06/01/2019
Chúa Nhật CHÚA HIỂN LINH năm C.
Lễ trọng. Lễ HỌ.
(phần I)
BÀI ĐỌC I: Is 60, 1-6
"Vinh quang Chúa xuất hiện
trên ngươi".
Trích sách Tiên tri
Isaia.
Hãy đứng lên, hãy toả
sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã
bừng dậy trên mình ngươi.
Kìa tối tăm đang bao bọc
địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy,
vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự
sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi.
Hãy ngước mắt lên
chung quanh, và hãy nhìn coi: tất cả những người đó đang tập họp, đang tìm đến
với ngươi; các con trai của ngươi tự đàng xa đi tới, và các con gái ngươi đứng
dậy từ khắp bên hông.
Bấy giờ ngươi sẽ nhìn
coi, và ngươi trở nên rực rỡ, tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng lên. Bởi vì những
kho tàng bể khơi tuôn đến với ngươi, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới tay
ngươi. Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc đà một bướu tự xứ
Mađian và Epha; tất cả những ai từ Saba đi tới, đem theo vàng và nhũ hương, và
họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 71, 2. 7-8.
10-11a. 12-13
Đáp: Lạy Chúa, mọi
dân tộc trên địa cầu đều thờ lạy Chúa (x. c. 11b).
Lạy Chúa, xin ban quyền
xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người
đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. -
Đáp.
Sự công chính và nền
hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng
không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông
cái đến tận cùng trái đất. - Đáp.
Vì người sẽ giải thoát
kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ.
Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống kẻ
cùng khổ. - Đáp.
Chúc tụng danh người đến
muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất
hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người. - Đáp.
BÀI ĐỌC II: Ep 3, 2-3a.
5-6
"Bây giờ được tỏ ra rằng
các dân ngoại được đồng thừa tự lời hứa".
Trích thư Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, (chắc)
anh em đã nghe biết rằng: Thiên Chúa đã ban cho tôi việc phân phát ân sủng cho
anh em, là theo ơn mạc khải cho tôi biết, tôi đã được thấu hiểu mầu nhiệm mà
con cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay đã mạc khải cho
các thánh Tông đồ của Người, và cho các vị Tiên tri, nhờ Thánh Thần. Và nhờ Tin
Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần
với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Mt 2, 2
Alleluia, alleluia!
- Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đã đến
để triều bái Người. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 2, 1-12
"Chúng tôi từ phương Đông
đến thờ lạy Đức Vua".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi Chúa Giêsu sinh hạ
tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Đông
phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện
đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng
tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả
Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật
sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Đức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng:
"Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Đấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi
nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì
của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi
Israel dân tộc của Ta".
Bấy giờ Hêrôđê ngầm
triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện
ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn
thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng
đến triều bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ
xem thấy ở Đông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ
Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ
đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người.
Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược.
Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở
về xứ sở mình. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm: Hạnh phúc của
Dân Chúa
Lễ Hiển Linh
(Ys 60,1-6; Ep
3,2-3a.5-6; Mt 2,1-12)
Câu chuyện các nhà đạo
sĩ đi thờ lạy Chúa vừa hay vừa dễ hiểu; nhưng không phải vì vậy mà hôm nay Lễ
Ba Vua, cho dù chúng ta muốn đồng hóa các đạo sĩ với ba vua. Phúc Âm không nói
rõ con số người đi thờ lạy Chúa và nhất là những người ấy không nhất thiết phải
là vua. Có lẽ họ là những nhà chiêm tinh. Nhưng vì bài Tin Mừng kể họ dâng 3 thứ
lễ vật, nên người ta đã muốn có mỗi người mang một thứ (?). Và khung cảnh câu
chuyện một phần đã xảy ra trong đền vua, nên dân chúng dễ coi họ là vua. Hơn nữa
Thánh vịnh 72 nói đến các vua Tarsis, Ảrập và Saba đến dâng lễ cho Chúa, lại
thêm một cớ cho người ta khẳng định các người đến thờ lạy Chúa trong câu chuyện
hôm nay là các vua.
Dù sao, nếu hiểu lễ
hôm nay là lễ kính nhớ câu truyện các vua đi thờ lạy Chúa, thì không đúng tí
nào. Ngay từ đầu, Phụng vụ đã gọi tên ngày lễ hôm nay là Hiển Linh, tức là Chúa
vinh hiển hiện ra, tỏ mình cho chúng ta, mà việc soi sáng cho lương dân đến thờ
lạy chỉ là một diện, mặc dầu là diện quan trọng hơn cả. Như vậy Chúa đã hiển
linh khi giáng sinh, để cho người ta thấy Người nơi máng cỏ; Người đã hiển linh
cho các mục đồng và Người cũng đã hiển linh trong ngày chịu cắt bì và nhận Tên
là Yêsu. Nhưng hôm nay Phụng vụ nhấn mạnh đến việc Người tỏ mình ra cho lương
dân. Mà vì Giáo hội gồm hầu hết các dân tộc trước kia là lương dân, nên Giáo hội
mừng lễ này thật lớn, vì thấy Chúa thương yêu mình quá đỗi.
A. Hạnh Phúc Của Dân Chúa
Hai bài đọc Kinh Thánh
đầu tiên nói lên hạnh phúc của Dân Chúa. Isaia say sưa nhìn ngắm vinh quang của
Yêrusalem. Ðang khi các dân tộc chìm đắm trong u tối, một mình Yêrusalem nổi
lên rực sáng. Không phải tự sức mình nhưng đó là ánh sáng của Chúa chiếu soi,
vinh quang của Người tỏa xuống. Các dân tộc liền châu về Yêrusalem: nào thuyền
bè từ đại dương, nào lạc đà từ sa mạc, chở muôn dân đến thờ lạy Chúa.
Isaia có bao giờ nhìn
thấy một cảnh tượng tưng bừng như thế không? Lịch sử Israel được mấy lúc như thời
Salomon, là vua mà bà Saba nghe tiếng đã tìm tới? Chắc chắn Isaia đã tiên báo về
thời cứu thế. Những lời tiên tri của ông sẽ chỉ thực hiện hoàn toàn khi, như lời
Chúa nói: người phương Ðông phương Tây sẽ tuôn vào Nhà Chúa, trong khi con cái
trong nhà sẽ bị đuổi ra ngoài. Chỉ trong ngày Chúa quang lâm mới thực hiện hoàn
toàn những lời tiên tri trên.
Nhưng hiện nay đã khởi
sự thực hiện rồi! Ngôi sao đã đứng lại trên nhà Hài Nhi ở; Yêrusalem bừng sáng
chính là con người Ðức Kitô mà các đạo sĩ đến thờ lạy; và việc muôn dân ngày
nay gia nhập Giáo hội để thờ lạy Chúa làm chứng Hội Thánh là Yêrusalem mới; mỗi
giáo đoàn, mỗi nhà thờ, mỗi người tín hữu - đền thờ của Chúa - là một Yêrusalem
được rực sáng nhờ mang trong mình sự thánh thiện của Chúa. Ðó là ân sủng đã được
ban phát cho ta, như lời thư Phaolô nói; và là mạc khải đặc biệt của Tân Ước.
Như vậy, khi nói đến hạnh
phúc của Dân Chúa, phải nghĩ đến vinh dự của người dân tín hữu của hết thảy
chúng ta, để mỗi người cảm mến hồng ân của Chúa đã đoái thương chọn mình làm
nơi cho Người hiển linh. Từ ngày chịu phép Rửa tội, mọi tín hữu đã được trao
cây nến cháy để trở thành ánh sáng của Chúa giữa thế gian, để nên Yêrusalem rực
sáng trước mắt tiên tri Isaia. Hôm nay chúng ta hãy nhận ra vinh quang của
mình, tức vinh quang của Chúa sáng trên ta, để chúng ta sáng lên trước mắt mọi
người.
Nhưng đặc biệt chúng
ta phải nghĩ đến Hội Thánh, đến các giáo hội và giáo đoàn. Chúng ta phải cầu
xin, phải xây dựng để mọi cộng đoàn Kitô giáo làm tròn sứ mệnh của mình; trở
nên các Yêrusalem rực sáng cho mọi người mang lễ vật đến thờ lạy Chúa, kết hợp
mọi dân vào gia nghiệp Lời Hứa. Và cho được như vậy, cho được có những Giáo hội
bừng sáng, phải có những đạo sĩ đi thờ lạy, phải có chúng ta nối tiếp truyền thống
các đạo sĩ. Và vì thế phải suy nghĩ câu truyện Tin Mừng hôm nay.
B. Các Ðạo Sĩ Ði Thờ
Lạy Chúa
Các bài tường thuật
trong Phúc Âm thường vắn tắt, không thỏa mãn mọi thắc mắc vụn vặt của ta. Các đạo
sĩ kia từ bên Ðông tới nhưng thuộc nước nào? Hêrôđê đã cặn kẽ hỏi họ về thời
gian ngôi sao đã hiện ra khi nào, nhưng thánh Matthêô không ghi lại câu trả lời.
Và nhất là làm sao họ đã nhận ra ngôi sao lạ đó, biết ngay là dấu chỉ một vua
Dothái mới sinh ra, và vì sao lại phải thờ lạy vua đó? Thánh Matthêô dường như
không để ý đến những chi tiết chúng ta vừa nêu lên. Ngài chỉ khẳng định một điều:
các đạo sĩ tin chắc chắn Hài Nhi mới sinh là Vua và là Chúa, tức là Chúa Cứu thế
mà muôn dân trông đợi. Thế nên họ đã mang theo vàng, nhũ hương và mộc dược làm
lễ vật. Ðó là những sản phẩm quý giá của miền Ảrập, dùng trong đền vua. Mà ở
phương Ðông, vua cũng là chúa nên đền vua sơn son thiếp vàng thường phảng phất
mùi hương. Và mộc dược được dùng trong việc ướp hoặc liệm xác các hoàng đế.
Các đạo sĩ tin như vậy
chỉ vì một ánh sao, đang khi các tư tế và luật sĩ Dothái có sách Thánh và thuộc
Thánh Kinh lại không nhận ra Chúa vừa giáng sinh. Ðó là điều thánh Matthêô muốn
nhấn mạnh trong bài trường thuật này, với một cảm tình chua chát trong lòng.
Ngài như muốn phác họa trước câu truyện tử nạn của Chúa ở đây. Hêrôđê đóng vai
chính quyền sẽ ra lệnh giết Chúa, nhưng chính hàng tư tế và luật sĩ sẽ cung cấp
cho ông tài liệu để thi hành tội ác kia. Trong khi đó, lương dân được Ơn Chúa
soi sáng, đã nhận biết Chúa và thờ lạy Người. Các đạo sĩ ở đây tiêu biểu cho họ.
Các ông diễn tả khuôn mặt đức tin của những người được Chúa kêu gọi và soi
sáng. Thấy ánh sao, các ông đã bỏ hết mọi suy nghĩ cũ kỹ, từ giã mọi sự để lên
đường hân hoan và đơn thật đến nỗi dường như không đoán biết ý đồ đen tối của
Hêrôđê, cũng như không ngần ngại sấp mình thờ lạy một Hài Nhi mà bề ngoài xem
ra chẳng có gì khác thường.
Chúng ta có thể bắt
chước niềm tin như vậy không?
C. Nếp Sống Ðức Tin
Không những chúng ta
có thể mà còn phải bắt chước niềm tin của các đạo sĩ, vì mục tiêu của ngày lễ
hôm nay là vậy. Chúng ta chỉ cần từ bỏ thái độ của hàng tư tế và luật sĩ Dothái
là có thể theo chân các đạo sĩ. Thật ra, nếu không cẩn thận, chúng ta luôn sống
như các tư tế và luật sĩ Dothái. Như họ, chúng ta có Thánh Kinh ở trong tay;
chúng ta thuộc giáo lý của Chúa nữa; ai hỏi chúng ta tư tưởng đạo đức nào,
chúng ta có thể trả lời ngay. Nhưng chúng ta chẳng bao giờ thực hành, chẳng muốn
sống theo lời Chúa dạy bảo. Chúng ta chỉ muốn quên các đòi hỏi của Tin Mừng để
sống theo bản năng, dục vọng; cố gắng hưởng đời theo các phương tiện ích kỷ.
Chúng ta mất rồi lòng nhiệt thành của hồi được Chúa soi sáng, như khi rước lễ lần
đầu, chịu phép Thêm sức, hoặc Hôn phối, tĩnh tâm và được những ơn đặc biệt. Những
hồi ấy, chúng ta đã quên mình, chỉ nhiệt thành mến Chúa và muốn cứu giúp các
linh hồn, dấn thân xây dựng Giáo hội và xã hội theo công bình bác ái. Thái độ
nhiệt thành của những người mới theo đạo nhắc lại cho ta nhớ tâm tình và nếp sống
của mình trong những hồi sốt sắng kia. Và chắc chắn chúng ta phải công nhận con
người chúng ta lúc đó thật rực sáng, khác nào Yêrusalem được bừng sáng dưới
vinh quang của Chúa.
Xã hội mới đang thúc
giục ta từ bỏ con người và nếp sống cũ kỹ. Giáo hội Việt Nam đang muốn vươn lên
trong giai đoạn mới. Phụng vụ Thánh Thể luôn luôn đưa chúng ta vào mầu nhiệm Phục
sinh, tức là sống lại, sống mới. Mỗi Thánh lễ là một cuộc hiển linh của Chúa. Ở
đây, hương nến đang mời chúng ta đến thờ lạy Chúa. Phụng vụ của chúng ta sẽ
chân thật, khi bắt chước các đạo sĩ, hôm nay chúng ta ra về "bằng con đường
khác", tức là vào đời với thái độ mới, nhiệt thành xóa bỏ cái cũ, xây dựng
cái mới để như lời thư Êphêsô: mọi dân, mọi người đồng thừa kế, đồng tham dự, đồng
chia sẻ Lời Hứa của Thiên Chúa nhờ Tin Mừng cứu độ của Ðức Yêsu Kitô.
(Trích dẫn từ tập sách
Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật Lễ Hiển Linh, Năm
ABC
Bài đọc: Isa
60:1-6; Eph 3:2-3, 5-6; Mt 2:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Kitô là ánh sáng cho
muôn dân.
Đứng trước cùng một biến
cố xảy ra, con người có những phản ứng khác nhau, tùy thuộc vào sự cần thiết và
hy vọng của con người: có người dửng dưng, có người đàn áp, và có người nhiệt
thành đón nhận. Biến Cố Nhập Thể của Đức Kitô cũng thế, dù được báo trước và dặn
phải chuẩn bị sẵn sàng, nhiều người Do-Thái vẫn không chuẩn bị để đón nhận Chúa
Cứu Thế; nhưng các Mục-đồng và Ba Nhà Đạo Sĩ từ phương xa nhiệt thành đi tìm và
họ đã tìm thấy Đấng Cứu Thế.
Các Bài Đọc hôm nay tập
trung vào Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Tiên-tri Isaiah cho
thấy trước Ngày Thiên Chúa sẽ ban Ơn Cứu Độ của Ngài như vinh quang cho
Jerusalem và như ánh sáng cho muôn dân. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô nhắc nhở
cho các tín hữu của ngài về Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Theo Mầu Nhiệm
này, Thiên Chúa chọn Dân Do-Thái như Dân Riêng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế ra
đời; nhưng khi Ngài đến, Ngài sẽ ban Ơn Cứu Độ cho tất cả mọi người qua niềm
tin của họ vào Đức Kitô. Trong Phúc-Âm, Thánh Matthew tường thuật 3 phản ứng
chính của con người khi phải đối diện với Tin Mừng của Đấng Cứu Thế: thờ ơ lạnh
nhạt, lập kế tiêu diệt, và nhiệt thành đi tìm.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúa Kitô là vinh quang của Israel và là ánh sáng cho muôn
dân.
1.1/ Sự sáng của Thiên
Chúa đã chiếu tỏa trên Jerusalem: “Đứng lên,
bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình
minh chiếu toả trên ngươi.”
Chương 60 của Sách
Tiên Tri Isaiah được viết sau thời gian Lưu Đày Babylon; lúc đó Jerusalem còn
là một thành trì hoang phế bởi chiến tranh. Vì thế, đọan văn này không có ý nói
về Thành Jerusalem cách thể lý, nhưng nói về một Jerusalem tinh thần, tượng
trưng cho dân tộc Israel. Người làm cho Jerusalem được đứng dạy, được bừng
sáng, là Thiên Chúa; chứ không phải dân tộc Israel. Ánh sáng và vinh quang của
Đức Chúa đây chính là Ơn Cứu Độ, mà Ngài đã hứa ban cho Jerusalem qua các
Tiên-tri. Ơn Cứu Độ nói tới ở đây không chỉ là việc giải thóat và cho dân
Israel được trở về Jerusalem từ chốn Lưu Đày Babylon; nhưng còn bao gồm cả việc
gỉai phóng Israel khỏi nô lệ của tội lỗi qua Đấng Thiên Sai.
Tác giả nêu bật sự
tương phản giữa ánh sáng của Jerusalem và bóng tối của chư dân qua câu: “Kìa
bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa
như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.” Trước khi Đấng
Cứu Thế xuất hiện, người Do-Thái quan niệm: chỉ có họ mới là Dân Riêng của
Thiên Chúa và xứng đáng được hưởng Ơn Cứu Độ; còn tất cả các dân tộc khác (Dân
Ngọai) là những người ngồi trong bóng tối tăm sự chết, và không được hưởng Ơn Cứu
Độ. Bóng tối và mây mù tác giả muốn nói tới ở đây là việc không biết Thiên
Chúa, không biết Ơn Cứu Độ, và không sống theo đường lối của Thiên Chúa.
1.2/ Chư dân từ khắp nơi
sẽ tuôn đến Jerusalem: Nhưng một khi Đấng Cứu
Thế tới, mọi sự đều đổi khác: Ơn Cứu Độ không còn giới hạn trong dân tộc
Israel, nhưng mở rộng tới mọi dân tộc (còn được gọi chung là Dân Ngọai), như viễn
tượng mà Tiên-tri Isaiah đã nhìn thấy hôm nay: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng
của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến
bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con
trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông.” Như đã nói ở
trên, ánh sáng của Jerusalem chính là Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Ánh sáng này
soi tỏa cho các dân tộc trên địa cầu, và mọi người sẽ tuôn đến Jerusalem tinh
thần để được hưởng Ơn Cứu Độ này. Tiên-tri Isaiah liệt kê các thành phần tiến đến
Jerusalem bao gồm: (1) Các vua chúa của các quốc gia; và (2) các con trai và
các con gái. Các người con này không có liên hệ với Jerusalem bằng máu mủ,
nhưng bằng niềm tin vào Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.
Khi những điều này xảy
ra, Jerusalem sẽ tràn đầy niềm vui như Tiên-tri loan báo: “Trước cảnh đó, mặt
mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ
về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che
rợp đất, lạc đà Median và Ephah: tất cả những người từ Sheba kéo đến, đều mang
theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa.”
Trong thế giới thời đó, giàu sang được đo lường bằng những đòan vật, và lạc đà
được coi là thú vật có giá trị nhất trong việc di chuyển đồ đạc qua sa mạc cho
các quốc gia vùng Trung Đông. Theo Sáng Thế Ký 25:4, Ephah là con trai của
Midian, và là cháu của Jokshan, cha của Sheba. Sheba ngày nay là Nước Yemen.
Vàng và nhũ hương là 2 món hàng đắt nhất thời bấy giờ. Điều này chúng ta sẽ đề
cập tới trong Phúc Âm, khi Ba Vua dâng những quà này cho Chúa Hài Đồng.
2/ Bài đọc II: Các Dân Ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người
Do-Thái.
2.1/ Kế Họach Cứu Độ của
Thiên Chúa qua Đức Kitô: “Hẳn anh em đã được
nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến
anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình
bày vắn tắt trên đây.” Thánh Phaolô viết Thư này cho các tín hữu Philiphê, khi
ngài đang bị cầm tù tại Rome. Ngài nhắc lại cho họ biết về “kế họach ân sủng”
mà Thiên Chúa đã ủy thác cho ngài. Kế họach này bao gồm hai việc: biến cố trở lại
trên đường Damascus và sứ vụ rao truyền Tin Mừng cho Dân Ngọai được ủy thác cho
ngài. Giữa 2 biến cố này là khỏang thời gian Thánh Phaolô đi vào tĩnh tâm trong
sa mạc Arabia, để được Thiên Chúa mặc khải về mầu nhiệm Đức Kitô cho thánh
nhân. Sở dĩ có sự kiện này là vì Thánh Phaolô đã không được giao tiếp với Đức
Kitô như các Tông-đồ khác khi Chúa Giêsu còn sống trên dương gian.
2.2/ Dân Ngọai cũng được
thừa hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa: “Mầu
nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết,
nhưng nay Người đã dùng Thánh Thần mà mặc khải cho các thánh Tông-đồ và
Tiên-tri của Người. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các
Dân Ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-Thái, cùng làm thành một
thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” Qua những hàng vắn tắt này,
Thánh Phaolô tường thuật cho chúng ta biết 2 giai đọan chính của Mầu Nhiệm Cứu
Độ: (1) Thiên Chúa chọn Dân Do-Thái là Dân Riêng của Thiên Chúa để được huấn
luyện và chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến; và (2) Khi Đấng Cứu Thế đến, Ơn Cứu Độ
được lan rộng tới mọi người qua việc rao truyền Tin Mừng và niềm tin của mọi
người vào Đức Kitô. Qua việc tuyên xưng đức tin và chịu Phép Rửa, tất cả cùng
được tháp nhập vào thân thể của Đức Kitô.
3/ Phúc Âm: Con người phản ứng trước ánh sáng của Thiên Chúa.
3.1/ Con người buộc phải
có thái độ trước Tin Mừng về Đức Kitô: Thiên
Chúa có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho Ba Nhà Đạo Sĩ một mạch tới Bethlehem,
mà không cần phải đi qua Jerusalem; nhưng để cho mọi người cư ngụ tại Jerusalem
có cơ hội đồng đều để lắng nghe Tin Mừng, Ngài làm mất dấu ngôi sao để Ba Nhà Đạo
Sĩ phải vào Jerusalem để loan tin. Thánh Matthew tường thuật: “Khi Đức Giêsu ra
đời tại Bethlehem, miền Judah, thời vua Herode trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ
phương Đông đến Jerusalem, và hỏi: "Đức Vua dân Do-Thái mới sinh, hiện ở
đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng
tôi đến bái lạy Người." Nghe tin ấy, vua Herode bối rối, và cả thành
Jerusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các Thượng-tế và Kinh-sư
trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời:
"Tại Bethlehem, miền Judah, vì trong sách Tiên-tri, có chép rằng: "Phần
ngươi, hỡi Bethlehem, miền đất Judah, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của
Judah, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời" (Mic
5:2).
3.2/ Ba phản ứng của con
người trước ánh sáng: Đứng trước Tin Mừng được
loan báo bởi Ba Nhà Đạo Sĩ, chúng ta tổng hợp được 3 thái độ chính của con người:
(1) Thái độ thờ ơ của
Dân Thành Jerusalem cách chung và của các Thượng-tế và các Kinh-sư nói riêng:
Thánh Matthew ám chỉ Dân Thành biết biến cố Chúa Cứu Thế ra đời trong câu:
“Nghe tin ấy, vua Herode bối rối, và cả thành Jerusalem cũng xôn xao.” Họ xôn
xao để tìm ra nơi chốn sinh ra của Đấng Cứu Thế, rồi âm thầm lên giường đắp
chăn ngủ tiếp! Họ có thể sợ vì trời tối, đường xa, và lạnh lẽo; nhưng đơn giản
là vì họ đã có mọi thứ và không cần tới Đấng Cứu Thế. Các Thượng-tế và các
Kinh-sư mang tội nặng hơn, vì họ là những người thông hiểu Kinh-Thánh và sự cần
thiết của việc Đấng Cứu Thế đến; nhưng họ dùng Kinh-Thánh để tìm ra và chỉ đường
cho người khác đến gặp Ngài; phần họ, gấp sách lại và từ chối không lên đường
đi tìm Ngài.
(2) Thái độ muốn tiêu
diệt ánh sáng của Vua Herode: Bấy giờ Vua Herode bí mật vời các nhà chiêm tinh
đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi
Bethlehem và dặn rằng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và
khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." Đã
không tiếp nhận ánh sáng, Vua Herode còn toan tính tiêu diệt ánh sáng. Trong cuộc
đời, chúng ta cũng gặp nhiều thái độ như Vua Herode. Họ muốn tiêu diệt ánh sáng
vì sợ ánh sáng sẽ phơi bày những ích kỷ, toan tính, và những xấu xa trong tâm hồn
của họ.
(3) Thái độ nhiệt
thành đi tìm ánh sáng của Ba Nhà Đạo Sĩ: Trớ trêu thay cho dân tộc Do-Thái, họ
trông chờ từng ngày từng giờ và chuẩn bị cho việc đón Đấng Cứu Thế ra đời;
nhưng khi Người xuất hiện, lại chỉ có Ba Nhà Đạo Sĩ là những người Dân Ngọai, từ
phương trời xa xôi đi tìm Người theo dấu một vì sao. Họ không sợ đường xa, trời
tối, nguy hiểm, gió lạnh mùa Đông, và nhất là theo dấu một vì sao mong manh. Họ
không nản lòng khi mất dấu ngôi sao, họ vào Thành Jerusalem với hy vọng sẽ tìm
được Ngài trong lịch sử. Và khi được hướng dẫn của Kinh Thánh (Micah 5:1), họ lại
tiếp tục lên đường. Họ mừng vui khi thấy ngôi sao tái xuất hiện, và họ đã thấy
Hài Nhi. Mở túi hành trang ra, họ dâng 3 lễ vật quí giá nhất cho Hài Nhi: vàng
chỉ sự thần phục Hài Nhi là Vua; nhũ hương chỉ sự thần phục Hài Nhi là Chúa; mộc
dược tiên báo trước Cuộc Thương Khó và cái chết của Hài Nhi. Sau đó, họ được
báo mộng là đừng trở lại gặp vua Herode nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa đã tỏ
tình thương qua việc ban Người Con Một của Ngài cho chúng ta, phản ứng của
chúng ta làm sao khi lãnh nhận Tin Mừng này?
- Chúng ta có hăng hái
nhiệt thành lên đường đi tìm Ngài, hay ngại ngùng phải rời bỏ ốc đảo bình an của
chúng ta vì sợ nguy hiểm, tốn thời gian, và lười biếng?
- Rất nhiều lần chúng
ta đã quay lưng lại với sự thật và ánh sáng, không phải vì chúng ta không biết
đó là sự thật hay ánh sáng; nhưng chúng ta sợ: nếu chấp nhận sự thật, chúng ta
phải sống điều sự thật đòi hỏi; nếu phải đến gần ánh sáng, chúng ta phải bỏ những
tội lỗi mà chúng ta đã quá quen thuộc!
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
Chia sẻ
Đoạn Tin Mừng Lc
2,6b-20 vẽ lên ba bức tranh chính: (1) Đức Ma-ri-a hạ sinh Đức Giê-su ở Bê-lem.
(2) Chuyện những người chăn chiên được báo tin và tìm đến gặp Hài Nhi. (3) Lời
ca ngợi Thiên Chúa của các sứ thần.
Xin chia sẻ câu chuyện
về những người chăn chiên trong bức tranh thứ hai, liên quan đến các động từ
“nghe”, “thấy”, “nói” và “tôn vinh Thiên Chúa”. Có thể hành trình của những người
chăn chiên cũng là hành trình trở thành môn đệ Đức Giê-su qua mọi thời đại.
Bức tranh về nhân vật
những người chăn chiên thật sinh động. Sứ điệp mà sứ thần dành cho những người
chăn chiên là audio-visuel, nghĩa là vừa nghe bằng tai vừa thấy bằng mắt.
Trước hết những người
chăn chiên thấy sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả, khiến
họ kinh khiếp hãi hùng (2,9). Kế đến là họ nghe lời sứ thần với hai ý. Một là
báo tin vui: Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít. Thứ đến
là dấu chỉ để nhận ra Hài Nhi: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm
trong máng cỏ” (2,12). Như thế, lời loan báo của sứ thần không phải chỉ để nghe
cho biết, nhưng là một sứ điệp có khả năng biến “sợ hãi” thành “niềm vui”, có
khả năng biến “lời nói” thành “hành động”: đứng dậy và lên đường.
Đáp trả lời mời gọi,
những người chăn chiên bảo nhau: “Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy
ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” (2,15). Họ đã “gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng
với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (2,16) như lời sứ thần loan báo. Nhờ kiểm chứng
“lời đã nghe” bằng “mắt” đã thấy”, những người chăn chiên xác tín sự kiện đã xảy
ra, từ đó trình thuật chuyển sang đề tài đối thoại với ba khía cạnh:
1) Đối thoại với người
khác. Những người chăn chiên đã kể lại những điều họ đã nghe sứ thần Chúa nói với
mình về Hài Nhi.
2) Đối thoại với chính
mình qua hình ảnh Đức Ma-ri-a hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại
trong lòng. Tự đối thoại với chính mình bằng cách sống với biến cố, tự đặt câu
hỏi và tìm câu trả lời để hiểu ý nghĩa của biến cố.
3) Đối thoại với Thiên
Chúa bằng cách “tôn vinh và ca tụng” (2,20) như những người chăn chiên đã làm.
Câu kết cho thấy điểm
nhấn của câu chuyện: “Các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng
Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với
họ” (2,20). Nhắc lại những gì đã thấy và lời loan báo để kết câu chuyện, làm lộ
ra ý nghĩa trình thuật nhắm tới:
Thấy vinh quang Chúa,
nghe tin vui và dấu chỉ của sứ thần, vội vã lên đường; khi đã gặp thì kể cho mọi
người biết và rồi lại ra đi tôn vinh Thiên Chúa.
Đó là hành trình của
người tin, hành trình trở thành môn đệ Đức Giê-su. Nghe, biết, đón nhận, tin
vào Người để rồi ra đi chia sẻ cho người khác và không ngừng ca tụng tình
thương của Thiên Chúa dành cho loài người.
Người chăn chiên là hạng
người thấp nhất trong xã hội, nhưng họ lại là người được loan báo tin vui trước
hết. Không những Thiên Chúa không loại trừ một ai mà Người còn dành ưu ái cho hạng
người thấp nhất trong xã hội. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ thất vọng về chính
mình hay nghĩ là Chúa bỏ rơi mình. Thực ra, chỉ có con người bỏ rơi Thiên Chúa
chứ Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người.
Đoạn Tin Mừng Lc
2,6b-20 gợi lại hành trình trở thành người môn đệ và hành trình sứ vụ của chúng
ta. Xin cho chúng ta biết cách nhìn để thấy những gì đã và đang xảy ra trong lịch
sử; biết cách lắng nghe Lời mặc khải để đón nhận tin vui trọng đại cho loài người,
để từ đó xác tín và lên đường, hân hoan loan báo tin vui và cất lời ca tụng
Thiên Chúa như những người chăn chiên đã làm. Để được như thế, ước gì chúng ta
luôn suy đi nghĩ lại trong lòng giáo huấn của Đức Giê-su trong suốt hành trình
làm người, như Mẹ đã làm./.
Giu-se Lê Minh
Thông, O.P.
06/01/2019
CHÚA NHẬT CHÚA HIỂN LINH – C
Mt 2,1-12
Mt 2,1-12
NGÔI SAO GIÊ-SU
Trông thấy ngôi sao,
họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi và thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp
mình thờ lạy Người. (Mt 1,10-11)
Suy niệm: Đường dẫn các đạo sĩ đến
Bê-lem là con đường của SAO. SAO rọi chiếu ánh sáng cho đường đi, SAO nuôi hy vọng,
SAO cho biết Đấng được sinh ra sẽ mang sứ mệnh lịch sử quan trọng. SAO có lúc
khuất dạng nhưng không vụt tắt, có lúc bị mây mù che phủ nhưng rồi lại ló dạng
và đồng hành. Ngôi sao trên bầu trời dẫu có lạ lùng cũng chỉ là dấu hiệu chỉ đường
đến với Hài Nhi Giê-su, là NGÔI SAO đích thực dẫn đường cho không riêng cho các
đạo sĩ mà còn cho cả loài người và từng người trong suốt dọc dài lịch sử. Đó
chính là nỗi vui mừng khôn xiết của những ai biết tìm đường đến với Chúa
Giê-su, hiện thân của mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể làm người.
Mời Bạn: Người thời nay sùng mộ nhiều
thứ thần tượng, và khi thần tượng ấy sụp đổ, họ vỡ mộng, thất vọng. Trên con đường
tìm về Chân-Thiện-Mỹ, ngôi SAO dẫn đường cho chúng ta chỉ có thể là Chúa Giê-su
mà thôi vì Ngài “là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.” Dẫu có lúc ngôi SAO của
chúng ta dường như vụt tắt, chúng ta không hoang mang chao đảo bởi vì Ngài chỉ ẩn
mình nhưng vẫn hiện diện, chịu chết nhưng đã sống lại và Ngài hằng sống.
Sống Lời Chúa: Suy niệm Lời Chúa hằng
ngày để chiêm ngưỡng và trở nên giống ngôi sao thần tượng của mình là Chúa
Giê-su Ki-tô.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Hài Nhi Giê-su, Chúa là Ngôi SAO và Thần Tượng của
con. Con không có vàng để dâng cho Chúa; nhưng con dâng Chúa tấm lòng của con.
Xin Chúa mãi là người bạn đường, là ngôi SAO soi dẫn đời con.
(5 phút Lời Chúa)
Ngôi sao dẫn đường (6.1.2013 –
Chúa Nhật - Chúa Hiển Linh)
Suy niệm:
Ðoạn Tin Mừng trên nói
về các nhà chiêm tinh dân ngoại
theo ánh sao mà tìm đến
bái yết Hài Nhi
Một loạt câu hỏi thường
được đặt ra hôm nay.
Làm sao một ngôi sao
có thể dẫn đường cho họ đi?
Nếu đó là một ngôi sao
sáng lạ lùng
thì tại sao thành
Giêrusalem lại không nhận biết?
Bởi đâu ngôi sao lại
không đi thẳng tới Bêlem?
Có tin được chuyện
ngôi sao ngừng lại trước cửa nhà không?
Các câu hỏi trên đều
xoay quanh ngôi sao lạ.
Một ngôi sao như thế
có thật không
hay đây chỉ là một
truyền thuyết?
Thánh Mátthêu đã viết
đoạn Tin Mừng này
theo một thể văn đặc
biệt của người Do Thái.
Chúng ta không nên hiểu
mọi chi tiết theo nghĩa đen.
Ðiều quan trọng không
phải là có một ngôi sao lạ,
một ngôi sao thông
minh biết dẫn lối chỉ đường.
Ðiều quan trọng là điều
Mátthêu muốn nói với ta:
Ðức Giêsu không phải
chỉ là Mêsia cho dân Do Thái,
Ngài còn là Ðấng Cứu Ðộ
cho cả nhân loại.
Các nhà chiêm tinh là
dân ngoại.
Họ đại diện cho mọi
dân tộc, cho chính chúng ta.
Họ khao khát tìm ơn cứu
độ.
Qua những dấu chỉ kỳ
diệu hay đơn sơ trong vũ trụ,
họ nghe thấy lời mời gọi
lên đường.
Chấp nhận lên đường là
chấp nhận bỏ lại tất cả
và bước đi trong đêm tối.
Các nhà chiêm tinh
không dựa vào điều gì khác
ngoài ánh sao khi tỏ
khi mờ.
Cần có đức tin cứng
cáp
mới dám dựa vào một dấu
chỉ mong manh như thế.
Cũng cần có đức tin mạnh
mẽ
mới dám tin rằng vị
vua mới sinh
đang khiêm tốn sống
trong một ngôi nhà ở Bêlem,
chứ không uy nghi ngự
giữa hoàng cung lộng lẫy.
Cần có một đức tin
khiêm tốn biết chừng nào
mới có thái độ sấp
mình bái lạy trước Hài Nhi,
và tiến dâng lễ vật
quý giá.
Thiên Chúa vẫn không
ngừng lôi kéo cả nhân loại
đến với Con Một của
Ngài là Ðức Giêsu Kitô.
Ngài vẫn không ngừng
cho những ánh sao dẫn đường.
Không phải là ánh sao
trên trời cao,
mà là ánh sáng Ngài
gieo vào lòng người.
Mỗi người chúng ta phải
trung thành với ánh sáng đó,
và bước vào cuộc hành
trình đức tin đầy mạo hiểm,
như các nhà chiêm tinh
ngày xưa.
Ðôi khi chúng ta có
nét giống Hêrôđê,
sợ hãi bối rối trước sự
xuất hiện của Ðấng Cứu Ðộ.
Hãy để Chúa làm lung
lay ngai vàng của bạn,
đưa bạn vào sự bấp
bênh, mong manh,
để rồi cuối cùng bạn gặp
được sự vững vàng trong Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu
tạ ơn Chúa đã cho
chúng con
ánh sáng mặt trời,
mặt trăng,
và ánh sáng từ những
nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa
vì Chúa đã gọi
chúng con là ánh sáng.
Đó là vinh dự
và cũng là một
trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con
có khả năng đẩy lui bóng tối
của hận thù và bất
công,
của buồn phiền và
thất vọng.
Xin cho chúng con
biết giữ gìn ngọn lửa
mà Chúa đã thắp lên
trong lòng chúng con,
và biết vâng theo
những soi sáng của Chúa
qua từng phút giây
của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa ánh
sáng và bóng tối
vẫn còn tiếp diễn
trên thế giới và
trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con
đừng chỉ lo nguyền
rủa bóng tối,
nhưng can đảm thắp
lên những ngọn lửa,
để cả trái đất ngập
tràn ánh sáng Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Giêng
6 THÁNG GIÊNG
Tiếng Gọi Của Lễ Hiển
Linh
“Mầu nhiệm này tôi đã
được mạc khải cho biết” (Ep 3,3). Giáo Hội lấy những lời ấy của Tông Đồ Phao-lô
trong thư gửi giáo đoàn Ê-phê-sô để nhận hiểu ý nghĩa của ngày Lễ Hiển Linh
(Epiphany), ngày lễ này đã được gọi tên như thế ngay từ thuở đầu của Giáo Hội.
Chúng ta muốn suy tôn ân sủng của Thiên Chúa trong ngày lễ này, ân sủng dẫn con
người đến với đức tin.
Vâng, mầu nhiệm Đức
Kitô được vén mở cho con người nhận biết qua đức tin. Đây là cốt lõi của ngày Lễ
Hiển Linh. Bằng một cách thức nào đó, đức tin này được mạc khải vào tâm khảm của
kẻ nhận thần khải, như ngày ấy Đức Giêsu đã tự tỏ hiện cho Sao-lô người Tarsus
trên đường đi Damas. Thế là, Phao-lô trở thành một chứng nhân đặc biệt nhờ cuộc
trở về đón nhận đức tin. Như chính Phao-lô tuyên bố: “… anh em nghe nói đến ân
huệ mà Thiên Chúa đã ưu ái ban cho tôi vì thiện ích của anh em” (Ep 3,2).
Thánh tông đồ muốn làm
chứng hùng hồn cho ân sủng Hiển Linh. Và Giáo Hội lấy lại lời của Thánh tông đồ,
vì trong lời chứng ấy chúng ta có thể nhận ra tất cả những ai được Đức Kitô kêu
gọi qua đức tin. Tất cả những ai tin đều trở thành “người thông dự vào lời hứa
của Đức Giêsu Kitô qua Tin Mừng” (Ep 3,6). Thánh Phao-lô muốn nhấn mạnh với
chúng ta tiếng gọi giục giã loan báo Tin Mừng cho dân ngoại – vì chúng ta là những
người đã tin. Đó là tiếng gọi đem ánh sáng mạc khải của Thiên Chúa đến cho các
dân tộc. Đó là tiếng gọi của ngày Lễ Hiển Linh.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
do nhà Servant Pubns xuất bản, 1994.
Lời Chúa Trong Gia Đình
Chúa nhật Chúa Hiển
Linh;
Is 60,
1-6; Ep 3, 2-3a.5-6; Mt 2, 1-12.
LỜI SUY NIỆM: “Khi Đức
Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm
tinh từ phương Đông đến Giêrusalem và hỏi: Đức Vua dân Do-Thái mới sinh, hiện ở
đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng
tôi đến bái lạy Người” (Mt 2,1-2).
Từ thời các tổ phụ của dân tộc Do-Thái, đã nhận được lời hứa từ Thiên Chúa là:
Ngài sẽ cho xuất hiện một Đấng Giải Thoát để cứu dân tộc này. Nên dân Do-Thái
đã có một sự chuẩn bị rất chu đáo, qua từng giai đoạn lịch sử của họ, đều được
Thiên Chúa gởi những vị ngôn sứ của Ngài đến để loan báo những điều cần thiết
trong cuộc sống, hay răn đe khi dân bê trể, buông thả trong lối sống. Họ luôn
quan niệm Đấng Mêsia là của riêng họ. Nhưng với dấu chỉ các nhà chiêm tinh ở
phương Đông, nhận ra, sự ra đời của Chúa Giêsu, họ đã tìm đến, và đã thờ lạy
Ngài. Cho chúng ta một nhận thức: Chúa Giêsu Ki-tô không là của riêng ai. Ngài
xuất hiện trên trần gian này là để Cứu Độ tất cả mọi người không phân biệt một
ai, hay một dân tộc vùng miền nào kể từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
6 Tháng Giêng
Thánh Andre Bessette
(1845 - 1937)
Thánh Andre Bessette
(1845 - 1937)
Khi
Alfred Bessette đến tu hội Các Thầy Thánh Giá vào năm 1870, anh mang theo tờ giấy
giới thiệu của cha xứ viết rằng, "Tôi gửi đến các thầy một vị thánh."
Thật khó để các thầy dòng ở đây tin nổi. Bệnh đau bao tử kinh niên đã khiến
Alfred không thể đảm nhận được công việc nào lâu dài, ngay từ khi còn nhỏ
Alfred đã lang thang từ nông trại này sang nông trại khác, tiệm này sang tiệm
khác, ở ngay trên quê hương Gia Nã Ðại hoặc ở đất Hoa Kỳ, mà chỉ được có vài
hôm là chủ nhân đã phải sa thải vì anh không thể làm được việc nặng nhọc. Công
việc của các thầy dòng Thánh Giá là dạy học và dù đã 25 tuổi, Alfred vẫn chưa
biết đọc biết viết. Dường như anh đến nhà dòng vì sự tuyệt vọng hơn là vì ơn gọi
tu trì.
Alfred thật tuyệt vọng,
nhưng anh cũng là người siêng năng cầu nguyện và rất thành tâm với Thiên Chúa
cũng như sùng kính Thánh Giuse. Có lẽ anh chẳng còn nơi nào để nương tựa, nhưng
anh tin rằng đây là nơi anh phải sống trong suốt cuộc đời.
Nhà
dòng nhận anh vào đệ tử nhưng sau đó không lâu họ thấy đúng như những gì trong
quá khứ -- dù Alfred, bây giờ là Thầy Andre, rất muốn làm việc, nhưng sức khỏe
không cho phép. Họ yêu cầu thầy rời nhà dòng, nhưng trong sự tuyệt vọng, thầy
đã xin đức giám mục sở tại can thiệp để được ở lại và được giao cho công việc
khiêm tốn là gác cổng trường học Notre Dame ở Montreal, cùng với các nhiệm vụ
phụ là dọn lễ, giặt giũ và đảm trách việc thư từ. Thầy Andre khôi hài rằng,
"Khi tôi gia nhập cộng đoàn này, cha bề trên chỉ cho tôi cánh cửa ấy, và
tôi ở đó suốt 40 năm."
Trong căn phòng nhỏ bé của ngài ở gần cổng trường, hầu như suốt đêm ngài quỳ gối
cầu nguyện. Trên thành cửa sổ, trông ra đồi Royal, là bức tượng Thánh Giuse nhỏ,
là người mà thầy hằng sùng kính ngay từ khi còn nhỏ. Khi được hỏi về điều ấy thầy
trả lời, "Một ngày nào đó, Thánh Giuse sẽ được tôn kính một cách đặc biệt
trên đồi Royal!"
Khi
biết có ai bị đau yếu, ngài đến thăm để cổ võ tinh thần cũng như để cầu nguyện
với họ. Ngài cũng thường thoa lên bệnh nhân chút dầu lấy từ chiếc đèn luôn cháy
sáng trước tượng Thánh Giuse trong nguyện đường của trường học. Từ đó tiếng đồn
về sức mạnh chữa lạnh bắt đầu lan tràn.
Khi
bệnh dịch bùng nổ từ một trường kế cận, Thầy Andre đã xung phong đến đó chăm
sóc bệnh nhân. Không một ai bị thiệt mạng. Số người bệnh đến với thầy ngày càng
gia tăng. Cha bề trên cảm thấy bối rối; giới thẩm quyền địa phận nghi ngờ; các
bác sĩ gọi ngài là lang băm. Thầy thường lập đi lập lại rằng "Ðâu có phải
tôi chữa mà là Thánh Giuse đó." Sau cùng thầy phải cần đến bốn người thư
ký để trả lời 80,000 lá thư ngài nhận được hàng năm.
Ðã
nhiều năm Tu Hội Thánh Giá cố nài nỉ để mua lấy miếng đất trên ngọn đồi Royal
nhưng không thành công. Thầy Andre và một vài người khác đã leo lên đó để đặt một
tượng Thánh Giuse. Bỗng dưng, chủ đất đồng ý. Thầy Andre quyên góp được $200 để
xây một nhà nguyện nhỏ và dùng làm nơi tiếp khách thập phương mà ở đó lúc nào
thầy cũng tươi cười để thoa dầu Thánh Giuse trên bệnh nhân. Có người được khỏi
bệnh, có người không. Số nạng, gậy chống cũng như xe lăn người ta bỏ lại để
minh chứng cho sức mạnh chữa lành của Thánh Giuse ngày càng gia tăng.
Nguyện đường cũng cần được nới rộng thêm. Vào năm 1931, một thánh đường to lớn
được khởi công xây cất, nhưng tài chánh bị thiếu hụt vì đó là thời kỳ kinh tế đại
suy thoái. "Hãy đặt tượng Thánh Giuse vào trong ấy. Nếu ngài muốn có mái
che trên đầu thì ngài sẽ giúp cho." Sau cùng, Vương Cung Thánh Ðường Thánh
Giuse nguy nga trên đồi Royal đã hoàn thành sau 50 năm xây cất. Nhưng Thầy
Andre đã không được chứng kiến ngày huy hoàng đó, và đã từ trần năm 1937 khi thầy
92 tuổi.
Lời Bàn
Thoa lên vết thương với dầu và ảnh tượng? Ðặt một ảnh tượng để mua được miếng đất?
Ðó có phải dị đoan không? Ðó có phải là những gì chúng ta muốn quên đi không?
Người
dị đoan chỉ trông nhờ vào "yêu thuật" của lời nói hay hành động. Dầu
và ảnh tượng của Thầy Andre là những dấu tích đích thực của một đức tin đơn sơ,
trọn vẹn nơi Thiên Chúa Cha là Ðấng đã giúp vị thánh của thầy chữa lành cho các
con cái của Thiên Chúa.
Lời Trích
"Chính cây cọ nhỏ bé đã giúp nghệ nhân hoàn thành bức họa tuyệt mỹ."
6 Tháng Giêng
Vị Vua Thứ Tư
Hôm nay lễ Ba Vua. Phúc Âm chỉ nhắc đến
ba vị vua. Thế nhưng văn sĩ Joergernen người Ðan Mạch thì lại tưởng tượng ra một
vị vua thứ tư. Vị vua thứ tư này đến chầu Chúa Giêsu sau ba vị vua khác. Triều
bái Hài Nhi Giêsu nhưng mặt ông tiu nghỉu bởi vì ông không còn gì để dâng tặng
Ngài.
Trước khi lên đường, ông chọn ba viên
ngọc quý nhất trong kho tàng của ông, thế những dọc đường gặp bất cứ ai xin,
ông cũng mang ra tặng hết. Người thứ nhất mà ông đã gặp là một cụ già rét run
vì lạnh. Ðộng lòng trắc ẩn, ông đã tặng cho cụ viên ngọc thứ nhất. Ði thêm một
đoạn đường nữa, ông gặp một toán lính đang làm nhục một cô gái. O?g đành mang
viên ngọc thứ hai ra thương lượng với chúng để chuộc lại cô gái. Cuối cùng khi
tiến vào địa hạt Bêlem, ông gặp một người lính do vua Herôđê sai đi để tàn sát
các hài nhi trong một ngôi làng lân cận. Vị vua thứ tư đành phải rút ra viên ngọc
cuối cùng để tặng cho người lính và thuyết phục anh từ bỏ ý định gian ác.
Tìm được Hài Nhi Giêsu, vị vua thứ tư
chỉ còn hai bàn tay trắng. Ông bối rối kể lại cuộc hành trình của mình.
Nghe xong câu chuyện, Hài Nhi Giêsu mỉm
cười đưa bàn tay bé nhỏ ra đón nhận quà tặng của ông. Nó không phải là vàng bạc
châu báu, nhưng là tấm lòng vàng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân,
nhất là những người túng thiếu, đói khổ, những người cần giúp đỡ.
Mùa
Giáng Sinh là mùa của những bất ngờ. Bất ngờ của một Thiên Chúa hóa thân làm
người. Bất ngờ của một thiên Chúa giáng hạ trong hang súc vật. Bất ngờ sự việc
những người nghèo hèn nhất trong xã hội đã nhận ra Tin Mừng. Bất ngờ của những
người dân ngoại tìm đến triều bái Vua các vua. Nhưng điều khiến con người sẽ
không bao giờ ngờ đến: đó là Ðấng Thiên Chúa hóa thân làm người ấy lại tự đồng
hóa với mỗi một con người sinh ra trên cõi đời này, nhất là những con người bé
mọn nhất trong xã hội. Ngài đã nói: tất cả những gì các người làm cho một trong
những kẻ bé mọn nhất là các người làm cho chính Ta. Từ đây, người ta chỉ có thể
gặp gỡ được Ngài qua tha nhân. Tất cả những gì người ta làm cho tha nhân là làm
cho chính Ngài. Lễ dâng làm đẹp lòng Ngài nhất chính là những gì người ta trao
tặng cho tha nhân, nhất là những người nghèo hèn túng thiếu hay bất cứ ai cần sự
giúp đỡ.
Trích sách Lẽ Sống







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét