Suy niệm Năm Thánh Lòng
Thương Xót – Bài 4: Cái nhìn của Đức Giê-su
Trong
Tông sắc “Misericordiae Vultus” (Dung mạo lòng thương xót) ấn
định Năm Thánh ngoại thường về Lòng Thương Xót bắt đầu từ 8-12-2015 đến
20-11-2016, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô đã mở đầu với lời tuyên xưng như
sau: “Dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha chính là Đức Kitô Giêsu. Mầu
nhiệm đức tin Kitô giáo như đã được tóm tắt đầy đủ trong mệnh đề này.”[i] Để
minh họa cho chủ đề của Năm Thánh về Lòng Thương Xót, logo của Năm Thánh được
trình bày với hình ảnh Đức Giê-su vác một người tội lỗi trên vai, trong đó một
trong những nét độc đáo là đôi mắt của Đức Giê-su hòa quyện vào đôi mắt của
người tội lỗi. Hình ảnh này diễn tả cái nhìn của Đức Giê-su, Vị Mục Tử nhân
lành, như chạm đến cách sâu xa con người tội lỗi bằng một tình yêu mãnh liệt
đến nỗi làm thay đổi tâm hồn của người ấy[ii]. Đó là cái nhìn đầy
lòng xót thương của Đức Giê-su, qua đó con người cảm nghiệm được tình yêu của
Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh.
Cái
nhìn đầy lòng xót thương đó của Đức Giê-su được thể hiện trong cuộc đời rao
giảng Tin Mừng của Người qua những lần Người tiếp xúc gặp gỡ dân chúng, nhất là
những người nghèo đói, những người đau khổ, những người bệnh tật, những người
tội lỗi và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội.
1.Cái
nhìn với “đôi mắt của con tim yêu thương”
Tin
Mừng Mt kể rằng khi thấy đám đông dân chúng theo Người, Đức Giê-su đã chạnh
lòng thương[iii] đối với họ, vì “họ lầm than vất vưởng, như
bầy chiên không người chăn dắt” (Mt 9,36). Đức Giê-su, Vị Mục
Tử nhân lành đã được ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo (x. Ed 34,23)
hằng thao thức, quan tâm, lo lắng cho đoàn chiên. Với lòng nhân từ vô biên của
một Vị Mục Tử luôn ý thức trách nhiệm đối với đoàn chiên của mình, khi nhìn
thấy dân chúng trong tình trạng đau khổ lầm than như đoàn chiên bị tán loạn,
không ai chăm sóc (x. Ed 34,4), Đức Giê-su đã động lòng xót
thương họ. Tác giả Tin Mừng Mt dùng hai động từ “thấy” và “chạnh lòng
thương” (Mt 9,36) đi liền nhau như muốn nhấn mạnh đến cái nhìn
của Đức Giê-su không phải là cái nhìn của một con người vô cảm, dửng dưng trước
nỗi khổ của tha nhân, nhưng là cái nhìn với “đôi mắt của con tim yêu thương”,
cái nhìn với tất cả tình người, và hơn thế nữa, cái nhìn với cảm xúc của Đấng
Cứu Thế, qua đó diễn tả lòng thương xót của Đức Giê-su, Vị Mục Tử nhân ái dịu
hiền. Cái nhìn đầy lòng thương xót đó đã khiến cho Đức Giê-su không chỉ dừng
lại ở sự chạnh lòng thương, nhưng còn đi đến hành động cụ thể đối với đám đông
dân chúng lầm than đi theo Người.
Một
đoạn khác trong Tin Mừng Mt kể rằng khi trông thấy đoàn người đông đảo đi bộ
theo Người, Đức Giê-su đã chạnh lòng thương và chữa lành các người đau ốm bệnh
tật trong số họ (x. Mt 14,14). Ở đây chúng ta để ý bối cảnh
lần này là Đức Giê-su đang muốn đi đến một nơi hoang vắng riêng biệt. Nhưng dân
chúng vẫn đi theo Người và còn đi đến trước Người nữa. Họ đem theo cả những
người bệnh để hy vọng được Người chữa lành. Thấy vậy, lẽ ra Đức Giê-su có thể
khó chịu, bực mình vì bị dân chúng quấy rầy làm mất sự yên tĩnh của mình. Thế
nhưng, Đức Giê-su không xua đuổi hay muốn trốn tránh họ, mà ngược lại, Người
nhìn họ với ánh mắt cảm thương sâu xa và ra tay chữa bệnh cho họ. Không những
thế, Người còn yêu cầu các môn đệ phải cho họ ăn, trong khi các môn đệ lại đề
nghị Đức Giê-su giải tán đám đông để họ tự đi tìm mua lương thực trong các làng
mạc. Sau đó, với năm cái bánh và hai con cá, Đức Giê-su đã đáp ứng nhu cầu
lương thực cho họ. Tất cả họ được ăn và ăn no nê (x. Mt 14,15-21).
Cách ứng xử của Đức Giê-su đã cho các môn đệ một bài học về lòng thương xót:
nếu có một trái tim đầy yêu thương thì trước tình cảnh đau khổ của tha nhân, họ
sẽ không nhìn tha nhân với ánh mắt lãnh đạm, sống chết mặc bây, nhưng sẽ nhìn
tha nhân bằng ánh mắt của tấm lòng thương cảm sâu xa và sẵn sàng ra tay hành
động thiết thực giúp đỡ tha nhân.
Với
lòng thương xót của của một trái tim dạt dào tình yêu, khi gặp gỡ những người
đau khổ, Đức Giê-su như nhìn xuyên thấu được tâm tình cũng như nhu cầu sâu xa
của họ. Tin Mừng Lc 7,11-15 kể rằng một lần nọ trên đường đi
đến thành Na-in, khi trông thấy một bà góa khóc lóc đau khổ đang cùng với đám
đông dân chúng khiêng một người chết là đứa con trai duy nhất của bà đi chôn,
Đức Giê-su đã chạnh lòng thương. Cái nhìn của Đức Giê-su như hiểu
thấu được tận tâm can của nỗi đau khổ tận cùng trong tuyệt vọng của bà góa khi
mất đứa con trai duy nhất của mình. Thế là Người đã an ủi bà và nói với bà: “Bà
đừng khóc nữa” (Lc 7,13), rồi Người lại gần sờ vào quan tài và
nói với người chết: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy”
(7,14). Với lời quyền năng của Đức Giê-su, người chết được sống lại và Đức
Giê-su đã “trao anh ta cho bà mẹ” (7,15). Chứng kiện sự kiện xảy ra, mọi
người có mặt lúc đó đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Thiên Chúa
đã viếng thăm dân Người” (7,16). Lời dân chúng thốt lên trên đây tiếp theo
sau hành động cho đứa con trai của bà góa được sống lại nhờ lòng thương xót
trắc ẩn của Đức Giê-su, khiến chúng ta nhớ đến bài thánh ca Benedictus:
“Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta”
(1,78).
2.
Cái nhìn với “ánh mắt cảm thông, tha thứ và có sức hoán cải”
Dưới
cái nhìn của người Pha-ri-sêu nói riêng cũng như người Do Thái thời Đức Giê-su
nói chung, những người làm nghề thu thuế hay những cô gái điếm là những kẻ tội
lỗi nên cần phải tránh xa họ. Thế nhưng, cái nhìn của Đức Giê-su đối với những
người tội lỗi này hoàn toàn khác hẳn, bởi vì như Đức Giê-su đã nói: “Tôi
không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13).
Lời nói trên đây của Đức Giê-su thể hiện lòng thương xót của Người qua câu
chuyện Đức Giê-su kêu gọi ông Mát-thêu trong Tin Mừng Mt 9,9-13.
Khi đi ngang qua trạm thu thuế, Đức Giê-su thấy một người tên là Mát-thêu[iv],
đang ngồi làm việc tại đó và Người đã gọi Mát-thêu đi theo Người: “Anh hãy
theo tôi” (Mt 9,9). Mát-thêu liền đứng dậy và đi theo Người.
Điều gì đã khiến cho Mát-thêu mau mắn sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Đức
Giê-su? Phải chăng Mát-thêu đã cảm nhận được một điều gì đó thật đặc biệt nơi
cái nhìn của Đức Giê-su dành cho ông, một cái nhìn với ánh mắt hoàn toàn khác
với cái nhìn của người đương thời đối với ông? Và phải chăng cái nhìn đó đã làm
thay đổi cuộc đời của Mát-thêu?
Quả
thực, cái nhìn của Đức Giê-su đã tác động mãnh liệt đến cuộc đời của Mát-thêu.
Đó không phải là cái nhìn của sự khinh khi, miệt thị, cái nhìn của sự loại trừ,
cái nhìn của sự lên án, phân biệt đối xử đối với người bị coi là tội lỗi, bất
chính như ông. Nhưng cái nhìn của Đức Giê-su là cái nhìn với ánh mắt yêu
thương, cảm thông, tha thứ và mời gọi hoán cải. Mát-thêu chắc hẳn đã cảm nhận
trong đời ông chưa có người nào từng nhìn ông như thế. Cái nhìn của Đức Giê-su
đã đem lại cho Mát-thêu sự bình an, tin tưởng, không còn mặc cảm về tội lỗi của
mình. Cái nhìn đó đã soi chiếu một luồng ánh sáng hy vọng vào tâm hồn Mát-thêu,
khiến cho ông như được hồi sinh. Cái nhìn đó có sức chữa lành, đem lại sức sống
mới và niềm lạc quan cho ông để hướng về một đời sống mới. Chúng ta cũng gặp
lại cái nhìn đó nơi Đức Giê-su trong trường hợp của Phê-rô, người môn đệ thân
tín của Đức Giê-su, được Người yêu thương, tin tưởng. Khi Đức Giê-su bị bắt và
bị kết án, Phê-rô đã công khai chối Thầy mình đến ba lần trước mặt Người[v] (x. Lc 22,54-60),
dù trước đó Đức Giê-su đã báo trước cho Phê-rô biết về sự phản bội của ông.
Chứng kiến sự nhẫn tâm phản bội của Phê-rô đối với mình, Đức Giê-su đã “quay
lại nhìn ông” (22,61). Cái nhìn của Đức Giê-su khiến cho Phê-rô sực
nhớ lời Người đã báo trước với ông “Thầy bảo cho anh biết, hôm nay, gà chưa
kịp gáy, thì đã ba lần anh chối là không biết Thầy” (22,34), và thế là
Phê-rô đã khóc lóc thảm thiết. Chắc hẳn, lúc bấy giờ Phê-rô đã cảm nhận được
nơi cái nhìn của Đức Giê-su một tấm lòng nhân từ khoan dung, một sự cảm thông
tha thứ cho sự yếu đuối sa ngã của con người tội lỗi của ông để mời gọi đứng
lên, chứ không phải là cái nhìn của sự kết án, ruồng rẫy, đe dọa, xét xử. Chắc
hẳn, cái nhìn đầy xót thương đó của Đức Giê-su đã khơi dậy nơi Phê-rô lòng ăn
năn hoán cải và thay đổi tâm hồn ông.
Tình
yêu đã thúc đẩy Đức Giê-su luôn quan tâm đến con người và tìm kiếm con người,
nhất là những người tội lỗi. Họ là đối tượng mà Đức Giê-su luôn tìm kiếm, bởi
vì Người biết họ cần sự hiện diện và giúp đỡ của Thiên Chúa hơn cả. Bởi thế,
Đức Giê-su đã nói: “Người khỏe mạnh không cần đến thầy thuốc, người đau ốm
mới cần” (Mt 9,12)[vi]. Tình yêu của Đức Giêsu luôn
đi bước trước và đã khiến cho Đức Giê-su nhìn thấy trước con người cần gì.
Trong một bài giảng, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô cũng đã chia sẻ suy nghĩ của
ngài về cái nhìn của Đức Giê-su như sau:“Cái nhìn có khả năng thấy xa hơn
diện mạo bên ngoài, vượt xa hơn tội lỗi, thất bại và bất xứng nơi con người
chúng ta, để qua đó thấy được phẩm giá cao quý của con người trong tư cách là
con của Thiên Chúa, một phẩm giá mà tội lỗi làm cho nhơ uế; nhưng phẩm giá đó
vẫn được tồn tại trong nơi sâu thẳm của tâm hồn con người. Vì thế, Đức Giê-su
đến để tìm kiếm tất cả những ai cảm thấy bất xứng với Thiên Chúa, và bất xứng
với mọi người”[vii]. Mát-thêu, Phê-rô cũng như Da-kêu... đã để
cho ánh mắt của Đức Giê-su chạm vào con người tội lỗi của mình và làm biến đổi
cuộc đời mình.
3.
Cái nhìn “với ánh mắt nhân từ, mời gọi và khích lệ”
Tin
Mừng Mc 10,17-27 kể rằng một hôm, một người giàu có đến gặp
Đức Giê-su, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải
làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (10,17). Trước thái độ
thành khẩn của anh ta, Đức Giê-su trả lời cho anh ta biết anh ta cần phải giữ
các điều răn như “chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm
chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ” (10,19)[viii].
Anh ta liền đáp lại: “Thưa Thầy, tất cả những điều răn đó, tôi đã tuân giữ
từ thuở nhỏ” (10,20). Nghe thế, Đức Giê-su “đưa mắt nhìn anh ta và đem
lòng yêu mến” (10,21). Chắc hẳn Đức Giê-su đã nhận thấy được sự đơn sơ và
lòng chân thành của anh ta trong nỗ lực tìm cách sống mối tương quan gắn bó với
Thiên Chúa, nên anh ta mới nhiệt tâm tuân giữ các điều răn cách nghiêm túc như
vậy. Tuy nhiên, đối với anh ta, dường như việc tuân giữ đầy đủ các giới răn như
vậy vẫn chưa đủ, nên anh ta muốn hỏi Đức Giê-su là anh cần phải làm gì hơn thế
nữa! Vì thế, biết được niềm khát vọng mãnh liệt nơi anh ta, Đức Giê-su đã đưa
mắt nhìn anh ta với ánh mắt âu yếm, khích lệ và mời gọi anh ta bước theo Người.
Để
giúp anh ta thỏa mãn được khát vọng sâu xa đó và với tình thương đối với anh
ta, Đức Giê-su cho anh ta biết là “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán
những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng ở trên trời. Rồi
hãy đến theo tôi” (10,21). Lời đề nghị của Đức Giê-su quả là một thách đố
đối với người giàu có này: vì anh ta có nhiều tài sản của cải thì làm sao có
thể dễ dàng chấp nhận từ bỏ tất cả những gì anh có được? Thế là anh ta sa sầm
nét mặt và buồn rầu bỏ đi. Sau đó, Đức Giê-su đưa mắt nhìn chung quanh và nói
với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao”
(10,23). Cái nhìn của Đức Giê-su ở đây như một lời nhắc nhở, cảnh báo các môn
đệ của Người lúc đó đang kinh ngạc sửng sốt, vì xem ra các ông đang cảm nhận sự
khó khăn của việc phải từ bỏ của cải để đi theo Đức Giê-su. Chính vì thế mà họ
đã nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?” (10,26). Thấu hiểu
tâm trạng của các môn đệ lúc bấy giờ, “Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và
nói: ‘Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không
phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được’” (10,27). Đức
Giê-su đã nhìn các môn đệ với ánh mắt đầy khích lệ, động viên các ông đừng
tuyệt vọng, khi nhấn mạnh cho các ông biết rằng với quyền năng của Thiên Chúa,
thì mọi sự đều có thể được và mời gọi họ hãy biết tín thác vào Thiên Chúa để
được cứu độ. Tiếc thay cho người giàu có này, khi được gặp Đức Giê-su, anh ta
đã không cảm nhận hết tình thương vô biên của Người dành cho anh ta qua cái
nhìn đầy nhân từ, khích lệ và mời gọi làm môn đệ của Người.
Ngược
với thái độ của người giàu có trên đây, ông Da-kêu trong Tin Mừng Lc 19,1-10,
cũng là một người giàu có và lại có địa vị trong xã hội (ông Da-kêu đứng đầu
những người thu thuế, dù nghề thu thuế không được xã hội trân trọng). Ông ta
ước ao được gặp Đức Giê-su, nên một lần nọ khi biết Đức Giê-su sắp đi ngang qua
thành Giê-ri-khô, ông ta tìm cách nhìn thấy Đức Giê-su cho bằng được. Nhưng vì
ông ta thì thấp bé mà dân chúng đi theo Đức Giê-su thì quá đông, ông đã nghĩ ra
một cách là chạy đi trước và leo lên một cây sung để có thể xem thấy Đức Giê-su.
Thế là khi Đức Giê-su đi ngang cây sung, Người nhìn lên và nói với ông: “Này
ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (19,5).
Cái nhìn của Đức Giê-su dành cho ông Da-kêu cùng với tiếng gọi đích danh tên
ông và cho biết sẽ đến nhà ông, cho thấy lòng nhân từ của Đức Giê-su cùng với ý
muốn của Người là “đến để tìm và cứu những gì đã mất ”
(19,10). Trong lúc mọi người không ai thèm để ý đến một người tội lỗi như ông
Da-kêu, thì Đức Giê-su lại bày tỏ sự quan tâm đặc biệt đến ông qua những cử chỉ
hành động đầy tình người: “Người ngước nhìn lên và nói với ông” (19,5).
Chính cái nhìn chân tình và yêu thương, cái nhìn khích lệ và mời gọi đó của Đức
Giê-su, cùng với hành động đi bước trước của Đức Giê-su là bày tỏ ý muốn đến
gặp ông tại nhà ông ta, đã thức tỉnh lương tâm ông Da-kêu. Thế là ông đã vội về
nhà đón tiếp Đức Giê-su và tỏ lòng hoán cải thực sự, khi tự nguyện hứa sẽ lấy
phân nửa của cải tài sản của ông để phân chia cho người nghèo và đến bù gấp bốn
lần những gì ông đã gây thiệt hại cho người khác (x. 19,8). Quyết tâm đổi mới
cuộc đời của ông Da-kêu phải chăng là câu trả lời cho thắc mắc của các môn đệ:
“Thế thì ai có thể được cứu?” (Lc 18,26; Mc 10,26),
khi nghe Đức Giê-su nói với họ trước đó “Những người có của thì khó vào Nước
Thiên Chúa biết bao” (Lc 18,24; Mc 10,23).
Khác với người giàu có trong Tin Mừng Mc đã từ chối lời mời gọi của Đức Giê-su,
ông Da-kêu, một người dù giàu có với nhiều của cải tài sản, đã được đón nhận ơn
cứu độ của Chúa, vì ông ta cảm nhận được tình thương vô biên của Người dành cho
ông qua cái nhìn đầy nhân từ, khích lệ và hành động cao đẹp của Đức Giê-su.
Trên
đây là một vài phác họa lại về cái nhìn của Đức Giê-su biểu hiện lòng xót
thương của Người đối với con người được nói đến trong Tin Mừng, qua đó cho thấy
tình yêu vô biên của Thiên Chúa chí thánh. Quả thực, như lời của Đức Giáo hoàng
Phan-xi-cô nói trong Tông sắc ấn định Năm Thánh về Lòng Xót Thương: “Chúa Giê-su đã lãnh nhận từ Chúa Cha sứ vụ mặc khải trọn
vẹn mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa” [ix],
tình yêu đó của Đức Giê-su đã được thể hiện một cách cụ thể qua cái nhìn của
Người đối với nhân loại, nhất là đối với những người tội lỗi, những người nghèo
đói, những người đau khổ, những người đau ốm bệnh tật, những người bất hạnh,
những người bị gạt ra ngoài lề xã hội. Đó là cái nhìn của Lòng Xót Thương phát
xuất từ một Con Tim dạt dào Tình Yêu: cái nhìn chứa chan lòng trìu mến với sự
rung cảm mãnh liệt của con tim, cái nhìn với sự cảm thông, tha thứ và có sức
hoán cải làm thay đổi tâm hồn con người, cái nhìn nhân từ, bao dung, khích lệ
và mời gọi đi theo Đức Giê-su.
Đức
Giê-su Ki-tô hôm nay cũng như hôm qua và mãi mãi. Người vẫn đang nhìn mỗi người
chúng ta bằng cái nhìn của Lòng Xót Thương, như Người đã nhìn đám đông dân
chúng nghèo khổ đi theo Người, nhìn bà góa đau khổ thành Na-in vì mất đứa con
trai duy nhất, nhìn Mát-thêu, Da-kêu là những người thu thuế tội lỗi, nhìn
Phê-rô phản bội bất trung, nhìn anh thanh niên giàu có đáng thương... Vấn đề là
chúng ta có nhận ra được Đức Giê-su đang nhìn chúng ta hay không, và qua cái
nhìn đó, chúng ta cảm nhận được lòng thương xót của Người trong cuộc đời của
chúng ta, để rồi biết đáp lại phần nào cho tương xứng với tình yêu của Người
dành cho chúng ta. ■
–––––––––––––––––––––––––––––––––––––––
[i] Misericordiae Vultus số 1.
[ii] Logo và khẩu hiệu của Năm Thánh Lòng Thương Xót
do cha Marko Rupnik, Dòng Tên, thực hiện. Cha Marko sinh năm 1954 tại Slovenia,
hiện là Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Ezio Aletti ở Roma. Logo được giới thiệu
trong cuộc họp báo tại Vatican sáng ngày 5/5/2015.
[iii] “Chạnh lòng thương” là động từ esplanchnisthe, dịch
sát là “đau đớn quặn thắt trong ruột” hay “rúng động tâm can”. Tác giả TM Mt đã
nhiều lần dùng động từ này cho Đức Giê-su (Mt 9,36; 14,4; 15,32; 20, 34...) để
diễn tả lòng thương xót của Đức Giê-su đối với dân chúng.
[iv] Theo TM Mc 2, 14 và TM Lc 5, 27, Mát-thêu còn có
tên là Lê-vi. Ông mang hai tên có thể do theo thói quen người Do thái thời ấy,
hoặc có thể Mát-thêu là biệt danh Đức Gê-su đặt cho ông (có nghĩa là “hồng
ân Thiên Chúa”) và sau này trở thành một trong mười hai tông đồ của Đức
Giê-su (x. Mt 10, 3).
[v] Khác với TM Mt và TM Mc, Đức Giê-su trong TM Lc bị
giữ lại cả đêm trong sân dinh thượng tế. Chính ngay khi Đức Giê-su đang có mặt
ở đó, ông Phê-rô đã chối Người.
[vi] Tình trạng của người tội lỗi được ví như người
bệnh tật và sự tha thứ là việc chăm sóc của thầy thuốc để được chữa lành. Đây
là lối so sánh theo kiểu ẩn dụ quen thuộc trong Cựu Ước (x. Đnl 32, 39; Is 1,
6; Hs 5, 13...). Một trong những đề tài chính của các sấm ngôn của các ngôn sứ
về Đấng Mê-si-a là tình trạng của người tội lỗi một khi được tha thứ sẽ khá hơn
tình trạng của họ trước khi phạm tội (x. Hs 14, 2-9; Is 30, 26; Ed 36, 23-38).
[vii]
X. Bài giảng của Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô trong Thánh Lễ ngày 21.9.2015
(lễ thánh Mát-thêu, tông đồ) ở Holguin, Cuba.
[viii] Những điều răn Đức Giê-su kể ra ở Mc 10,19 được
rút từ Thập Giới của Do thái giáo (x. Xh 20,12-16) và là những điều răn thứ 5,
6, 7, 8 và 9.
[ix] Misericordiae Vultus số 8.
Lm G. Nguyễn Tiến Dũng, OFM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét