28/10/2018
Chúa Nhật tuần 30 Thường Niên năm B
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 30 thường niên- năm B
CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN B
(Gr 31,7-9; Dt 5,1-6; Mc 10,46-52)
(Gr 31,7-9; Dt 5,1-6; Mc 10,46-52)
NIỀM VUI CÓ CHÚA VÀ SỨ ĐIỆP ỦI AN CHO KẺ LƯU ĐÀY
“Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”
(Mc 10, 51)
(Mc 10, 51)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I (Gr 31,7-9)
Giêrêmia
là một ngôn sứ nổi tiếng tiên báo về những tai họa. Dù vậy, cũng có khi ngài có
những sấm ngôn đầy khích lệ, ủi an và đầy hân hoan. Bối cảnh xảy ra đang khi
vua Giosia khởi sự cuộc cải cách tôn giáo và bắt đầu việc dành lại Samaria,
giúp Israel thoát khỏi 100 năm trong tay người Assiri. Những sấm ngôn này được
gộp lại trong bốn chương thường được gọi là Sách An ủi (chương 30-33). Đây là
những lời mời gọi hân hoan và vui mừng, vì Thiên Chúa không bỏ rơi, nhưng vẫn một
mực yêu thương Israel dân Người (x. 31,3.15-20), và Người sắp can thiệp để giúp
họ, đưa họ về quê cha đất tổ sau những năm tháng bị lưu đày cơ cực ở Ninivê.
Đây là một trong số những lời đẹp nhất của những trang Kinh Thánh:
“Reo
vui lên Giacóp, hãy hoan hô... Nào loan tin…, Đức Chúa đã cứu dân Người, số còn
sót lại của Israel. Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ
tận cùng cõi đất. Trong chúng có kẻ đui mù, què quặt, tất cả cùng nhau trở về,
cả một đại hội đông đảo. Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, ta sẽ an ủi và dẫn đưa
chúng, dẫn tới dòng nước, qua con đường thẳng băng… Đối với Israel, Ta là một
người Cha, còn đối với Ta, Épraim chính là con trưởng” (x. 31,7-9).
Những
lời đầy khích lệ và an ủi này nhắc nhớ lại lịch sử của những người lưu đày
Israel và của mỗi người chúng ta. Ai đã kinh qua một lần xa Chúa trong cảnh ‘lưu
đày’ sẽ kinh nghiệm được tâm tình “nước mắt tuôn rơi”. Hành trình trở về, dầu
phải cực nhọc và cam go, nhưng cuối cùng sẽ bắt gặp dòng nước mát trong phun
lên từ hoang mạc; Đức Chúa là Cha, là Thân Phụ, sẽ không bỏ rơi con của Người
bao giờ, và sẽ chờ đợi gặp lại những đứa con què quặt đui mù thân yêu của Người.
2. Bài đọc II (Dt 5,1-6)
Thư Do
Thái được viết cho các tín hữu gốc Do Thái đã tin vào Đức Giêsu, nhưng họ vẫn
mang trong mình nỗi nhớ Đền Thờ Giêrusalem với những lễ nghi long trọng; họ bắt
đầu có cám dỗ quay trở lại những tập tục xưa cũ này.
Tác giả
của bức thư, một người Kitô hữu rất am hiểu về Kinh Thánh và truyền thống Do
Thái, đã làm rõ những khó khăn này, bằng cách giải thích cho những người anh em
cùng chung niềm tin vào Đức Kitô rằng chính Người là vị thượng tế đời đời vượt
trên mọi vị thượng tế của thời xưa cũ.
Đoạn
trích hôm nay mô tải lại đặc tính của các vị thượng tế dâng hy lễ trong Đền Thờ.
Họ không thể tự thân mình mà có vinh dự này, nhưng phải được Thiên Chúa chọn gọi
như Aharon. Kế tiếp, họ không là thiên thần, nhưng là những con người thật, với
đầy đủ những yếu đuối và bất toàn nhân loại để họ cũng có thể cảm thấu được những
yếu đuối nơi anh em và liên đới với họ (cc. 1-4). Chính Đức Giêsu Kitô thừa hưởng
tất cả hai yếu tố này: Người là vị Thượng Tế được Chúa Cha chọn gọi và ban vinh
dự này (cc. 5-6); Người cũng kinh qua những khổ đau và cám dỗ nhân loại, ngõ hầu
biết thông cảm cho những lỗi phạm của chúng ta (cc. 7-10).
Bài đọc
mang sứ điệp đầy an ủi cho những người Do Thái với nỗi nhớ và hoài niệm xưa. Chính
Đức Giêsu Kitô hôm nay là Lời Kinh Thánh và là lương thực trường tồn vượt hơn bất
cứ của ăn nào của nghi lễ xưa.
3. Bài Tin Mừng (Mc 10,46-52)
Đoạn
trích hôm nay khép lại phần trung tâm của Tin Mừng Marcô, trong đó, Đức Giêsu
nêu rõ đâu là mục đích hành trình của Người, và đâu là những đỏi hỏi cần thiết
cho những ai muốn theo Người.
Đức
Giêsu đã trải qua một chặng đường dài trong hành trình: từ Galilê, Người đi dọc
xuống miền Giorđan và hôm nay Người đến Giêricô. Chỉ còn khoảng hơn hai mươi cây
số sẽ đến chặng dừng cuối cùng nơi Thành Thánh Giêrusalem.
Tại
Giêricô này, Người đã làm một dấu lạ cuối cùng khi chữa anh mù Bartimê ăn xin
bên vệ đường. Cuộc gặp gỡ giữa anh mù với Đức Giêsu bên vệ đường đều được ghi lại
trong Tin Mừng nhất lãm, và được xem không chỉ như là một trình thuật kể lại sự
kiện, nhưng trong ý định của Marcô, đây còn như là một dụ ngôn về một con người
được Chúa soi dẫn, và là hình ảnh của người môn đệ đích thật.
Hình ảnh
anh mù ngồi ăn xin bên vệ đường diễn tả thân phận của những người chưa được ánh
sáng Tin Mừng Phục Sinh soi chiếu, và đang vật lộn trong kiếp người sống chết
theo số phận mà không lối thoát.
Hôm
nay nghe tin Đức Giêsu đi ngang qua đời mình, dù anh vẫn còn đui mù trong thân
xác, nhưng ánh sáng tâm linh đã chiếu soi mạnh mẽ trong tâm hồn anh, anh cảm
nghiệm được điều này và tận trong tâm khảm anh đã ‘nhìn thấy’ Đức Giêsu là Đấng
Messia.
Tuy vậy,
tiếng kêu ‘nhìn thấy’ từ bên trong của anh vẫn còn nhiều chướng ngại: chướng ngại
của những người chung quanh, và chướng ngại của tấm áo choàng đời mình. Từ hai
chướng ngại trước kia làm cản trở anh, thì nay đã trở thành những phương thế để
anh gặp Chúa. Chính những người đó, qua Lời của Chúa, đã gọi và dẫn anh đến gặp
Người; chính tấm áo choàng che thân năm xưa, nhờ vứt bỏ nó, anh nhẹ nhàng đến được
với Chúa.
Để ý
rõ ta thấy, trước khi gặp và đối thoại với Chúa, anh mù Bartimê đã là môn đệ thật
sự khi Người đi ngang qua: cảm nhận, tin, từ bỏ và đứng dậy theo Người. Kết quả
là mắt anh được nhìn thấy; nhưng cái quan trọng hơn, đó là lòng anh đã nhìn thấy
và tin nơi Đức Giêsu. Ai muốn được soi dẫn như anh mù Bartimê, cũng phải thực
hiện một chọn lựa giữa tấm áo choàng cũ kỹ và ánh sáng Đức Kitô.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Đối
với Israel, Ta là một người Cha. Lời khẳng định của Chúa qua ngôn sứ
Giêrêmia như là một khẳng định chắc chắn và dứt khoát về bản tính của Người. Dù
Israel có phạm tội, có bất trung, dù có bị lưu đày, Thiên Chúa vẫn mãi là thân
phụ, một người Cha yêu thương con người. Tôi cảm nghiệm điều gì nơi Chúa trong
những lúc “lưu đày” của đời mình?
2. Thư
Do Thái hôm nay nêu bật bản tính của vị Thượng Tế Giêsu: luôn cảm thông và liên
đới với những kẻ lầm lạc. Mỗi thánh lễ hôm nay là một hy tế dâng lên Thiên Chúa
Cha được gói ghém cùng với những thân phận con người. Tôi cảm nghiệm điều gì mỗi
lần tôi cùng với cộng đoàn tham dự hy tế thánh lễ mỗi ngày?
3.
"Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được". Đó là lời kêu xin khẩn
thiết của anh mù Bartimê năm xưa trong thân phận ‘bên vệ đường’ của mình. Tôi
đang trong hoàn cảnh nào trong tương quan với Chúa và tha nhân? Tôi muốn xin điều
gì với Chúa hôm nay: “tấm áo choàng” hay “được nhìn thấy”?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị
em thân mến! Đức Kitô là Ánh Sáng thế gian và là Ðấng cứu độ muôn dân. Người được
Chúa Cha sai đến để dẫn đưa nhân loại ra khỏi bóng tối sự dữ và tội lỗi. Chúng
ta hãy đặt hết lòng tin tưởng vào Thiên Chúa và thành tâm dâng lời cầu xin.
1. Hội
Thánh được mời gọi tiếp bước Đức Kitô trở nên Ánh Sáng chiếu soi cho muôn người.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội Thánh luôn ý thức chu
toàn sứ mạng cao cả ấy bằng lời rao giảng, đời sống cầu nguyện và gương sáng của
mình.
2. Trên
thế giới còn biết bao người đang sống trong tối tăm lầm lạc. Chúng ta cùng cầu
nguyện cho những ai đang ngủ mê hay cứng lòng được ơn thức tỉnh để nhận biết
Chúa Kitô là Ánh Sáng và là Ðường duy nhất, dẫn đưa con người đến sự sống và hạnh
phúc đích thực.
3. Chúa
Giêsu nói với người mù: “Đức tin của con đã cứu chữa con.” Chúng ta cùng cầu
nguyện cho những người đang đau khổ phần hồn hay phần xác, được vững vàng trong
đức tin, luôn trọn niềm phó thác và hy vọng vào tình thương cứu độ của Thiên
Chúa.
4. Người
mù được nhìn thấy, và đi theo Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người
trong cộng đoàn chúng ta, biết nhận ra những ân huệ Chúa ban trong cuộc sống,
nhất là hồng ân cứu độ thật cao quý, để luôn vững tin và trung thành bước theo
Chúa tới cùng.
Chủ tế: Lạy
Chúa là Cha và là Đấng cứu độ trần gian, Chúa đã ban tặng Đức Giêsu Kitô là ánh
sáng dẫn đưa con người đến tận nguồn chân lý. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện
và thương mở mắt tâm hồn để chúng con ngày càng thêm hiểu biết các mầu nhiệm đức
tin. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
SCĐ Chúa Nhật 30 Thường Niên B
Chủ đề :
Chúa cho người mù được thấy
“Thưa Thầy, xin cho
tôi được thấy” (Mc 10,50)
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I (Gr 31,7-9) :
“Kẻ mù, người què, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa về”
– Tin Mừng (Mc 10,46-52) :
Đức Giêsu làm cho anh mù Bartimê được thấy.
I.Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện
anh mù Bartimê kêu xin Đức Giêsu “Lạy Thầy, xin cho con được thấy”. Và Đức
Giêsu đã cứu chữa anh. Chúng ta cũng có thể dùng lời của Bartimê để cầu xin với
Chúa, bởi vì chúng ta cũng mù loà về rất nhiều điều.
II.Gợi ý sám hối
– Chúng ta mù lòa không thấy những
bằng chứng của tình thương Chúa rất nhiều chung quanh chúng ta và trong cuộc đời
chúng ta.
– Chúng ta mù lòa không thấy những
cảnh khổ của anh chị em chúng ta.
– Chúng ta mù lòa không thấy lỗi
lầm khuyết điểm của chúng ta.
III. Lời Chúa
1.
Bài đọc I (Gr 31,7-9)
Ngôn sứ Giêrêmia nói tiên tri về
thời giải phóng. Khi đó Thiên Chúa sẽ đưa dân từ chốn lưu đày trở về quê hương ;
tất cả những người đau khổ, mà đại biểu là những người mù, què, tàn tật sẽ được
cứu chữa.
2.
Đáp ca (Tv 125)
Bài ca mừng cuộc giải phóng khỏi
kiếp lưu đày.
3.
Tin Mừng (Mc 10,46-52)
Liền sau chuyện Giacôbê và Gioan
xin địa vị ưu tiên trong “nước” Đức Giêsu sắp thành lập, Mc viết tiếp chuyện
anh Bartimê như để “sửa lưng” các môn đệ. Bartimê là tấm gương cho tất cả những
ai muốn “thấy” Đức Giêsu thực sự là ai và thực lòng muốn “đi theo” Ngài.
– Mặc dù mù, nhưng anh tha thiết
“xin cho tôi được thấy”, và cuối cùng anh đã thấy. Khi thấy rồi, anh còn “đi
theo” Đức Giêsu lên Giêrusalem (ở đó Ngài sẽ chịu nạn chịu chết và sống lại).
– Trước đó, khi được Đức Giêsu gọi,
anh đã từ bỏ (“liệng áo choàng”), thay đổi nếp sống (từ “ngồi ở vệ đường” đến
“đứng dậy”), quy hướng về Đức Giêsu (“nhảy đến với Đức Giêsu”).
4.
Bài đọc II (Dt 5,1-6) (Chủ đề phụ)
Tác giả thư Do thái tiếp tục suy
tư về vai trò của Vị Thượng Tế người phàm : (1) Vị đó được chọn từ giữa
loài người, (2) để đại diện cho loài người trong các tương quan với Thiên Chúa.
(3) Vì cũng mang thân phận loài người tội lỗi, nên chẳng những vị ấy dâng lễ đền
tội cho dân, mà còn phải dâng lễ đền tội cho chính mình.
IV.Gợi ý giảng
Một nhóm sinh viên tổ chức tham
quan mỏ than Scottish ở Anh Quốc. Mỗi sinh viên được phát một nón bảo hộ của thợ
mỏ, đằng trước nón có gắn bóng đèn nổi với một bình điện đeo ở thắt lưng.
Người hướng dẫn đưa họ vào buồng
thang máy xuống tận đáy hầm than. Tới nơi, ông đề nghị các sinh viên bật đèn
trên nón bảo hộ vì con đường dẫn đến khu khai thác tối đen như mực. Mái vòm chỉ
cao một mét hai, nên mọi người phải cúi rạp xuống khi di chuyển. Than được chở
trên băng tải và đổ vào các toa trên đường ray.
Ngay trước khi nhóm sinh viên đến
khu khai thác, người hướng dẫn nói : “Các bạn hãy tắt tất cả các đèn trên
nón”. Mọi người đều làm theo. Trong tăm tối, người thợ mỏ nói : “Hãy cố gắng
nhìn kỹ vào ngón tay của bạn”. Chẳng ai thấy gì cả. Một vài người bắt đầu sợ
hãi. Rồi người thợ mỏ nói một câu mà các sinh viên không bao giờ quên được :
“Đây là tình trạng của những người mù”. Tất cả sinh viên đều hiểu ra. Bị mù thì
không bao giờ thấy được ánh sáng hoặc bất cứ thứ gì khác. Họ cũng hiểu tại sao
những người thợ mỏ lại thích bầu trời trong xanh và ánh nắng rực rỡ của mặt trời.
*
“Có đau mắt mới biết thương người
mù”. Các sinh viên trong câu chuyện trên đây đã cảm nghiệm trong giây lát nỗi
khổ của người mù. Họ không chỉ khổ nơi thân xác mà còn khổ trong tâm hồn. Quả
thật, người mù đã không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không được nhìn ngắm
người thân bạn bè, mà còn bị mặc cảm lệ thuộc kẻ khác, sống bên lề xã hội.
Hôm nay Đức Giêsu chữa người
hành khất mù Báctimê. Anh mù loà, “ngồi bên vệ đường” ăn xin, nghe biết Đức
Giêsu đi qua, anh thống thiết kêu van : “Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin
thương xót con” (Mc.10,47). Người ta ngăn cấm anh, nhưng anh càng tin tưởng kêu
to hơn : “Hỡi con vua Đavít, xin thương xót con”. Người cho gọi anh, anh
sung sướng, liệng áo choàng, đứng phắt dậy, đến cùng Người : “Lạy Thầy,
xin cho con được sáng” ( Mc.10,51). Tức thì anh ta thấy được.
Và khuôn mặt đầu tiên anh nhìn
thấy chính là Đức Giêsu, Đấng đã đến để thắp sáng đời anh. Người phán : “Đức
tin của anh đã chữa anh” (Mc.10,52).
Đích thực, Báctimê đã mù đôi mắt
thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt Đức tin, vì anh đã thấy Đức Giêsu là Đấng Cứu
Thế khi gọi Người là “con vua Đavít”.
Báctimê đã mù đôi mắt thể xác,
nhưng lại sáng đôi mắt tâm hồn, vì anh đã thấy Đức Giêsu là người có quyền chữa
anh khỏi bệnh mù loà.
Với đôi mắt đức tin, anh đã chẳng
sợ người ta cấm cản. Càng đe dọa, anh càng lớn tiếng kêu xin thống thiết hơn.
Với đôi mắt đức tin, anh đã liệng
bỏ áo choàng là phương tiện để nhận quà tặng, cởi bỏ đời sống ăn xin, từ bỏ
thân phận mù loà, rũ bỏ đời sống tối tăm, đến miền ánh sáng tình yêu và sự sống.
“Lạy Thầy, xin cho con được thấy”.
Đó phải là lời cầu xin hằng ngày của mỗi người chúng ta. Vì sẽ có những lúc
chúng ta không thấy, hoặc cố ý không muốn thấy. Có những lúc chúng ta thấy mặt
này mà chẳng thấy mặt kia. Mù loà thể xác ai cũng biết, nhưng mù loà tâm hồn
thì không dễ nhận ra. Nên chúng ta hãy xin Chúa xóa cảnh mù loà cho mình. Vì chỉ
“trong ánh sáng của Chúa, chúng ta mới nhìn thấy ánh sáng”.
*
Lạy Chúa,
Xin cho mắt tâm hồn chúng con được
sáng, để chúng con thấy Chúa là tất cả, thấy anh em thật dễ mến dễ thương, và
thấy mình càng nhỏ bé đi, trong bàn tay yêu thương của Chúa. Amen. (Thiên Phúc,
“Như Thầy đã yêu”)
* 2. Thị giác và thị lực
Cần phải phân biệt thị giác và
thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của
khả năng ấy : nhiều hay ít, xa hay gần, rõ hay mờ v.v. Người cận thị chỉ
thấy được rất gần ; người viễn thị thì thấy xa hơn. Thí dụ này giúp ta hiểu
rằng chỉ có thị giác thôi thì chưa đủ, mà còn phải có thị lực tốt.
Hiểu rộng hơn một chút, thị lực
không phải chỉ là mức độ thấy của đôi mắt, mà còn là của trí óc và của con tim.
Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình ;
có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác.
Đức Giêsu là người có thị lực rất
tốt : Ngài thấy Natanael đang ngồi dưới gốc cây vả trước khi ông tìm đến với
Ngài ; Ngài thấy tấm lòng của một bà goá dâng hai xu trong thùng tiền đền
thờ ; Ngài thấy cõi lòng tan nát của người phụ nữ ngoại tình bị lôi đến
sân đền thờ để chịu xét xử v.v.
Anh chàng Bartimê trong bài Tin
Mừng hôm nay tuy mù nhưng cũng có thị lực tốt vì anh đã thấy được Đức Giêsu là
Đấng Messia “Con Vua Đavít”.
Không phải chúng ta có đôi mắt tốt
thì đương nhiên chúng ta có thị lực tốt đâu. Vậy chúng ta hãy xin với Đức
Giêsu : “Thưa Thầy xin cho con được thấy”.
3.
Đứng trước một người tàn tật
Đoạn Tin Mừng của Thánh Marcô kể
chuyện CG cứu chữa một người mù có thể gợi lên vài suy nghĩ :
- Ở đời chúng ta thấy có nhiều người tàn tật :
có người thì mù, có người thì què, có người thì câm, có người thì rối loạn
thần kinh… Trong số họ, có những kẻ bị tàn tật vì do một tai nạn, nhưng cũng
có rất nhiều người bị tàn tật như thế ngay từ lúc mới sinh.
Đứng trước những người tàn tật ấy,
người ta có thể có nhiều thái độ khác nhau : trẻ con thì vô tâm đến tàn nhẫn
và chọc ghẹo những người đó “1,2,3 thằng cha bán kẹo què giò, còn một giò đi
kéo xe lôi” ; những kẻ có lòng hơn thì không nở chọc ghẹo nhưng ngậm ngùi
tội nghiệp thông cảm ; người thân của kẻ tàn tật thì đau khổ xót thương :
năm 1962, tại thành phố Liège nước Bỉ có một bà mẹ sinh ra một đứa con hình
dáng không ra con người mà là giống như một con vật. Bà đau đớn quá và giết chết
đứa con ấy đi. Người ta đem bà ra toà vì tội giết con. Nhưng toà án tha bổng vì
thông cảm với nỗi đau khổ của bà và nỗi đau khổ của đứa con ấy nếu nó sống và
phải gánh chịu.
Nhưng ngoài những thái độ chọc
ghẹo, tội nghiệp và thương xót đó, người tín hữu chúng ta còn có thể có suy
nghĩ nào hơn nữa không ? Thưa có, đó là suy nghĩ về cuộc đời và những bất
công của cuộc đời. Cuộc đời này quả thực có nhiều bất công : có người sinh
ra thì mạnh khoẻ xinh đẹp, có người sinh ra thì tàn tật xấu xí. Có kẻ sinh ra
đã nằm sẵn trong một gia đình giàu có, địa vị ; còn có kẻ sinh ra nhằm một
gia đình cơ cực túng thiếu. Một người vừa mới sinh ra đã mạnh khoẻ, thông minh
và thuộc một gia đình giàu có thì hầu như sẽ rất dễ thành công trong đời ;
còn một người sinh ra mà tàn tật, ngu đần lại nghèo khổ nữa thì rất khó mà ngóc
đầu lên được trong xã hội. Thử hỏi những kẻ xấu số đó bản thân của họ có làm gì
nên tội mà phải gánh chịu những thiệt thòi như vậy ? Họ không có tội nhưng
họ phải chịu thiệt thòi, đó là một sự bất công.
Mà bất công thì đòi hỏi phải sửa
lại cho công bằng. Nhưng có những trường hợp không thể sửa lại cho công bằng được.
Chẳng hạn trường hợp cái quái thai do bà mẹ người Bỉ kia sinh ra, người chẳng
ra người, ngợm chẳng ra ngợm. Bà mẹ ấy đã giết nó chết đi, như thế có phải là
công bằng không ? chắc chắn là không. Còn nếu không giết chết nó thì phải
nuôi sống nó, nuôi thật chu đáo, đầy đủ, cưng chiều nó đủ thứ, nhưng như thế có
phải là công bằng chưa ? Cũng chưa vì chăm sóc chiều chuộng bao nhiêu đi nữa
cũng chỉ là xoa dịu phần nào những đau khổ của nó mà thôi, chứ không thể nào bù
đắp được những thiệt thòi cho nó bằng một người bình thường không tàn tật. Bất
công cũng vẫn còn là bất công thôi.
Nhưng chính những cái bất công ở
đời này và sự bất lực không tạo được sự công bằng ở đời này đã giúp cho chúng
ta tin rằng phải có một thế giới công bằng ở đời sau. Bởi vì nếu tất cả đều kết
thúc ở đời này thì thật là chua xót quá đối với những kẻ xấu số tàn tật, thà họ
không được sinh ra còn hơn. Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên họ không thể nào
tàn nhẫn quá đến nỗi tạo ra họ chỉ là để cho họ chịu khổ đau. Vì thế mà chắc chắn
phải có một cõi đời sau, khi đó mọi bất công sẽ không còn, những thiệt thòi sẽ
được bù đắp xứng đáng, và công bình sẽ được thực hiện trọn vẹn.
Đó là ý nghĩa của những lời cầu
nguyện đầy tin tưởng mà những kẻ xấu số đã kêu lên trong thánh vịnh 125 :
“Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận cho con, như những dòng suối ở miền Nam. Ai gieo
trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan”. Mà cũng là ý nghĩa lời hứa hẹn ngầm của
CG khi ra tay cứu chữa anh Bartimê khỏi bị mù trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng
là điều mà tiên tri Giêrêmia tiên báo trong bài thánh thư hôm nay “Ta sẽ lấy
lòng từ bi mà dân dẫn dắt những kẻ đui mù què quặt…”
Tóm lại, những cảnh bất công ở đời
vừa làm cho lòng ta thương cảm, mà cũng vừa giúp chúng ta tin chắc rằng phải có
một cõi đời sau, công bằng hơn, hoàn hảo hơn và hạnh phúc hơn. Ở đời này có một
số bất công mà con người không thể nào bù đắp cho công bằng được, như tàn tật
chẳng hạn.
Nhưng chính các bất công không
bù đắp được mấy khiến loài người mơ tối một cõi đời khác sẽ không còn bất công.
Và qua phép lạ cứu chữa một người
mù, CG cho thấy rằng quyền năng TC có thể tạo ra một cõi đời như thế.
Như vậy phép lạ này là một bằng
chứng về cõi đời sau. Đó là niềm tin của người Công giáo chúng ta.
* 4. Tâm sự của một người mù
Helen Keller bị mù và điếc từ
lúc mới 19 tháng tuổi. Cô tâm sự như sau :
Một hôm, một người bạn của tôi vừa
đi dạo trong rừng trở về. Tôi hỏi xem cô ấy đã thấy những gì. Cô bạn đáp :
“Chẳng có gì đặc biệt cả”.
Tôi rất ngạc nhiên và tự nhủ
“Không thể nào như thế được”. Bản thân tôi đây, vừa mù vừa điếc, thế mà chỉ với
đôi tay sờ soạng, tôi vẫn cảm nhận được hàng trăm điều thích thú quanh tôi. Tôi
cảm thấy được hình dáng dễ thương và sự mềm mại của chiếc lá. Chỉ cần đặt bàn
tay lên cành cây nhỏ đang rung rinh là tôi cảm nhận được tiếng hót líu lo của
con chim nhỏ đang đậu trên đó.
Bất hạnh lớn nhất không phải là
bị mù, mà là có mắt nhưng không nhìn thấy.
V.Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, người mù
ăn xin đã cảm nghiệm tất cả mỗi khốn cùng của mình, nên khi gặp Đức Giêsu, anh
đã van nài Chúa thương xót. Chúng ta hãy van nài xin Chúa thương xót chúng ta :
- Xin cho mọi người trong Hội thánh luôn trở
thành ánh sáng đem lại hy vọng / cho những người đang sống trong bóng
tối của lầm lạc và thất vọng.
- Xin cho các nhà cầm quyền trong xã hội /
biết lo lắng cho những người mù lòa bệnh tật / để giúp họ được chữa
lành / hoặc được sống trong niềm vui và hạnh phúc.
- Xin cho những người bị đui mù cả phần xác
lẫn phần hồn / được có dịp gặp gỡ Đức Giêsu / và được Đức Giêsu
thương chữa lành.
- Xin cho anh chị em giáo hữu trong xứ đạo
chúng ta luôn ý thức rằng / bệnh đui mù phần hồn còn tai hại hơn đui
mù phần xác / để luôn nài xin Chúa gìn giữ mình thoát khỏi căn bệnh
tai hại ấy.
Chủ tế : Lạy Chúa, đức tin của chúng con
còn yếu kém và nhiều khi còn mù quáng, chúng con nài xin Chúa thương ban thêm đức
tin, để chúng con trở nên đèn sáng dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Chúng
con cầu xin nhờ Đức Kitô…
VI.Trong Thánh lễ
– Trước kinh Lạy Cha : Hôm
nay khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt xin Chúa giúp chúng ta không
còn mù lòa nữa, nhưng thấy được thánh ý Chúa Cha trong cuộc đời chúng ta.
VII. Giải tán
Sau khi được Đức Giêsu chữa khỏi
mù, anh Bartimê đã nhìn thấy được và đi theo Đức Giêsu trên con đường Ngài đi.
Chúng ta cũng được Chúa cho thấy con đường mà chúng ta phải đi để theo Chúa.
Chúng ta hãy hăng hái tiến bước trên con đường ấy.
Lm. Carolo
HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật XXX Thường
Niên (B)
Chủ Nhật 28 Tháng Mười, 2018
Chúa Giêsu chữa lành Bartimê, người mù thành Giêricô
Người mù được thấy! Hãy để cho những kẻ nhìn thấy không bị
lừa gạt!
Mc 10:46-52
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần
Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho
các môn đệ trên đường Emmau. Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết
trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của
Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây
thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của
sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự
thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong
Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung
quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng
dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức
mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống
hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa
bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã mặc khải
cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con.
Amen.
2. Bài Đọc
a) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Bài Tin Mừng của Chúa Nhật tuần
này kể về câu chuyện chữa lành của Bartimê, người đàn ông mù thành Giêricô (Mc
10:46-52). Câu chuyện này bao gồm một bài giáo huấn dài của Chúa
Giêsu cho các môn đệ (Mc 8:22-10:52). Máccô đặt việc chữa lành người
mù vô danh tại lúc khởi đầu của bài giáo huấn (Mc 8:22-26), sau đó, tại lúc kết
thúc, ông kể cho chúng ta về việc chữa lành người mù thành
Giêricô. Như chúng ta sẽ thấy, hai việc chữa lành là biểu tượng cho
những gì xảy ra giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Chúng chỉ cho ta thấy
tiến trình và mục đích của việc học tập chậm chạp của các môn đệ. Chúng
mô tả điểm khởi đầu (người mù vô danh) và điểm kết thúc (Bartimê) của bài giáo
huấn của Chúa Giêsu với các môn đệ và cho tất cả chúng ta.
Khi đọc, chúng ta nên cố gắng
nhìn vào thái độ của Chúa Giêsu, người mù Batimê và của dân chúng thành
Giêricô, và tất cả những gì mỗi người nói và làm. Khi đọc và suy gẫm
bài đọc, hãy nghĩ rằng bạn đang nhìn vào một tấm gương. Hình ảnh nào
đang được phản chiếu về con người của bạn: hình ảnh của Chúa Giêsu,
của người mù Bartimê, hay của dân chúng?
b) Phần phân đoạn văn bản
để trợ giúp cho bài đọc:
Mc 10:46: Mô tả
bối cảnh của đoạn văn
Mc 10:47: Tiếng kêu cầu
của người ăn xin
Mc 10:48: Phản ứng của
dân chúng trước tiếng kêu của người ăn xin
Mc 10:49-50: Phản ứng
của Chúa Giêsu trước lời kêu cầu của người ăn xin
Mc 10:51-52: Cuộc đối
thoại giữa Chúa Giêsu và người mù và việc chữa lành của anh ta
c) Tin Mừng:
46 Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn
đệ và một đám đông, thì con ông Timê tên là Bartimê, một người mù đang ngồi ăn
xin ở vệ đường, 47 khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu
Nagiarét, liền kêu lên rằng: “Hỡi ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi”. 48 Và
nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: “Hỡi con vua Đavít,
xin thương xót tôi”.
49 Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù
và bảo anh: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh”. 50 Anh
ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. 51 Bấy
giờ Chúa Giêsu bảo rằng: “Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Người mù thưa: “Lạy Thầy,
xin cho tôi được thấy”. 52 Chúa Giêsu đáp: “Được, đức tin
của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.
3. Giây phút thinh lặng cầu
nguyện
Để Lời Chúa có thể thấm nhập và
soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong phần suy
gẫm cá nhân.
a) Điểm nào trong bài Tin Mừng này bạn thích nhất? Tại
sao?
b) Thái độ của Chúa Giêsu là gì: Người đã nói gì và làm
gì?
c) Thái độ của dân thành Giêricô ra sao: họ nói gì và
làm gì?
d) Thái độ của người mù Bartimê phản ứng như thế
nào: anh ta nói gì và làm gì?
e) Chúng ta có thể học được bài học gì từ việc chữa lành người mù
Bartimê?
5. Dành cho những ai muốn đào
sâu vào trong chủ đề
a) Bối cảnh về bài giáo huấn
dài của Chúa Giêsu với các môn đệ:
Việc chữa lành người mù vô danh
vào lúc khởi đầu của bài giáo huấn, xảy ra trong hai giai đoạn (Mc
8:22-26). Trong giai đoạn đầu, người mù bắt đầu có linh cảm, nhưng
chỉ là linh cảm. Anh ta nhầm lẫn người ta với cây cối (Mc
8:24). Trong giai đoạn hai, sau lần cố gắng thứ hai, anh ta bắt đầu
hiểu rõ hơn. Các môn đệ cũng giống như người mù vô
danh: Các ông chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, nhưng không thể
chấp nhận cây thập giá (Mc 8:31-33). Họ là những người trông thấy người
ta tưởng là cây cối. Lòng tin của các ông vào Chúa Giêsu không mạnh
mẽ lắm. Các ông tiếp tục là người mù! Khi Chúa Giêsu nhất
quyết về việc phục vụ và thí mạng sống (Mc 8:31,34; 9:31; 10:33-34), các ông cứ
khăng khăng tìm hiểu xem trong bọn họ ai là người quan trọng nhất (Mk 9:34), và
các ông tiếp tục xin cho được những chỗ ngồi trên hết trong Nước Trời, một người
ngồi bên hữu và người kia ngồi bên tả của ngai tòa (Mc 10:35-37). Điều
này cho thấy rằng tư tưởng chi phối của thời bấy giờ đã bén rễ sâu trong tâm lý
của họ. Sau khi sống chung với Chúa Giêsu một thời gian, các ông vẫn
chưa đổi mới đủ để nhìn thấy người và việc. Các ông nhìn Chúa Giêsu
với con mắt của quá khứ. Các ông muốn Người sẽ là người mà các ông mơ
ước là: một Đấng Cứu Thế vinh quang (Mc 8:32). Nhưng mục
đích lời giáo huấn của Chúa Giêsu là để cho các môn đệ có thể giống như anh mù
Bartimê, người đã chấp nhận Đức Giêsu như chính con người Chúa, một đức tin mà
ông Phêrô đã chưa có được. Vì vậy người mù Bartimê là một khuôn mẫu
cho các môn đệ thời Chúa Giêsu và cho cộng đoàn thời Máccô cũng như cho tất cả
chúng ta.
b) Lời bình luận về văn bản
Mc 10:46-47: Mô tả
bối cảnh của đoạn Tin Mừng: Tiếng kêu của người ăn xin
Cuối cùng, sau khi đi một quãng
đường dài, Chúa Giêsu và các môn đệ đã đến thành Giêricô, nơi dừng chân cuối
cùng trước khi đi lên Giêrusalem. Người mù Bartimê đang ngồi bên vệ
đường. Anh ta không thể tham gia vào cuộc tiếp rước đi theo Chúa
Giêsu. Anh ta bị mù, anh không thể nhìn thấy gì. Nhưng
anh ta kêu lớn tiếng, cầu xin sự giúp đỡ: “Hỡi ông Giêsu con vua
Đavít, xin thương xót tôi!” Khái niệm “Con vua Đavít” là
danh hiệu phổ biến nhất mà mọi người gán cho Đấng Cứu Thế (Mt 21:9; Mc
11:10). Nhưng Chúa Giêsu không thích danh hiệu này. Người
phê phán và đặt vấn đề về thái độ của các luật sĩ là những kẻ đã giảng dạy dân
chúng rằng Đấng Cứu Thế là Con vua Đavít (Mc 12:35-37).
Mc 10:48: Phản ứng
của dân chúng về tiếng kêu cầu của người ăn xin
Tiếng kêu cầu của người ăn xin
nghe cảm thấy khó chịu, không thoải mái. Những kẻ đang đi theo đám rước
Chúa Giêsu thì cố bảo anh Bartimê im tiếng. Nhưng “anh càng kêu to hơn
nữa!” Ngày nay cũng vậy, tiếng kêu xin của người nghèo khổ làm cho
người ta khó chịu. Ngày nay có hàng triệu người đang kêu lớn tiếng:
kẻ di dân, tù nhân, kẻ đói khát, bệnh nhân, những kẻ bị gạt ra bên lề xã hội và
bị áp bức, những người thất nghiệp, không tiền, vô gia cư, không nhà, không đất,
những kẻ không bao giờ cảm thấy được yêu thương! Tiếng kêu van của họ
đã bị bắt im tiếng, trong gia đình chúng ta, trong giáo hội, trong các tổ chức
trên thế gian. Chỉ có những kẻ mở mắt để thấy những gì đang xảy ra
trong thế giới thì sẽ lắng tai nghe tiếng họ. Nhưng nhiều người
trong số ấy đã thôi không nghe nữa. Họ đã quen với tình cảnh. Còn
những người khác thì cố gắng bịt miệng những người kêu xin, như họ đã cố làm với
người mù thành Giêricô. Nhưng họ không thể làm im hơi lặng tiếng được
với lời kêu cứu của người nghèo khó. Thiên Chúa lắng nghe họ (Xh
2:23-24; 3:7). Thiên Chúa phán: “Các ngươi không được ức
hiếp mẹ góa con côi; nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó
kêu cứu!” (Xh 22:21).
Mc 10:49-50: Phản ứng
của Chúa Giêsu đối với tiếng kêu xin của người nghèo
Chúa Giêsu làm
gì? Làm thế nào mà Thiên Chúa nghe thấy tiếng kêu xin
này? Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi người mù đến. Những
kẻ muốn bịt miệng anh ta, muốn làm im tiếng kêu khó chịu của người ăn xin, giờ
đây, theo lệnh truyền của Chúa Giêsu, họ thấy mình bị bắt buộc phải đem người
ăn xin đến với Chúa Giêsu như thế. Người mù Bartimê đã bỏ lại tất cả
và đi theo Chúa Giêsu. Của cải của anh ta không có nhiều, chỉ có chiếc
áo choàng. Đó là tất cả những gì anh ta có để đắp và làm áo che thân
(xem Xh 22:25-26). Đó là sự yên ổn của anh ta, nơi nương tựa của anh
ta!
Mc 10:51-52: Cuộc
đối thoại giữa Chúa Giêsu và người mù và việc chữa lành của anh
Chúa Giêsu hỏi rằng: “Anh
muốn Ta làm gì cho anh?” Chỉ kêu lớn tiếng thì chưa đủ. Người
ta phải biết rằng mình kêu lớn tiếng vì điều gì! Người mù thưa: “Lạy
Thầy, xin cho tôi được thấy!” Người mù Bartimê đối đáp với Chúa
Giêsu trong một cách không bình thường tí nào, dù rằng, như chúng ta thấy, với
danh hiệu “Con vua Đavít” mà Chúa Giêsu đã không chuộng (Mc 12:35-37). Nhưng
người mù Bartimê có niềm tin vào Chúa Giêsu nhiều hơn là trong các ý tưởng và
danh hiệu dành cho Chúa Giêsu. Không như những người khác đang hiện
diện ở đó. Họ không thấy được điều gì là quan trọng, giống như Phêrô
(Mc 8:32). Bartimê biết cách cho đi đời sống mình bằng cách chấp nhận
Đức Giêsu vô điều kiện. Chúa Giêsu nói với anh ta: “Được,
đức tin của anh đã chữa anh!” Tức thì anh ta thấy được. Anh
bỏ lại tất cả và đi theo Chúa Giêsu (Mc 10:52). Việc chữa lành của
người mù là kết quả niềm tin của anh ta vào Chúa Giêsu (Mc
10:46-52). Bây giờ được trông thấy, Bartimê đi theo Chúa Giêsu và
cùng với Người lên Giêrusalem và đồi Canvê! Anh ta trở thành một môn
đệ mẫu mực cho Phêrô và cho tất cả chúng ta: đặt đức tin của chúng ta nơi Đức
Giêsu nhiều hơn là những ý tưởng của chúng ta về Người!
c) Phần phụ chú:
Bối cảnh cuộc hành trình đi về
Giêrusalem
Chúa Giêsu và các môn đệ đang
trên đường đi đến Giêrusalem (Mc 10:32). Chúa Giêsu đi trước các
ông. Người đi trong vội vã. Người biết rằng người ta sẽ
giết mình. Ngôn sứ Isaia đã nói tiên tri về điều này (Is 50:4-6;
53:1-10). Cái chết của Người không phải là một điều gì sẽ xảy đến
qua số phận mù mờ hoặc một chương trình được an bài, mà là kết quả của một nhiệm
vụ được gánh vác, của một sứ vụ nhận được từ Chúa Cha cùng với những kẻ bị loại
trừ vào thời của Người. Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ ba lần về
những khổ hình và cái chết đang chờ đợi Người tại Giêrusalem (Mc 8:31; 9:31;
10:33). Người môn đệ phải đi theo thầy của mình, thậm chí còn chịu
chung sự đau khổ với thầy (Mc 8:34-35). Các môn đệ sửng sốt và đi
cùng với Người với đầy sợ hãi (Mc 9:32). Các ông không hiểu được những
gì đang xảy ra. Đau khổ không là một phần trong ý tưởng các ông đã
có về Đấng Mêssia (Mc 8:32-33; Mt 16:22). Không chỉ có một số người
trong bọn họ không hiểu, mà các ông vẫn còn tiếp tục ấp ủ những tham vọng cá
nhân. Giacôbê và Gioan xin cho được một chỗ danh dự trong Nước Trời,
một người ngồi bên hữu và một người ngồi bên tả của Chúa Giêsu (Mc 10:35-37). Các
ông muốn vượt trên cả Phêrô! Các ông không hiểu được dự tính của
Chúa Giêsu. Các ông chỉ quan tâm đến lợi ích riêng của
mình. Điều này phản ảnh những tranh chấp và căng thẳng hiện hữu
trong các cộng đoàn vào thời Máccô và thậm chí còn hiện hữu trong các cộng đoàn
chúng ta ngày nay. Chúa Giêsu phản ứng một cách dứt
khoát: “Các con không biết các con đang xin những gì!” (Mc
10:38) Người hỏi các ông có uống nổi chén Người sắp uống và chịu nổi
phép rửa Người sắp chịu. Chén sắp uống là chén cay đắng cực hình, và
phép rửa là phép rửa bằng máu. Chúa Giêsu muốn biết liệu vì một chỗ
ngồi danh dự, các ông có sẽ sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho đến chết
không. Các ông đáp: “Thưa được” (Mc 8:39). Điều
này dường như là một câu trả lời từ đầu môi chót lưỡi của họ vì chỉ một ít ngày
sau đó các ông đã bỏ rơi Chúa Giêsu và để mặc Người một mình vào giờ khắc chịu
đau khổ (Mc 14:50). Các ông không có lấy một chút xíu lương tâm, các
ông không trông thấy thực tại của bản thân Người. Trong lời giáo huấn
của Người cho các môn đệ, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc thực hiện quyền lực
(xem Ma 9:33-35). Vào thời đó, những người nắm giữ quyền lực không
quan tâm gì đến người dân. Họ hành động theo ý của họ (xem Mc
6:17-29). Đế chế La Mã đã kiểm soát thế giới và nắm giữ sự phục tùng
bằng vũ lực, và do đó, qua hình thức cống vật, thuế xâu, đã có thể tập trung của
cải của người dân trong tay một ít người ở Rôma. Xã hội được đặc trưng
bởi việc thi hành sự áp chế và lạm dụng quyền lực. Chúa Giêsu lại
nghĩ khác. Người nói: “Nhưng giữa anh em thì không được
như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn
làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người!” (Mc 10:43). Người bảo
các ông phải tránh những đặc quyền và sự cạnh tranh. Người đảo ngược
thứ tự của hệ thống và nhấn mạnh đến sự phục vụ như một phương cách để khắc phục
tham vọng cá nhân. Cuối cùng, Người đã hiến mạng sống mình để minh
chứng cho những gì người đã nói: “Con Người đến không phải để được
người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”
(Mc 10:45).
Đức tin là mãnh lực có thể biến
đổi con người
Tin Mừng Nước Trời nói rằng Đức
Giêsu giống như một loại phân bón. Người làm hạt giống của sự sống
phát triển ở người ta, một hạt giống ẩn náu giống như ngọn lửa ẩn mình dưới đống
tro tàn của sự tuân thủ, không sinh khí. Chúa Giêsu thổi hơi trên đống
tro tàn và ngọn lửa dấy lên, Nước Trời được mặc khải và người ta vui mừng. Điều
kiện luôn luôn giống nhau: niềm tin vào Đức Giêsu.
Khi sự sợ hãi xâm chiếm người
ta, đức tin biến mất và hy vọng bị dập tắt. Trong giờ khắc đau khổ của
mình, Chúa Giêsu mắng các môn đệ vì việc thiếu lòng tin của họ (Mc
4:40). Các ông không tin, bởi vì các ông sợ (Mc
4:41). Chúa Giêsu không thể làm được phép lạ nào tại làng Nagiarét bởi
vì người ta ở đó không tin (Mc 6:6). Họ không chịu tin bởi vì Chúa
Giêsu đã không xứng hợp với những ý tưởng của họ có về Người (Mc
6:2-3). Chính vì việc thiếu đức tin đã khiến cho các môn đệ không thể
xua trừ được “quỷ câm” ám một em bé (Mc 9:17). Chúa Giêsu phê phán
các ông: “Ôi thế hệ cứng lòng, không chịu tin!” (Mc
9:19). Sau đó, Người chỉ cho các ông cách nào tái nhóm lại ngọn lửa
đức tin: “Giống quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi” (Mc
9:29).
Chúa Giêsu thúc giục người ta phải
có lòng tin vào Người và do đó tạo được niềm tin ở những người khác (Mc
5:34,36; 7:25-29; 9:23-29; 10:52; 12:34,41-44). Suốt sách Tin Mừng
Máccô, lòng tin vào Đức Giêsu và lời của Người giống như một mãnh lực thay đổi
người ta. Nó có thể khiến cho tội lỗi của họ được tha thứ (Mc 2:5),
có thể khiến cho người ta vượt qua được đau khổ (Mc 4:40), có quyền năng để chữa
lành và thanh tẩy chính mình (Mc 5:34). Đức tin có thể chiến thắng được
cái chết, như khi đứa con gái mười hai tuổi của ông Giairô làm bùng cháy lên
trong lòng cha của cô niềm tin vào Đức Giêsu và vào lời của Người (Mc
5:36). Đức tin khiến cho anh mù Bartimê nhảy lên vì vui mừng: “Đức
tin của anh đã chữa anh!” (Mc 10:52). Nếu có ai nói với ngọn
núi: “Dời chỗ đi, nhào xuống biển!” mà lòng chẳng nghi nan, nhưng
tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì sẽ được như ý (Mc 9:23-24). “Vì
mọi sự đều có thể đối với người tin!” (Mc 9:23).
“Hãy tin vào Thiên Chúa!” (Mc
11:22). Nhờ Lời của Người và các hành động của Người, Chúa Giêsu dấy
lên trong người ta một dũng lực ngủ yên mà người ta không nhận thức được sự sở
hữu của mình. Đây là những gì xảy ra cho ông Giairu (Mk 5:36), cho
người đàn bà bị bệnh hoại huyết (Mk 5:34), cho người cha với đứa con bị động
kinh (Mc 9:23-24), cho người mù Bartimê (Mc 10:52), và cho nhiều người khác nữa
bởi vì lòng tin của họ vào Đức Giêsu họ đã để cho một đời sống mới phát triển
trong họ và trong những người khác.
Việc chữa lành người mù Bartimê
(Mc 10:46-52) làm sáng tỏ một khía cạnh rất quan trọng về bài giáo huấn dài của
Chúa Giêsu cho các môn đệ. Người mù Bartimê đã gọi Chúa Giêsu bằng
danh hiệu thiên sai của Người “Con vua Đavít!” (Mc 10:47). Chúa
Giêsu không thích danh hiệu này (Mc 12:35-37). Nhưng ngay cả khi anh
ta gọi Chúa Giêsu bằng một danh hiệu không hoàn toàn chính xác, người mù
Bartimê đã có lòng tin và được chữa lành! Phêrô thì không như thế,
ông không còn tin vào những ý tưởng về Chúa Giêsu. Người mù Bartimê
đã thay đổi ý tưởng của anh ta, đã hoán cải, bỏ lại mọi sự đằng sau và đi theo
Chúa Giêsu trên cuộc hành trình lên đồi Canvê! (Mc 10:52).
Một sự hiểu biết cặn kẽ về việc
đi theo Chúa Giêsu thì không thể có được qua việc giảng dạy lý thuyết, mà là
qua một sự dấn thân thực tế, làm một cuộc hành trình với Người
trên con đường phục vụ từ miền Galilêa đến Giêrusalem. Bất cứ ai cố
mà nắm giữ theo ý tưởng của Phêrô, đó là, về một Đấng Cứu Thế vinh quang không
có thập giá, sẽ không hiểu được Chúa Giêsu và sẽ không bao giờ đích thực là môn
đệ. Bất cứ ai muốn tin vào Chúa Giêsu và sẵn lòng “hiến mạng sống
mình” (Mc 8:35), chấp nhận “làm sau rốt” (Mc 9:35), “uống chén và vác thập giá”
(Mc 10:387), giống như người mù Bartimê, ngay cả với những ý tưởng không hoàn
toàn chính xác, sẽ có nghị lực “đi theo Chúa Giêsu” (Mc 10:52). Điều
chắc chắn về việc có thể bước đi cùng với Chúa Giêsu mà chúng ta thấy được là
nguồn gốc của lòng can đảm và hạt giống sự chiến thắng của thập giá.
6. Cầu Nguyện với Thánh Vịnh
31 (30)
Lạy Chúa, con ẩn náu bên
Ngài!
Con ẩn náu bên Ngài, lạy CHÚA,
xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ.
Bởi vì Ngài công chính, xin giải thoát con,
ghé tai nghe và mau mau cứu chữa.
Xin Ngài nên như núi đá cho con trú ẩn,
như thành trì để cứu độ con.
xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ.
Bởi vì Ngài công chính, xin giải thoát con,
ghé tai nghe và mau mau cứu chữa.
Xin Ngài nên như núi đá cho con trú ẩn,
như thành trì để cứu độ con.
Núi đá và thành lũy bảo vệ con,
chính là Chúa.
Vì danh dự Ngài, xin dẫn đường chỉ lối cho con.
Lưới kẻ thù giăng, xin gỡ con ra khỏi,
vì nơi con trú ẩn, chính là Ngài.
Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con,
Ngài đã cứu chuộc con, lạy CHÚA TRỜI thành tín.
Ngài ghét bọn thờ thần hư ảo,
phần con đây, lạy CHÚA, chỉ tin tưởng nơi Ngài.
Được Ngài thương, con vui mừng hớn hở,
vì Ngài đã đoái nhìn phận con cùng khốn.
Con lâm cảnh ngặt nghèo, Ngài lo lắng chăm nom,
chẳng trao nộp thân này vào tay thù địch,
nhưng cho con rộng bước thênh thang.
Vì danh dự Ngài, xin dẫn đường chỉ lối cho con.
Lưới kẻ thù giăng, xin gỡ con ra khỏi,
vì nơi con trú ẩn, chính là Ngài.
Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con,
Ngài đã cứu chuộc con, lạy CHÚA TRỜI thành tín.
Ngài ghét bọn thờ thần hư ảo,
phần con đây, lạy CHÚA, chỉ tin tưởng nơi Ngài.
Được Ngài thương, con vui mừng hớn hở,
vì Ngài đã đoái nhìn phận con cùng khốn.
Con lâm cảnh ngặt nghèo, Ngài lo lắng chăm nom,
chẳng trao nộp thân này vào tay thù địch,
nhưng cho con rộng bước thênh thang.
Xin xót thương, lạy CHÚA, bởi vì
con lâm cảnh ngặt nghèo,
quá sầu đau, mắt đà mòn mỏi,
hồn ảo não và thân hình tiều tuỵ.
quá sầu đau, mắt đà mòn mỏi,
hồn ảo não và thân hình tiều tuỵ.
Đời tiêu hao trong nỗi u buồn
và tháng năm tàn lụi giữa tiếng thở than.
Con kiệt lực vì gặp bước khốn cùng, gân cốt con rời rã.
và tháng năm tàn lụi giữa tiếng thở than.
Con kiệt lực vì gặp bước khốn cùng, gân cốt con rời rã.
Con đã nên trò cười cho thù địch
và cho cả hàng xóm láng giềng.
Bạn bè thân thích đều kinh hãi,
thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa.
Bị lãng quên, như kẻ chết không người tưởng nhớ,
con hóa thành đồ hư vất bỏ.
Con nghe thấy những lời độc địa của bao người,
nhìn chung quanh: toàn những điều khủng khiếp.
Chúng toa rập chống con, và mưu toan lấy mạng.
và cho cả hàng xóm láng giềng.
Bạn bè thân thích đều kinh hãi,
thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa.
Bị lãng quên, như kẻ chết không người tưởng nhớ,
con hóa thành đồ hư vất bỏ.
Con nghe thấy những lời độc địa của bao người,
nhìn chung quanh: toàn những điều khủng khiếp.
Chúng toa rập chống con, và mưu toan lấy mạng.
Nhưng con đây vẫn tin tưởng nơi
Ngài, lạy CHÚA,
dám thưa rằng: Ngài là Thượng Đế của con.
Số phận con ở trong tay ngài.
Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ,
khỏi người bách hại con.
Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời
trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ.
dám thưa rằng: Ngài là Thượng Đế của con.
Số phận con ở trong tay ngài.
Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ,
khỏi người bách hại con.
Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời
trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ.
Lạy CHÚA, xin đừng để con phải
nhục nhã, vì đã kêu cầu Ngài,
Nhưng ước gì ác nhân phải nhục nhã
mà ngậm miệng sa xuống âm ty.
Cho phường điêu ngoa phải câm họng;
chúng kiêu ngạo khinh đời, buông những lời hỗn xược
chống lại người công chính.
Nhưng ước gì ác nhân phải nhục nhã
mà ngậm miệng sa xuống âm ty.
Cho phường điêu ngoa phải câm họng;
chúng kiêu ngạo khinh đời, buông những lời hỗn xược
chống lại người công chính.
Lạy Chúa, cao cả thay tấm lòng
nhân hậu,
Chúa dành cho kẻ kính sợ Ngài,
và thi thố trước mặt phàm nhân
cho ai tìm đến Ngài nương náu.
Bên Thánh Nhan, Ngài giấu họ kỹ càng
khỏi người đời mưu hại.
Ngài che chở họ trong lều thánh, xa tầm lưỡi thị phi.
Chúa dành cho kẻ kính sợ Ngài,
và thi thố trước mặt phàm nhân
cho ai tìm đến Ngài nương náu.
Bên Thánh Nhan, Ngài giấu họ kỹ càng
khỏi người đời mưu hại.
Ngài che chở họ trong lều thánh, xa tầm lưỡi thị phi.
Chúc tụng CHÚA đã tỏ tình thương
kỳ diệu đối với con
trong thành trì vững chắc.
Vậy mà con đã nói vì hốt hoảng:
“Con bị đuổi đi khuất mắt Chúa rồi! ”
Thế nhưng Ngài đã nghe tiếng nài van
trong ngày con kêu cứu.
trong thành trì vững chắc.
Vậy mà con đã nói vì hốt hoảng:
“Con bị đuổi đi khuất mắt Chúa rồi! ”
Thế nhưng Ngài đã nghe tiếng nài van
trong ngày con kêu cứu.
Hết mọi người hiếu trung với
Chúa,
hãy yêu mến CHÚA đi!
CHÚA giữ gìn những ai thành tín
nhưng thẳng tay trừng trị người ăn ở kiêu căng.
Hỡi mọi người cậy trông vào CHÚA,
mạnh bạo lên, can đảm lên nào!
hãy yêu mến CHÚA đi!
CHÚA giữ gìn những ai thành tín
nhưng thẳng tay trừng trị người ăn ở kiêu căng.
Hỡi mọi người cậy trông vào CHÚA,
mạnh bạo lên, can đảm lên nào!
7. Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm
tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa
Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và
ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng
con. Nguyện xin cho chúng con, trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu
Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng
hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần
đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét