làm chứng cho
Ngài bằng tiếng vọng từ Trời: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời
Người.” Nhiều người đến gặp Đức Giêsu. Họ bảo nhau: "Ông Gioan đã không
làm một dấu lạ nào cả, nhưng mọi điều ông ấy nói về người này đều đúng." Họ
nhận ra sự khác biệt giữa Chúa Giêsu và Gioan: Ông Gioan là ngôn sứ nói cho họ
biết về Chúa Giêsu, nhưng không làm một phép lạ nào cả. Chúa Giêsu chứng minh
những gì Gioan nói về Ngài là sự thật bằng các việc Ngài làm. Tổng hợp cả hai lời
chứng và việc làm, “Ở đó, nhiều người đã tin vào Đức Giêsu.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải sáng suốt để nhận ra sự thật, cho dù sự thật có phũ phàng và thiệt
hại đến đâu đi nữa; vì chỉ có sự thật mới thực sự giải thóat con người.
-
Làm ngôn sứ cho Thiên Chúa là phải đương đầu với quyền lực của thế gian và ma
quỉ; chúng ta không được khiếp sợ những quyền lực này đến độ không dám nói và
làm chứng cho sự thật.
-
Chúng ta phải tôn trọng những người dám nói và làm chứng cho sự thật. Đừng bao
giờ lạm dụng uy quyền để bịt miệng, đàn áp, bỏ tù, và thủ tiêu họ. Thiên Chúa
là Đấng Chí Công, Ngài sẽ bảo vệ, giải thóat, và trả thù cho những người công
chính.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẢY MẦM
Gr
20,10-13 ; Ga 10,31-42
A.
Hạt giống...
1.
Bài đọc 1 : Nhất trí với nhiều ngôn sứ khác, ngôn sứ Giêrêmia tiên báo Đấng
Messia sẽ bị chống đối và bách hại bởi chính dân mình. Nhưng Ngài sẽ được Thiên
Chúa nâng đỡ vá cứu thoát.
2.
Trong đoạn Tin Mừng hôm qua, Chúa Giêsu cố gắng làm cho người do thái hiểu Ngài
là ai. Ngài nói hơi xa xội “Khi Abraham chưa sinh ra thì đã có Ta rồi”. Họ
không hiểu mà còn lấy đá định ném Ngài. Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu nói
rõ “Ta là Con Thiên Chúa”. Lần này, họ kết Ngài tội phạm thượng.
B....
nẩy mầm.
1.
“Trong các cuộc tranh luận với người do thái, Chúa Giêsu đã mặc khải sự thật về
Ngài, về mối tương quan giữa Ngài với Chúa Cha : “Cha ở trong Ta và Ta ở trong
Cha”. Nhưng người do thái không thể hoặc không muốn tin vào Chúa. Họ vẫn khăng
khăng coi Ngài chỉ là một con người. Do đó họ đã lượm đá ném Chúa vì cho Ngài lộng
ngôn... Những người do thái này đã quá chìm sâu trong tội lỗi của họ. Họ không
cảm thấy cần đến ơn cứu rỗi. Người kitô hữu chúng ta ngày nay cũng có thể bị ảnh
hưởng bới tinh thần thế tục : chỉ muốn nhìn Chúa Giêsu như một con người, một
nhà cách mạng xã hội không hơn không kém. Chúng ta có thể bị cám dỗ lượm đá ném
Chúa v2 những gì liên hệ đến Ngài” ("Mỗi ngày một tin vui")
2.
Nhìn thấy sự khó tin của người do thái đối với Chúa Giêsu, rồi nhìn lại đức tin
của mình sao mà dễ dàng quá : ngay từ khi mới sinh ra mình đã được biết Chúa và
tin Chúa, ta không nhận ra đức tin là một hồng ân sao ? Hãy cám ơn Chúa đã ban
đức tin cho ta, và xin Ngài gìn giữ cho đức tin ấy khỏi bị lạc mất.
3.
Một người da trắng và một người thổ dân cùng nghe giảng. Người thổ dân cảm động
và xin nhập đạo ngay. Còn người da trắng cũng cảm động nhưng cả năm sau mới nhập
đạo. Trong một buổi phụng vụ, người da trắng hỏi :
-
Tôi phải mất một thời gian mới có lòng tin, sao anh có lòng tin sớm thế ? Người
thổ dân đáp :
-
Này bạn, để tôi nói cho bạn nghe. Có vị hoàng tử hứa cho chúng ta chiếc áo mới.
Bạn nhìn vào áo mình, tự nhủ : áo mình còn đẹp, để mai sau hãy lấy. Còn tôi,
tôi nhìn vào tấm chăn cũ kĩ của mình, thấy nó chẳng ra gì, nên vội vàng đến nhận
áo mới. Bạn ạ, bạn đã có chút khôn ngoan, nên bạn còn muốn dùng chúng. Còn tôi,
tôi không có, nên tôi mau mắn đón nhận sự khôn ngoan của Chúa Giêsu (Góp nhặt).
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ
11/04/14 THỨ SÁU TUẦN 5 MC
Ga 10,32-42
Ga 10,32-42
LỜI NÓI ĐI ĐÔI VỚI VIỆC LÀM
“Nếu tôi không làm các việc của
Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông
không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó.”
(Ga 10,33)
Suy niệm: Một mẫu người lý tưởng mẫu người ngôn hành
hiệp nhất, nghĩa là có những lời nói hay, kèm theo những việc làm tốt đẹp. Việc
làm cũng là một thứ ngôn ngữ, ngôn ngữ của hành động, và thứ ngôn ngữ này có
sức mạnh, có sức tác động hơn cả những lời nói hùng hồn nhất: “Lời nói lung lay, gương bày lôi
kéo.” Đức
Giê-su là Vị Thầy có những lời dạy tuyệt vời, tuyệt vời đến nỗi các vệ binh
được trát đi bắt Người, đã mải mê nghe Người giảng, quên mất nhiệm vụ bắt
Người, về còn trả lời các vị thượng tế rằng: “Chưa có ai nói hay như ông
này.” Tuy
nhiên, người còn là vị Thầy tuyệt vời hơn nữa ở chỗ Người mời gọi người ta
lượng giá Người không phải dựa trên lời nói của Người, mà là dựa trên những gì
tốt đẹp Người đã làm.
Mời Bạn: Xét
xem bạn có phải là người trung thực không? Giữa điều bạn suy nghĩ và bạn nói có khoảng cách nào không? Giữa điều bạn nói và bạn làm có khoảng cách nào không?
Chia sẻ: Để
sống trung thực như Chúa Giê-su đã dạy và đã làm,
tôi sẽ làm gì để lời nói của tôi đi đôi với việc làm?
Sống Lời Chúa: Để
sống trung thực như Chúa dạy, theo như người mẫu Giê-su,
bạn hãy làm trước nói sau.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa là vị Thầy tuyệt vời, hoàn hảo vì lời Chúa
nói luôn đi đôi với việc Chúa làm. Xin cho chúng con cũng biết noi theo mẫu
gương của Chúa, để từ nay, chúng con tập sống trung thực, vừa nói, vừa rao
giảng những điều tốt đẹp và sống những điều ấy. Amen.
Tôi là Con Thiên Chúa
Chúng ta cũng là những người
được thánh hiến qua bí tích Thánh Tẩy, được sai vào thế giới này để chia sẻ sứ
mạng còn dang dở của Chúa Giêsu.
Suy niệm:
Bài
Tin Mừng hôm nay cũng giống bài hôm qua,
Đức
Giêsu lại bị ném đá vì bị kết tội phạm thượng.
Có
lần Ngài đã bị kết tội là tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa
chỉ
vì đã nói: “Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5, 18).
Bây
giờ Ngài bị kết tội phạm thượng vì dám tự cho mình là Thiên Chúa (c. 33).
Thực
ra Đức Giêsu không bao giờ nhận mình như vậy,
vì
Thiên Chúa là Cha của Ngài, Ngài chỉ nhận mình là Con (c. 36).
Nhận
mình là Con Thiên Chúa không phải là một lời phạm thượng.
Nhưng
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo một nghĩa độc nhất vô nhị.
Ngài
là Con Một hằng ở nơi cung lòng Cha (Ga 1, 18),
đầy
tràn ân sủng và sự thật (Ga 1, 14).
Người
Con Một ấy đã trở thành người phàm mang tên Giêsu (c. 33),
trở
thành quà tặng cứu độ của Thiên Chúa cho nhân loại.
Đức
Giêsu gắn bó với Chúa Cha đến nỗi Ngài có thể nói :
“Chúa
Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha” (c. 38).
Hơn
nữa, Ngài còn dám nói: “Tôi và Chúa Cha là một” (c. 30).
Con
và Cha hiệp nhất làm một với nhau,
Người
được sai kết hiệp làm một với Đấng sai mình.
Con
không tự mình làm điều gì, không làm theo cách của mình,
Con
luôn sống như người được Cha sai.
Đây
không phải chỉ là sự hiệp nhất trong công việc,
mà
còn là sự hiệp nhất sâu thẳm giữa hai ngôi vị thần linh.
Đức
Giêsu đã làm nhiều việc tốt đẹp (c. 32).
Các
việc này không phải là việc của Ngài, mà là việc của Cha Ngài (c. 37).
Suốt
đời Đức Giêsu chỉ tận tụy với việc của Cha.
Trên
thập giá, trước khi lìa đời, Ngài nói: “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19,30).
Ngài
đã vuông tròn mọi việc Cha giao.
Những
việc tốt đẹp này là một lời chứng hùng hồn cho con người của Ngài:
“Nếu
tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi,
ít
ra cũng hãy tin các việc đó” (c. 38).
Tin
vào việc làm dẫn đến tin vào con người.
“Tôi
là người Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian” (c. 36).
Thiên
Chúa Cha đã thánh hiến Chúa Con để Ngài thi hành sứ mạng.
Chúng
ta cũng là những người được thánh hiến qua bí tích Thánh Tẩy,
được
sai vào thế giới này để chia sẻ sứ mạng còn dang dở của Chúa Giêsu.
Chúng
ta còn nhiều điều tốt đẹp phải làm cho cuộc đời này
trước
khi có thể nói như Chúa: “Thế là đã hoàn tất”.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin
cho con dám hành động
theo
những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì
xác tín rằng
Chúa
ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa
ngàn lần quảng đại hơn con,
và
Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin
cho con dám liều theo Chúa
mà
không tính toán thiệt hơn,
anh
hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can
đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và
ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những
hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con
cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của
người một lòng theo Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Suy niệm
Vào dịp
lễ cung hiến Đền Thờ Giêrusalem, những
người Do thái vây quanh để chất vấn
Chúa Giêsu: Người có phải là Đấng Cứu Thế không? Đây là câu hỏi để gài bẫy
Ngài. Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại việc Đức Giêsu chứng minh nguồn gốc của Ngài
là Con Thiên Chúa .
Dân Do
Thái chuẩn bị ném đá Ngài, Ngài đã đáp lại bằng các luận cứ sau:
- Ngài
bảo: Ngài đã dành thời gian hằng ngày để làm việc lành. Ai cũng thấy rõ đó là
những việc lành từ Thiên Chúa đến, vậy họ muốn ném đá Ngài về việc gì? Họ đáp
họ ném đá Ngài không phải vì những việc lành Ngài đã làm, mà vì những lời lộng
ngôn khi tự xưng là Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu trả lời bằng lập luận hoàn toàn
có tính cách Do thái. Ngài trích dẫn thánh vịnh 81,6. Đây là lời cảnh cáo những
quan toà bất công, dạy họ đừng xét đoán bất công nữa.
Người
ta có thể tranh luận, nghi ngờ một câu của ai đó tự nói về mình. Nhưng không
thể nào chối cãi công việc làm của người ấy. “Ngày nay người ta cần chứng
nhân hơn là thầy dạy”. Với bao mùa chay đã đi qua trong đời người, bạn và
tôi cũng đã biết bao lần nói lên câu sám hối. Thế nhưng ta đã sống đời sám hối
như thế nào?
Xin
Chúa cho chúng con biết sám hối thật sự trong mùa chay này. Vì đây là lúc thuận
tiên, đây là ngày cứu độ. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
11
THÁNG TƯ
Đức
Tin Của Chúng Ta Bật Ra Từ Chứng Từ Của Các Thị Chứng Nhân
Luca,
tác giả Sách Tin Mừng, kể tiếp: “Rồi Người mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh” (Lc
24,45). Từ bài diễn từ của Phê-rô trong Sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta nhận ra
việc Đức Kitô mở trí cho các Tông Đồ nắm hiểu sự thật về Tin Mừng đã có hiệu quả
như thế nào.
Thật
vậy, sau khi trình bày những biến cố nối kết với cái chết và cuộc Phục Sinh của
Đức Kitô, Phê-rô tuyên bố với cư dân Giê-ru-sa-lem: “Như vậy là Thiên Chúa đã
thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng
Kitô của Người phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên
Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3,18-20).
Trong
những lời ấy của vị Tông Đồ, chúng ta nhận ra một âm vọng rõ ràng những lời của
chính Đức Kitô. Chúng ta nhận ra Chúa Phục Sinh đã biến đổi tâm trí và cuộc sống
của các Tông Đồ như thế nào qua việc truyền đạt sự thật của Người.
Đây
là câu chuyện của đức tin chúng ta. Chúng ta nhận ra cách mà thế hệ chứng nhân
đầu tiên của Đức Kitô – tức các Tông Đồ và các môn đệ – truyền đạt sứ điệp Tin
Mừng căn bản. Nó bật ra trực tiếp từ chứng từ của những chứng nhân mắt thấy tai
nghe cái chết và sự sống lại của Đức Kitô.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 11-4
THÁNH STANISLAÔ, GIÁM MỤC TỬ
ĐẠO
Gr 20, 10-13; Ga 10, 31-42.
LỜI SUY NIỆM: “Nhiều người đến gặp Đức Giêsu . Họ bảo nhau: Ông Gioan
đã không làm một dấu lạ nào, nhưng mọi điều ông ấy nói về người này đều đúng.”
Trước đây, khi đám đông và
các môn đệ của Chúa tuyên xưng, Chúa là Đấng Kitô, Chúa luôn cấm ngặc,
không được nói cho ai biết. Nhưng giờ đây gần đến ngày Chúa bỏ thế gian mà về
cùng Chúa Cha.Chúa muốn tất cả phải nhận ra, Chúa chính là Đấng Kitô; ít ra là qua
những việc Chúa đã làm trong thời gian qua.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mọi
người trong gia đình chúng con luôn biết giúp nhau trong việc tin yêu Chúa, thờ
phượng Chúa cho xứng đáng qua cuộc sống của mình.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
11-04
Thánh
STANISLAÔ
Giám
Mục Tử Đạo (1030 - 1079)
Thánh
Stanislaô được kính nhớ như vị Thánh bảo trợ thành Krakow ở Balan, nơi Ngài làm
giám mục và hài cốt Ngài được lưu giữ ở nhà thờ chính tòa. Không có tường thuật
đương thời nào về Ngài được coi là đầy đủ và các chi tiết về đời Ngài cũng
không rõ rệt lắm. Người ta kể rằng: cha mẹ Ngài thuộc dòng dõi quí phái, nhưng
lại hiếm muộn về đàng con cái. Sau nhiều lời cầu nguyện khẩn thiết, ngày 26
tháng 07 năm 1030, họ sinh được một người con trai và đặt tên là Stanislaô. Họ
chú tâm đào luyện con mình theo những tập quán đạo hạnh khiến Stanislaô, từ nhỏ
đã tỏ ra có tinh thần bác ái và nhiệt hành phụng sự Chúa.
Trong
bầu khí đạo đức ấy, từ thuở nhỏ Stanislaô đã nghe rõ tiếng Chúa kêu gọi đi làm
tông đồ Chúa. Trước hết Ngài đã theo học đại học tại triết học tại Đại học
Gniezno. Sau đó Ngài sang Paris theo học Luật và thần học ở tu viện Lorranin
trong bảy năm trời. Khi cha mẹ qua đời, Ngài phải trở về Balan.
Được
thừa hưởng gia tài lớn cha mẹ để lại, nhưng thánh nhân đã quyết chí hiến thân
phụng sự Chúa vì vậy Ngài đã đem của cải phân phát cho người nghèo khó rồi tiếp
tục theo đưổi lý tưởng tu trì. Đức Giám mục Lampert đã phong chức Linh mục cho
Stanislaô, năm 1062 và đặt làm Kinh sĩ tại nhà thờ chánh tòa địa phận.
Giữ
chức vụ kinh sĩ, Stanislaô đã trở nên lừng danh về tài thuyết giảng và về chính
đời sống gương mẫu thánh thiện của Ngài. Đức cha Lambert, toàn thể giáo sĩ và
giáo dân đã bầu Stanislaô lên kế vị. Vì khiêm tốn, thánh nhân quyết không chịu
nhận. Nhưng năm 1072, vâng lời đức thánh cha Alexandre II, Stanislaô đã nhận
làm giám mục Krakow.
Đức
cha Stanislaô là một giám mục thánh thiện và nhân hậu nhất là đối với những ai
đau khổ và nghèo đói. Tuy nhiên, Ngài cũng tỏ ra là người can đảm đặc biệt. Vua
Balan lúc ấy là Bôleslas II. Ong ta đã dùng sức mạnh khí giới để đạt tới vinh
quang nhưng lại chịu bị khuất phục trước những tật xấu khủng khiếp. Hành vi độc
ác của ông đã khiến cho người ta gọi ông là "kẻ độc ác". Cả nước đều
phải run sợ nhưng không ai dám mở lời can ngăn. Chỉ có một người, một vị thánh
là Stanislaô đã dám đương đâu với sự giận dữ của nhà vua.
Sau
khi cầu nguyện với tất cả tâm hồn, thánh nhân đến gặp nhà vua. Khiêm tốn nhưng
đầy cương quyết, thánh nhân quyết định nói với ông ta tất cả những gì phải nói,
Ngài trình bày cho nhà vua thấy trước những tội ác tày trời, gương mù trong
vương quốc mà nhà vua gây nên, Ngài cũng nói cho nhà vua rõ những phán xét
Thiên Chúa đang chờ đón. Vừa nghe, Bôleslas đã tỏ ra hối hận. Nhưng thật đang
tiếc vì đây chỉ là một tình cảm chóng qua, Bôleslas lại trở nên man rợ như trước
và còn thêm một tội ghen ghét vào những ác độc của ông.
Sau
này, vua đã cướp vợ của một nhà quí phái để nhốt trong hoàng cung. Cơn giận lan
ra khắp tỉnh nhưng dân chúng run sợ không ai dám mở miệng, thánh Stanislaô một
lần nữa can đảm đến gặp Boleslas, cố gắng đưa ông trở về với những tình cảm
chân chính. Ngài đe dọa, nếu còn cố chấp, nhà vua sẽ bị tuyệt thông. Run lên vì
tức giận, nhà vua tìm kế sát hại thánh nhân.
Bôleslas
biết Đức cha có mua một thuở đất để xây cất nhà thờ mà chỉ trao tiền trứơc mặt
nhiều chứng nhân mà không làm chứng từ. Khi chủ nhân cũ qua đời, ông đe dọa các
chứng nhân để họ phản chứng rồi tố giác Đức giám mục ra tòa. Mưu độc của ông bị
thất bại. Vì sau ba ngày cầu nguyện thánh Stanislaô đã truyền đào mồ người chết
và kêu ông dậy làm chứng sự thật.
Dầu
vậy, Bôleslas vẫn không thay lòng đổi dạ đối với vị giám mục gan dạ Stanislaô.
Ngày 08 tháng 5 năm 1079, khi thánh Stanislaô đang dâng thánh lễ tại thánh đường
thánh Micae. Ông sai người đến sát hại thánh nhân. Cả ba nhóm binh sĩ lần lượt
đến mà không hoàn thành được lệnh truyền, khiến chính nhà vua phải ra tay. Ông
xông vào nhà thờ chém giết vị giám mục tại bàn thờ. Chưa đã thoả lòng giận dữ ,
ông còn chặt xác Ngài thánh ra làm nhiều khúc rồi vứt ra ngoài đồng cho chim trời
rúc rỉa. Nhưng bốn ngày sau, trên trời chỉ có bốn cánh phương hoàng bay lượn
ngăn cản tất cả không cho bất cứ con vật nào xâm phạm tới xác thánh.
Bấy
giờ Boleslas mới tỉnh ngộ và hối lỗi. Ông cho tổ chức lễ an táng thánh
Stanislaô rất trọng thể. Xác thánh liền lại như mới qua đời vì bệnh tật và được
chôn cát tại nhà thờ chánh tòa Krakow.
(daminhvn.net)
11
Tháng Tư
Ðám Cưới Vĩ Ðại Nhất
Một
trong những đám cưới được xem là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại đó là đám
cưới của Alexandre Ðại đế với công chúa Roxane của Ba Tư vào thế kỷ thứ tư trước
công nguyên.
Khi
quyết định một người Á châu, dĩ nhiên, Alexandre theo tiếng gọi của con tim.
Nhưng qua cuộc hôn nhân này, ông muốn biểu tỏ ý muốn thống nhất tất cả lãnh thổ
đã được chinh phục từ Ðông sang Tây. Ông cũng hy vọng có một người con nối dõi
với hai dòng máu Ðông Tây để thống nhất hai phần đất của địa cầu.
Ðám
cưới được cử hành trong vòng bảy ngày, bảy đêm. Nơi nơi đều có yến tiệc. Và để
tăng thêm phần long trọng, Alexandre đã cho tổ chức những cuộc tranh tài thể
thao: thế vận hội đã được khai sinh từ đó. Chính Ðại đế là người đích thân trao
giải thưởng cho những người thắng cuộc. Thông thường hoàng đế trao tặng những
chiếc cúp bằng vàng. Nhưng, người được coi là đoạt được nhiều giải thưởng nhất
trong cuộc thi thế vận hội đầu tiên ấy chỉ nhận được có mỗi một cành lá.
Alexandre Ðại đế giải thích như sau: chỉ có vinh hiển mới có thể tưởng thưởng
được người xuất sắc nhất.
Có
một hôn lễ còn vĩ đại gấp bội so với hôn lễ của Alexandre Ðại đế với công chúa
Roxane: đó là hôn lễ của Trời với Ðất, của Thiên Chúa với Nhân Loại. Ðây là cuộc
hôn lễ mà loài người đã chờ đợi từ khi có mặt trên trái đất. Hôn lễ ấy diễn ra
qua việc Con Thiên Chúa xuống thế mặc lấy xác phàm. Ngài đến không kèn không trống,
không quân đội, không thế vận hội. Ngài không mang lại các cúp vàng, Ngài không
chỉ trao cành lá vinh thắng cho một người, nhưng cho tất cả mọi người. Ai cũng
có thể chiến thắng cho cuộc sống của mình và ai cũng có thể nhận lãnh cành lá
vinh hiển ấy.
Ai
trong chúng ta cũng có một phần thưởng vô giá, ai trong chúng ta cũng là người
đoạt giải nhất và ai trong chúng ta cũng nhận được cành lá vinh hiển của sự sống
đời đời.
Với
Chúa Giêsu là Ðấng đã thắng thế gian và đang tiếp tục chiến đấu bên cạnh chúng
ta, chúng ta tin chắc rằng chúng ta cũng sẽ chiến thắng.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét