Trang

Thứ Bảy, 2 tháng 3, 2019

03-03-2019 : (phần I) CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN năm C


03/03/2019
Chúa Nhật 8 Thường Niên năm C
(phần I)


BÀI ĐỌC I: Hc 27, 5-8 (Hl 4-7)
“Đừng ca tụng người nào trước khi nghe người ấy nói”.
Trích sách Huấn Ca.
Khi người ta sàng, những rác rến còn lại thế nào, thì nết xấu của một người cũng xuất hiện trong lời nói kẻ ấy như vậy. Lò lửa thì nung luyện bình sành, còn gian nan thì thử những người công chính. Xem trái liền biết cây thế nào, thì nghe lời nói cũng biết tư tưởng lòng người như thể ấy. Đừng ca tụng người nào trước khi nghe người ấy nói, vì lời nói là sự thử thách của con người. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 91, 2-3. 13-14. 15-16
Đáp: Lạy Chúa, thiện hảo thay việc khen ngợi Chúa! (x. c. 2a).
Xướng:
1) Thiện hảo thay việc khen ngợi Chúa, và đàn ca danh Ngài, ôi Đấng Tối Cao, hầu loan truyền tình thương Ngài vào buổi sớm, và lòng trung tín Ngài vào lúc ban đêm. – Đáp.
2) Người hiền đức như cây chà là nở hoa tươi tốt, vươn mình lên như cây hương bá đất Liban. Họ được vun trồng trong nhà Chúa, trong hành lang nhà Thiên Chúa chúng tôi họ nở bông. – Đáp.
3) Ngay trong tuổi già họ còn sinh trái, họ đầy nhựa sống và họ sống xanh tươi, để họ loan truyền Chúa nhường bao công chính, Chúa là Đá Tảng của tôi, nơi Chúa chẳng có gian tà! – Đáp.

BÀI ĐỌC II: 1 Cr 15, 54-58
“Người đã ban cho chúng ta sự chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, khi xác hay chết này mặc lấy sự trường sinh, thì lúc ấy ứng nghiệm lời đã ghi chép rằng: “Sự chết đã tiêu tan trong chiến thắng”. “Hỡi tử thần, chiến thắng của ngươi ở đâu? Hỡi tử thần, nọc độc của ngươi ở đâu? Nọc độc của sự chết là tội, thế lực của tội là lề luật”. Cảm tạ ơn Thiên Chúa, Đấng đã ban cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Cho nên, hỡi anh em thân mến, anh em hãy ăn ở bền đỗ và đừng nao núng; hãy luôn luôn thăng tiến trong công trình của Chúa. Hãy biết rằng công lao khó nhọc của anh em không phải là uổng phí trong Chúa. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! – Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Lc 6, 39-45
“Miệng nói những điều đầy ứ trong lòng”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: “Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư? Môn đệ không trọng hơn Thầy: nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi.
“Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói với người anh em: ‘Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh’, trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi? Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi.
“Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu; và ngược lại, cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái được trái vả ở bụi gai, và cũng không hái được trái nho nơi cây dâu đất. Người hiền, bởi lòng tích chứa điều lành, nên phát xuất sự thiện; và kẻ dữ, bởi tích đầy lòng ác, nên phát xuất điều ác: vì lòng đầy, thì miệng mới nói ra”. Đó là lời Chúa.


Suy Niệm: Lời Nói - Việc Làm - Ơn Chúa
Ðọc và nghe lần đầu, chúng ta khó bắt được ý tưởng của các bài Kinh Thánh hôm nay. Ðó không phải là những lời khó hiểu. Những ý tưởng sở dĩ không dễ bắt vì cấu trúc của những đoạn văn này không chặt chẽ, và các tác giả dường như nói đến những vấn đề rất khác nhau. Chúng ta đừng lấy làm lạ vì trong các Chúa nhật quanh năm, phụng vụ muốn giáo dục chúng ta về đời sống đạo mỗi lần một tí và không cần theo một hệ thống nào. Vì đạo là sự sống chứ không phải là một hệ tư tưởng. Ðối với một hệ tư tưởng, muốn thuyết minh người ta phải theo luận lý đầu đuôi chặt chẻ. Còn đối với sự sống, không có quy luật tăng cường cố hữu nào. Mỗi chân lý đều co thể biệt lập mà vẫn có thể mồi thêm cho sự sống tinh thần của con người.
Tuy nhiên chúng ta có thể nói rằng ba bài Kinh Thánh hôm nay đều muốn nói đến việc phân biệt con người đạo đức thánh thiện, nhờ lời nói, nhờ việc làm, và nhất là nhờ ơn Chúa.

1. Lời Nói
Bài sách huấn ca không có vẻ gì là đạo đức cả. Ðó là mấy câu kinh nghiệm. Nó thuộc loại văn khôn ngoan, dạy cách xư xử ở đời. Nhưng nếu đặt những câu dạy khôn ngoan này vào văn mạch và luận lý của tác giả, chúng ta thấy chúng phục vụ đạo đức và rất có giá trị.
Tác giả Ben Sira là một học giả Do Thái, sống ở đầu thế kỷ II trước công nguyên. Như các nhà trí thức đương thời ông hiểu biết nền văn minh Hy Lạp đang thịnh hành ở mọi nơi. Nhưng vì là con người có đạo, ông biết dùng lời Chúa để phê phán nếp sống do nền văn minh ấy tạo ra. Và ông muốn chia sẻ các suy nghĩ của mình với đồng đạo và đặc biệt với lớp trẻ Do Thái đang lớn lên và hít thở nền văn minh Hy Lạp. Ông đã đưa ra nhiều nhận xét mới về đời sống gia đình (25,1-26,18). Ông đã đề cập tới nhiều nét trong đời sống xã hội, mà nổi bật nhất là nền mậu dịch, thương mại thời bấy giờ (26,28-27,15).
Ðây là điểm bén nhậy đối với người Do Thái. Họ biết làm ăn. Có thể nói họ có máu buôn bán. Việc tiếp xúc với văn hóa Hy Lạp đã tạo nên nơi các cộng đồng Israen nhiều trung tâm thương mại nổi tiếng.
Tại đây người Do Thái buôn bán với dân ngoại. Họ không còn sợ luật pháp và để ý đến các tiêu chuẩn đạo đức nữa. Có thể nói họ như cảm thấy được ra khỏi đạo và các ràng buộc xưa nay của lương tâm công giáo. Chỉ còn một luật chi phối công việc làm ăn của họ là: mua rẻ bán đắt. Và cho được như vậy, môi mép và lời nói là phương tiện được sử dụng tối đa. Các tiên tri đã nhiều lần lên án các thói buôn gian bán lận và đời sống bê bối của các thương gia. Ben Sira cũng nhất trí cảnh cáo: giữa bán và mua tội chen vào giữa. Ông không thích doanh thương vì buôn bán làm sao vô tội? Nhưng ông chẳng cấm được. Và dường như ông biết lời khuyên chẳng công hiệu gì nơi tại kẻ đếm tiền. Có lẽ vì vậy ông quay sang nói với khách hàng, với những người dân vô tội phải đến mua ở các cửa tiệm. Ông thấy họ nhiều khi đã trở thành mồi ngon của các con buôn. Và như vậy chỉ vì họ dễ bị lời nói mua chuộc. Vừa nghe con buôn quảng cáo hàng hóa là họ đã sa bẫy. Thế nên trong đoạn văn vắn tắt này Ben Sira khuyên người ta đừng vội tin lời nói của con buôn. Hãy để cho nó nói mãi đi, cuối cùng điều nó che giấu sẽ lòi ra. Chẳng khác gì cứ sàng mãi, trấu bẩn sẽ còn lại và gạo sẽ lọt xuống... Và cũng như cứ đi qua lò, thì đồ sành thợ gốm sẽ được hay không. Hoặc cũng như phải chờ khi có quả mới biết cây dại hay cây tốt. Và Ben Sira kết luận cứ thong thả nghe lời biện luận của con người sẽ biết tâm tư của họ. Thành ra không nên vội phán đoán một ai trước khi nghe nhiều lời người đó nói.
Như vậy từ thái độ phải có đối với người mua bán, tác giả đã dẫn chúng ta sang thái độ phải có đối với mọi người: đừng vội tin ai và phê phán ai trước khi nghe người đó nói, bởi vì tâm tư con người lộ bày khi biện luận. Tác giả có lạc quan quá không? Có thể luôn luôn căn cứ vào lời nói của con người mà đánh giá họ không, cho dù không phải là tin vào một lời, nhưng là đã nghe người ấy luận lý rất nhiều? Tác giả Luca dường như không hoàn toàn tin như vậy. Người đưa thêm một số tiêu chuẩn nữa để hiểu biết con người như trong bài Tin Mừng sau đây.

2. Việc Làm
Chúng ta bảo Luca là tác giả của bài Tin Mừng này, mặc dù đây là Lời Chúa đã thốt ra từ miệng Chúa Giêsu Kitô. Chắc Chúa đã không nói tất cả những lời này một lần và không theo một thứ tự như ở đây. Rõ ràng chẳng có một thứ tự luận lý nào để khẳng định Chúa đã nói luôn một lần những điều ít ăn khớp với nhau. Cũng như tư tưởng này và những câu văn như thế, trong sách Tin Mừng Mátthêu chẳng hạn, lại nằm ở những chỗ khác và phục vụ những chủ đề khác. Như vậy chúng ta có thể nói được rằng, tác giả Luca đã dùng những câu Chúa nói ở những trường hợp khác nhau đem xếp cả vào chỗ này để phục vụ một chủ đề nào đấy.
Nếu chúng ta còn nhớ, thì Chúa nhật trước chúng ta cũng đã đọc sách Tin Mừng của Luca. Ðoạn trích hôm nay tiếp theo bài đọc lần trước. Thế mà hôm đó chúng ta đã thấy rằng Chúa dạy chúng ta phải yêu thù địch, không còn được duy trì đầu óc kỳ thị và phân biệt, và phải coi mọi người là con cái một Cha trên trời và hết thảy là anh em của nhau. Hôm nay dường như tác giả Luca muốn tiếp nối tư tưởng trên và nói đến thái độ bác ái ngay trong cộng đoàn các môn đồ của Chúa, tức là chính trong lòng Hội Thánh và Giáo Hội.
Chắc chắn câu đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay phải hiểu về các người lãnh đạo cộng đoàn tức là hàng giáo sĩ: linh mục, giám mục hiện nay của chúng ta. Thực ra câu văn có thể dùng trong một trường hợp khác. Và trong Mátthêu câu này đã được tuyên bố về giới tư tế, lãnh đạo trong Do Thái giáo. Họ là những người mù dẫn đàng cho người mù. Nguyên khởi đó chỉ là một câu cách ngôn. Chúa Giêsu có lần dùng để nói về luật sĩ và biệt phái vì họ không biết mở mắt đón nhận đường lối của Thiên Chúa đang bày tỏ nơi công việc của Ðấng Ngài sai đến. Họ ở cương vị lãnh đạo mà mù thì dẫn đàng chỉ lối cho người khác sao được?
Tác giả Luca nhớ có lần Chúa nói như vậy. Nay đang viết những lời Người khuyên bảo môn đồ, Luca sực nhớ câu đó. Người thấy nó vẫn hợp để nói với giới lãnh đạo trong Hội Thánh. Những người này cần nhớ rằng: ở cương vị lãnh đạo, họ phải sáng suốt. Ðó là thái độ bác ái quan trọng nhất họ phải thi hành cho những người được trao phó cho họ.
Nhưng trong Hội Thánh, không phải chỉ có các nhà lãnh đạo. Ðại bộ phận Dân Chúa được gọi là môn đồ. Và tư cách đầu tiên, thái độ bác ái cơ sở của người môn đồ nằm trong quan hệ với Thầy mình. Môn đồ không lẽ hơn Thầy, hoàn bị là mọi kẻ sẽ được như Thầy. Lời này thoạt nghe có vẻ chua chát, nhưng nếu nhớ Thầy của các môn đồ chính là Chúa Giêsu Kitô, thì đây là cả một lý tưởng cao cả: môn đồ phải cố gắng nên hoàn bị như Thầy.
Sau hai câu nói với hai hạng người trong Hội Thánh, những câu sau có thể nói, mới thật sự vào đề và muốn dạy dỗ mọi thành phần trong cộng đoàn tín hữu. Họ không nên để ý đến khuyết điểm của anh em trước, nhưng trước hết hãy muốn nhờ anh em giúp mình sửa đổi tính hư nết xấu. Nếu làm như vậy chắc chắn sẽ không có cãi cọ bất bình; một cộng đoàn như thế chắc chắn mỗi ngày một hoàn toàn hơn. Ai mà không có cảm tình yêu thương đối với người muốn sửa mình? Bác ái cộng đoàn được xây dựng chắc chắn nhất, khi các phần tử trong cộng đoàn luôn ý thức bổn phận phải sửa mình, trước khi nói đến các khuyết điểm của anh em. Nhất là khi trong cộng đoàn ấy, ai cũng theo gương Chúa mà sửa mình như trên vừa nói: hoàn bị là mọi kẻ sẽ được như Thầy?
Thế nên người tốt phải chứng tỏ qua việc làm. Chúng ta đừng tưởng ở đây Luca mâu thuẫn hoặc nói khác với tác giả sách Huấn Ca. Cả hai đã trích câu tục ngữ: Xem quả biết cây. Nơi tác giả sách Huấn Ca, lời nói và biện luận là quả do tâm tư con người. Luca công nhận điều ấy vì ở đây người cũng viết: lòng ứa đầy những gì thì miệng nói ra. Nhưng lời nói nơi Luca không phải chỉ là các âm, các tiếng, mà còn là tất cả mọi việc mà con người làm. Các việc này cũng bày tỏ "lòng" người ta, vì "người lành tự kho lành lòng mình mà đem ra sự lành, và người dữ tự tính ác mà đem ra sự ác".
Như vậy Luca muốn đầy đủ hơn tác giả sách Huấn ca. Người khiến chúng ta nên giải thích bài sách này một cách rộng rãi nhưng vẫn hợp ý với tác giả. Như chúng ta biết, ông viết những lời trên là để cảnh giác con cái Israen đề phòng sự gian dối của phường mua bán. Và sở dĩ như vậy vì ông thấy quá nhiều bất công và tội lỗi trong việc mua đi bán lại. Ông muốn xã hội công bằng huynh đệ hơn.
Vì thế chúng ta có thể hiểu bài sách Cựu Ước hôm nay về lòng bác ái. Cũng như bài Tin Mừng vậy. Nhưng ở một mức độ sâu sắc hơn. Tác giả sách Huấn Ca thấy thiếu bác ái trong việc mua bán. Tác giả Luca còn nhìn thấy trong thái độ người ta hay phê bình và chỉ trích nhau. Cuối cùng cả hai đều công nhận phải sửa chữa từ tâm tư và từ "lòng" con người. Do đó muốn biết người tốt, phải xem lời nói, phải xét việc làm. Nhưng muốn có lời tốt và việc lành, phải sửa đổi tâm tư và lòng trí, là con người bên trong của chúng ta. Có thể làm công việc này không?

3. Ơn Chúa
Theo thánh Phaolô trong bài thư hôm nay, khi xác hay chết này mặc lấy sự trường sinh, thì bấy giờ con người mới thực sự công chính. Và đức bác ái yêu thương mới trọn vẹn. Ðối với chúng ta dĩ nhiên là như vậy rồi. Nhưng các độc giả trực tiếp của thánh Tông đồ, tức là những người Côrintô thời bấy giờ, chân lý ấy nên được giải thích rõ ràng hơn. Bởi vì họ là những người Hy lạp tòng giáo. Ít ra họ là các tín hữu mới mẻ đang hít thở bầu khí văn hóa Hy Lạp. Những người này quan niệm xác và hồn nơi con người là hai yếu tố rất dị biệt, chẳng thể hòa hợp với nhau. Hồn ở trong xác như ở trong tù, chỉ chờ đợi ngày thoát ra khỏi xác để được trở về sống như những thần linh, bởi vì trước kia linh hồn cùng ở chung với các thần thánh, nhưng đã sa đọa nên rơi vào xác thịt và bị giam ở đó. Thành ra bao lâu còn sống trong xác thể, linh hồn còn khổ sở và ấm ức. Con người không có sự hòa hợp ngay trong chính mình, nên cũng chẳng có hòa hợp được trong xã hội. Linh hồn đợi ngày giải thoát ra khỏi thân xác.
Quan niệm như vậy không hợp với đức tin. Ðành rằng xác thịt con người hiện nay là mồi cho sự chết. Nhưng chết không phải là hết. Nhờ sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, thân xác con người cũng sẽ sống lại. Không phải để rồi lại sống như trước đây, nhưng để trường sinh bất tử như "thần thánh". Và sở dĩ như vậy là vì xác thể con người sẽ mặc lấy sự bất hoại, là đặc tính của Thiên Chúa. Lúc ấy con người sẽ ca khúc khải hoàn chế nhạo sự chết: Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu, ngươi đã dùng tội lỗi làm nọc sát hại con người. Và tội lỗi đã tỏ ra mãnh liệt trong chế độ Lề luật, toàn là cấm đoán mà không có cứu độ. Nhưng nay Chúa Giêsu Kitô đã đem ơn cứu độ đến, tẩy sạch tội lỗi, làm vô hiệu nọc của tử thần, khiến con người có Ơn Chúa không còn chết nữa.
Như vậy ơn của Chúa Giêsu Kitô cứu sống chúng ta khi tiêu diệt tội lỗi, và ban cho ta sự sống mới, sự sống của Thiên Chúa thay thế sự sống của xác thịt tội lỗi trước đây. Do đó ai muốn nên công chính, muốn sống bác ái yêu thương phải để cho Ơn của Chúa Giêsu Kitô biến đổi tâm tư và lòng trí. Và công việc này phải làm trong kiên nhẫn, không nao núng. Phải nhờ làm thêm nhiều việc lành, mà thánh Phaolô gọi là việc của Chúa.
Như vậy, người tốt không phải ở lời nói, nhưng ở việc làm, và nói rõ hơn, ở việc làm của Chúa. Ơn của Chúa là yếu tố cuối cùng quyết định sự công chính của con người chúng ta vậy. Và ơn của Chúa phong phú nơi các Bí Tích, đặc biệt trong mầu nhiệm thánh lễ. Nơi đây Chúa ban cho chúng ta bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng, để chúng ta có sức sống của Thiên Chúa, làm được các việc Chúa là các việc lành, hầu tâm tư, lòng trí chúng ta dần dần được cải hóa nên công chính. Chúng ta sẽ có những lời nói việc làm đầy bác ái yêu thương. Không những đời sống bản thân sẽ đạo đức hơn mà đời sống xã hội cũng công chính hơn. Bài thư Phaolô giúp ta đạt được những điều nhắn nhủ trong hai bài sách Huấn ca và Tin mừng vậy.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)



Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 8 Thường Niên, Năm C
Bài đọcSir 27:5-8 (4-7); 1 Cor 15:54-58; Lk 6:39-45.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lòng có đầy miệng mới nói ra.
            Con người chỉ có thể nhận xét những gì xảy ra bên ngoài, chứ không được như Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm hồn. Vì thế, để chúng ta có thể nhận xét một người, người đó phải biểu lộ ra bên ngoài: hoặc bằng lời nói hoặc bằng hành động. Lời nói đi đôi với hành động là cách chắc chắn nhất để thuyết phục lòng người.
            Các bài đọc hôm nay chú trọng đến hai cách biểu lộ này. Trong bài đọc I, tác giả Sách Huấn Ca chú trọng đặc biệt đến lời nói, ví nó biểu tỏ sự khôn ngoan và tính khí của một người. Trong bài đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu Corintô tin tưởng những gì Đức Kitô đã mặc khải và chứng thực về việc sống lại. Con người được cứu thoát khỏi sự chết không bằng Lề Luật, nhưng bằng niềm tin vào Đức Kitô và thực hành những gì Ngài truyền dạy. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy các môn đệ những bài học khôn ngoan, cần thiết và cụ thể trong cuộc đời: Họ phải khôn ngoan sáng suốt trước khi họ có thể lãnh đạo người khác. Họ phải học biết mình để sửa chữa những nết xấu thay vì tốn thời giờ phê bình người khác. Họ phải tập luyện để có nhân đức từ bên trong thì mới có thể sinh quả tốt được.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tính khí con người biểu lộ qua lời nói.           
1.1/ Phải có dịp chuyện trò mới biết ai dở ai hay: Tác giả Sách Huấn Ca dùng hai hình ảnh quen thuộc với dân chúng để dẫn chứng việc chúng ta chỉ biết rõ một người qua những gì họ nói.
            (1) Giống như khi người ta sàng gạo, trấu sẽ ở lại trong sàng và gạo sẽ được thảy vào trong thùng; khi một người mở miệng nói, người ta sẽ biết ngay anh nói dở hay nói hay, suy nghĩ cẩn thận hay bạ gì nói ấy.
            (2) Giống như chiếc bình được làm ra bởi người thợ gốm, phải đem thử lửa thì mới biết chiếc bình nào tốt. Chiếc bình sẽ dùng được lâu, nếu người thợ gốm chịu khó nung đất ở nhiệt độ cao. Chiếc bình sẽ dễ vỡ khi đất được nung ở nhiệt độ thấp. Cũng vậy, phải nghe một người chuyện trò, chúng ta mới biết kiến thức và sự khôn ngoan của người ấy sâu xa hay nông cạn.
           
1.2/ Chớ vội khen khi người chưa lên tiếng. Giống như kinh nghiệm xem quả là biết cây: cây xấu không thể sinh trái tốt, và ngược lại, cây tốt không thể sinh trái xấu. Lời con người nói ra là kết quả của những gì tích tụ trong con người của họ: người khôn ngoan không thể thốt ra những lời nông cạn, thiếu hiểu biết; ngược lại, người nông cạn, thiêu hiểu biết, không thể thốt ra những lời khôn ngoan.
            Nhiều người thích người ít nói; nhưng tác giả Sách Huấn Ca đề phòng: Người trầm tư, ít nói, chưa chắc đã là người khôn ngoan; vì có thể họ chẳng có gì để nói. Nếu muốn biết rõ họ, phải tạo cơ hội cho họ nói: “Chớ vội khen, khi người chưa lên tiếng; muốn biết người, phải nghe miệng nói năng.”
2/ Bài đọc II: Con người được cứu độ nhờ niềm tin vào Đức Kitô và trung thành với sứ vụ của mình.           
2.1/ Lề Luật không có sức mạnh làm cho con người khỏi chết: Trong chương 15 của Thư I Corintô, thánh Phaolô đã cắt nghĩa chi tiết hai câu hỏi: Thứ nhất, thân xác con người có sống lại không; thứ hai, nếu có sống lại thì thân xác chúng ta sẽ giống cái gì. Câu hỏi thứ nhất tương đối dễ hơn, vì chúng ta có bằng chứng sống lại của Đức Kitô. Câu hỏi thứ hai khó trả lời, vì ngay cả Phaolô cũng chưa có kinh nghiệm sống lại. Chỉ có một điều chắc chắn là : “Khi cái thân phải hư nát này mặc lấy sự bất diệt, khi cái thân phải chết này mặc lấy sự bất tử, thì bấy giờ sẽ ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Tử thần đã bị chôn vùi. Đây giờ chiến thắng!” Thân xác của chúng ta lúc đó có Thần Khí của Thiên Chúa, và chúng ta sẽ trở nên giống như Ngài.
            Lề Luật, tội lỗi, và sự chết là bộ ba có liên hệ mật thiết với nhau. Đó là lý do thánh Phaolô nói: “Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? Tử thần có độc là vì tội lỗi, mà tội lỗi có mạnh cũng tại có Lề Luật.” Chúng ta có thể quảng diễn hai câu này như sau:
            (1) Lề Luật hành động như nhà luân lý, phải có Lề Luật thì mới có tội. Nếu không có Luật, thì cũng không có tội. Luật nhắc nhở cho con người biết điều gì là tội.
            (2) Hậu quả của tội là cái chết. Con người chỉ cần cố tình phạm một tội trọng thôi là đã đủ chết rồi (Deut 30:15-16).
            (3) Vì thế, Lề Luật tuy tốt và đến từ Thiên Chúa; nhưng không có sức mạnh làm cho con người khỏi phải chết.
2.2/ Chúng ta được cứu độ nhờ niềm tin vào Đức Kitô và kiên trì làm những gì Ngài dạy bảo. Điều này thánh Phaolô đã cắt nghĩa rõ ràng trong phần đạo lý của Thư Galat và Thư Rôma. Trong trình thuật hôm nay, thánh Phaolô chỉ nói cách vắn tắt: “Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.”
            Không giống như Thư Galat và Roma được chia làm 2 phần rõ rệt: phần đạo lý và phần khuyên nhủ; trong thư I Corintô, hai phần này hòa lẫn với nhau. Trong trình thuật hôm nay, thánh Phaolô tiếp tục nói: “Anh em hãy kiên tâm bền chí, và càng ngày càng tích cực tham gia vào công việc của Chúa, vì biết rằng: trong Chúa, sự khó nhọc của anh em sẽ không trở nên vô ích.” Như thế, con người được cứu độ không chỉ bằng niềm tin vào Đức Kitô; nhưng còn bằng những việc làm để chứng tỏ niềm tin này. Chính thánh Phaolô cũng không chỉ tin vào Đức Kitô; nhưng Ngài còn nhiệt thành rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng chịu mọi gian khổ, để làm chứng cho Đức Kitô và để chu toàn sứ vụ mà Đức Kitô đã trao phó cho ngài.
3/ Phúc Âm: Hãy học biết chính mình.           
3.1/ Nhà lãnh đạo phải sáng suốt: Đây là một thực tế trong cuộc đời; nhưng không mấy người nhìn ra nhu cầu cần phải sáng suốt. Cha mẹ phải hướng dẫn con mình; nhưng cha mẹ có sáng suốt đủ để hướng dẫn con cái? Người mục tử phải hướng dẫn đoàn chiên; nhưng liệu người mục tử có sáng suốt đủ để hướng dẫn đoàn chiên mình? Ngay cả người mục tử có nhận ra ai là chiên của mình đang cần sự hướng dẫn? Đức Giêsu nêu ra cho các môn đệ một hình ảnh: “Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?” Làm sao để một người có thể trở thành nhà lãnh đạo sáng suốt?
            (1) Phải học hỏi để biết: Để có kiến thức cần phải học, vì không ai có thể cho người khác điều mình không có! Hành nghề gì cũng đòi phải học hỏi và qua kỳ thi để có bằng cấp; nhưng nghề làm cha mẹ quan trọng như thế thì ít người chịu học hỏi và chẳng ai cấp bằng để hướng dẫn con cái; phần lớn đều trở nên cha mẹ cách bất đắc dĩ: khi có con là đương nhiên trở thành cha mẹ!
            (2) Phải lắng nghe và học hỏi với Đức Kitô: Nguồn khôn ngoan quan trọng nhất là Kinh Thánh và những mặc khải của Đức Kitô. Đây phải là nguồn đầu tiên chúng ta phải học hỏi vì không ai có sự khôn ngoan bằng Thiên Chúa. Tại sao chúng ta không chịu học với Đức Kitô trước, mà lại đi học với Dear Abby, Dear Ann Lander, hay với Dr. Ruth? Chúng ta không phủ nhận kinh nghiệm khôn ngoan của con người; nhưng nó chỉ là nguồn phụ thuộc mà thôi. Nếu không có thời giờ, người khôn ngoan là người biết tìm tới nguồn chính yếu để học hỏi sự thật, trước khi có thể nhận ra sự sai trái từ những nguồn phụ thuộc, nếu có.
            (3) Phải có cái nhìn tổng quan về cuộc đời để nhận ra đâu là điều chính yếu từ bao điều phụ thuộc; nếu không sẽ dễ dàng chú trọng vào cái phụ thuộc và bỏ qua mục đích của cuộc đời.           
3.2/ Hãy khử trừ thói quen phê bình người khác: Hầu hết các thánh nhân và các bậc thánh hiền đều khuyên con người “hãy biết mình trước.” Khi nào thấy mình thập toàn rồi, mới dám nghĩ tới việc sửa lỗi người khác, để tránh tình trạng “chân mình còn lấm bê bê; mà cầm bó đuốc mà rê chân người.”
            Trong trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu cũng dạy các môn đệ: “Sao anh thấy cái vỏ trấu trong con mắt của người anh em, mà cái thanh gỗ trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người anh em: “Này anh, hãy để tôi lấy cái vỏ trấu trong con mắt anh ra!” trong khi chính mình lại không thấy cái thanh gỗ trong con mắt của mình? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái thanh gỗ ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái vỏ trấu trong con mắt người anh em!” Khi một người năng xét mình, họ sẽ nhận ra họ cũng có bao tội lỗi và khuyết điểm cần phải sửa, nhiều khi còn to lớn và xấu xa hơn tội của tha nhân gấp bội; nên họ cảm thấy xấu hổ khi phải phê bình người khác. Ngược lại, người không năng xét mình hay xét mình không kỹ, họ cảm thấy mình tốt lành; và vì thế, họ năng xét tội và phê bình tha nhân.           
3.3/ Cây nào sinh quả đó: Tục ngữ Việt-nam dạy: “xem quả, biết cây.” Chúa Giêsu dạy: “Không có cây nào tốt mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây nào sâu mà lại sinh quả tốt. Thật vậy, xem quả thì biết cây. Ở bụi gai, làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì hái được nho! Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra.”
            Trong tiến trình trở nên tốt, con người trải qua các thứ tự như sau:
            (1) Bắt đầu từ sự hiểu biết: Để làm đúng, con người cần phải hiểu biết đúng. Lời Chúa là sự thật, sẽ chỉ dạy con người biết đường lối phải theo. Nếu hiểu biết sai lầm, sẽ không thể làm đúng.
            (2) Cố gắng mang ra áp dụng: Đã học, phải hành; nếu không nó chỉ là mớ lý thuyết mà không sinh ích lợi cho con người.
            (3) Thực tập lâu ngày thành thói quen tốt: Các nhà luân lý gọi thói quen tốt là nhân đức, cũng như thói quen xấu là tội. Một khi đã có nhân đức nào, con người cũng tránh được tội ngược lại với nhân đức ấy; ví dụ, khi một người đã có nhân đức khiêm nhường, người ấy cũng tránh được tội kiêu ngạo.
            Chúa Giêsu có ý muốn nói: Cả hai, tội và nhân đức, đều ẩn giấu trong con người; khi cơ hội tới, chúng sẽ phát ra. Nếu lòng một người chỉ toàn nhân đức, họ không thể làm điều xấu; và ngược lại, nếu lòng một người đầy tội, họ không thể làm việc lành.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
            – Lời nói là hậu quả của việc học hành và tính tình của một người. Chúng ta có thể nhận ra kiến thức và tính tình của một người khi nghe họ nói.
            – Lời của Thiên Chúa chính là Đức Kitô. Ngài đến để mặc khải cho con người chân lý và tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta hãy tin tưởng và lam theo sự chỉ dạy của Đức Kitô.
            – Lãnh đạo cần phải sáng suốt và biết mình trong mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân. Để sáng suốt, chúng ta cần phải học với Chúa qua những lời khôn ngoan của Kinh Thánh và những kinh nghiệm chúng ta thu thập được trong cuộc đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


03/03/2019 – CHÚA NHẬT TUẦN 8 TN – C
Lc 6,39-45

TÍNH CÁCH NGƯỜI MÔN ĐỆ
“Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã…. Xem quả thì biết cây.” (Lc 6,42.44)

Suy niệm: Bằng những lời ngắn gọn – và dí dỏm nữa – Chúa Giê-su nêu rõ tính cách người môn đệ cần phải có để họ “tri hành hiệp nhất”: cuộc sống của họ nhất quán với lời họ rao giảng. Bằng hình ảnh thật buồn cười của người đang bị cái xà to đùng che kín mắt mình mà còn “le te” đòi nhặt cái rác trong mắt anh em, Chúa dạy các môn đệ thay vì xét đoán tha nhân, trước tiên phải nhìn lại chính mình và sửa đổi bản thân trước đã. Phải lấy cái xà ra khỏi mắt mình rồi mới có thể sáng suốt phân định và giúp người khác phân định dưới ánh sáng của Lời Chúa. Có cái nhìn sáng suốt rồi, nhiệm vụ kế tiếp của người môn đệ là phân định – chứ không phải xét đoán – dựa trên một nguyên tắc chắc chắn đó là “xem quả thì biết cây”: một công việc đem lại kết quả tốt đẹp trước mặt Chúa hẳn là xuất phát từ động lực ngay chính và thánh thiện.
Mời Bạn: “Lòng đầy thì miệng mới nói ra”. Qua đời sống cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích, lòng bạn sẽ “đầy” Chúa. Và như thế bạn sẽ sinh nhiều hoa trái tốt lành đẹp lòng Chúa. Và cũng vậy, lời rao giảng của bạn mới có sức thuyết phục và đáng tin theo.
Sống Lời Chúa: Chúng ta hãy khiêm tốn xin Chúa cho chúng ta biết được mình để khiêm tốn sửa những điều sai trái. Xin Chúa cho ta biết được người để góp ý chân thành.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa dạy chúng con phải sáng suốt, đừng xét đoán và lời nói phải đi đôi với việc làm. Xin cho chúng con luôn nhớ nhiệm vụ của mình để thi hành Lời Chúa cách tốt nhất trong tình yêu và sự trợ giúp Của Chúa. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)


Đạo đức giả (3.3.2019 – Chúa Nhật Tuần 8 TN, Năm C)
Suy niệm:


Sống ở đời chúng ta liên tục phải đưa ra những phán đoán.
Có những phán đoán về người khác: đúng, sai, tốt, xấu.
Giáo dục một người là giúp người đó có được phán đoán khách quan.
Khi Đức Giêsu dạy các môn đệ đừng xét đoán (Lc 6, 37),
Ngài không bảo họ đừng đưa ra những phán đoán hay nhận định.
Ngài cũng không coi thường những phán quyết của quan tòa.
Đơn giản Ngài chỉ muốn chúng ta tránh một khuynh hướng dễ gặp,
đó là chỉ trích phê phán, bới lông tìm vết, đối với tha nhân.

Các môn đệ sẽ phải là những nhà lãnh đạo dân Chúa.
Họ không thể là những người dẫn đường mù lòa.
Chỉ với cặp mắt sáng, họ mới có thể chu toàn nhiệm vụ,
dẫn dắt những người còn trong bóng tối ra ánh sáng bình minh.
Nếu không, mù dắt mù, cả hai sẽ sa xuống hố (c. 39).
Người lãnh đạo sáng suốt là người biết mình,
biết cái mạnh, cái yếu, cái hay, cái dở của mình.
Họ phải thấy rõ cái xà, hay thậm chí cái rác nơi mắt mình.
Thiếu thái độ tự phê phán nghiêm túc, họ không thể dẫn dắt người khác.

“Hãy biết mình” là câu được khắc ở một đền thờ nổi tiếng bên Hy Lạp.
Như thế biết mình không phải là chuyện dễ.
Chẳng ai gần mình, hiểu rõ mình bằng mình.
Nhưng nhiều khi chẳng ai mù mờ về tôi bằng chính tôi.
Lắm khi tôi chạy trốn chính mình, không đủ can đảm để thấy sự thật.
Nói chung tôi không thích nhìn nhận những bóng tối và bóng mờ nơi tôi.
Thậm chí, cái xà nơi mắt tôi, mà tôi cũng không để ý (c. 41).
Tôi chỉ muốn thấy nơi mình toàn những điều trong sáng, tốt đẹp, giỏi giang.
Càng có địa vị cao, càng thành công nhiều, càng có uy tín,
tôi càng khó chấp nhận, khó thấy những nhược điểm của mình,
Những người dưới quyền cũng không dám góp ý,
nên tôi lại càng dễ nghĩ là mình đã thực sự hoàn hảo.

Chắc chúng ta phải giúp người khác lấy rác ra khỏi mắt,
vì họ khó tự mình lấy được, và thật khó chịu khi có rác trong mắt.
Nhưng phải làm điều đó với rất nhiều yêu thương và khiêm hạ,
bởi lẽ chúng ta biết mình cũng cần anh em giúp lấy rác khỏi mắt mình.
Đơn giản là phải thấy cái rác và cả cái xà trong mắt mình trước,
nhờ người lấy ra dùm, sau đó mới thấy rõ để đi giúp người anh em.
Giúp nhau lấy rác trong mắt nhau, giúp nhau thấy rõ hơn sự thật về mình,
đó là công việc bác ái thường ngày mà chúng ta làm cho nhau.
Như thế Hội Thánh của chúng ta sẽ gồm những người sáng mắt,
nhờ biết xin người khác lấy rác ra khỏi mắt mình, và giúp họ lấy rác của họ.

Cầu nguyện:

Như thánh Phaolô trên đường về Đamát,
xin cho con trở nên mù lòa
vì ánh sáng chói chang của Chúa,
để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.

Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
ánh sáng phá tan bóng tối trong con
và đòi buộc con phải hoán cải.

Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối
chỉ vì chút tự ái cỏn con.

Xin cho con khiêm tốn
để đón nhận những tia sáng nhỏ
mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.

Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý
để Chân lý cho con được tự do.


Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.



Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
3 THÁNG BA
Gặp Gỡ Đấng Thánh
Tại chính trung tâm của phụng vụ Mùa Chay, mầu nhiệm về sự thánh thiện vô cùng của Thiên Chúa được công bố cho chúng ta. Mô-sê đã trở thành một chứng nhân đặc biệt của sự thánh thiện ấy. Mầu nhiệm này phải đồng hành với chúng ta mỗi ngày trong cả Mùa Chay cho đến khi sự thánh thiện và tình yêu của Thiên Chúa được công bố qua Thập Giá và Cuộc Phục Sinh của Đức Kitô.
Tuy nhiên, để cho mầu nhiệm vượt qua phát sinh hoa trái dồi dào trong cõi lòng và lương tâm chúng ta, chúng ta phải kinh nghiệm một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa như cuộc gặp gỡ mà Mô-sê đã trải qua tại chân núi Hô-rép.
Vị Thiên Chúa lên tiếng nói với con người tại chân núi ấy là ai vậy? Mô-sê đã hỏi tên Ngài và ông đã nghe câu trả lời: “Ta là Đấng Hiện Hữu” (Xh 3,14). Theo Thánh Tô-ma A-qui-nô, câu trả lời ấy của Thiên Chúa có thể được diễn dịch thành: “Ta là Đấng mà bản chất của mình là hiện hữu.”
Thiên Chúa nói danh tánh của chính Ngài cho con người. Điều đó cho thấy sự mật thiết của giao ước mà Ngài thiết lập với Abraham và con cháu ông. Thật vậy, Ngài nói với Mô-sê: “Ta là Đấng sẽ giải phóng và cứu vớt dân Ta.”
Thiên Chúa tỏ cho Mô-sê thấy mối quan tâm của Ngài đối với mọi người – và đối với dân Ngài xét như một toàn thể: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập … “ (Xh 3,7-8). Thiên Chúa là Đấng Hiện Hữu, là Đấng Giải Phóng. Ngài là Đấng Sáng Tạo, là Thiên Chúa của giao ước, là Thiên Chúa cứu độ.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 03/3
Chúa Nhật VIII Thường Niên
Hc 27, 4-7; 1Cr 15, 5-58; Lc 6, 39-45.

LỜI SUY NIỆM:  “Hỡi kẻ đạo đức giả! Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em.”
          Trong cuộc sống hằng ngày trong giao tiếp, mỗi người chúng ta thường thấy những tật xấu và lỗi lầm của người khác, mà quên mất những tật xấu và những lỗi lầm thiếu sót của chính mình. Lời Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta hôm nay, chính là để giúp chúng ta tự xây dựng lại đời mình tốt hơn, để hòa nhập vào xã hội mà mình đang sống, đem lại an vui, giúp nhau sống đời hạnh phúc hơn.
          Lạy Chúa Giêsu. Chúa Cha tạo dựng cho chúng con bàn tay có năm ngón Mỗi lần chúng con đưa tay chỉ điều gì đó cho anh em, thì chỉ có một ngón chỉ về phía người ta, còn bốn ngón tay kia lại chỉ về bản thân mình. Xin cho mỗi người trong chúng con luôn biết kiểm điểm đời sống mỗi tối trước khi đi ngủ, xin ơn tha tội, để được bình an.
Mạnh Phương


03 Tháng Ba
Vàng Bạc Trong Tro Bụi
Trong kinh điển Phật giáo, có ghi lại câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Có một người giàu có và tham lam nọ bỗng thấy tiền bạc của cải của mình biến thành tro bụi. Người đó đau buồn đến độ không còn thiết gì đến ăn uống nữa. Hay tin ông đau liệt, một người bạn tìm đến thăm. Sau khi đã tìm ra nguyên nhân của căn bệnh, người bạn đã nói như sau: “Anh đã không biết sử dụng của cải của anh. Chính vì thế mà anh càng thu tích, thì của cải của anh càng trở thành tro bụi. Xin anh hãy nghe lời khuyên sau đây của tôi: anh hãy đưa cả đống tro bụi vào hiệu buôn của anh. Anh ngồi trên đó và rao bán cho mọi người”.
Người giàu có làm theo lời khuyên của người bạn. Ông ngồi trên đống tro và rao hàng. Có người hỏi tại sao ông bán tro, ông trả lời như sau: “Ðây là tất cả tài sản của tôi”.
Một ngày kia, có một em bé gái mồ côi đi qua trước cửa hiệu. Em nghèo nhưng trong lòng không hề vương vấn đối với của cải. Thấy người giàu có ngồi trên đống tro, em bé mới nói: “Thưa ngài, ngài không biết là ngài đang bán vàng và bạc đó sao?”. Ngạc nhiên trước lời nói chân thành của em bé, người đàn ông mới thành khẩn van xin: “Xin cháu hãy chỉ cho chú biết đâu là vàng, đâu là bạc trong đống tro này?”. Ðứa bé đưa tay bốc lên một nắm tro. Tức khắc vàmg hiện lên trên đôi tay em trước sự ngạc nhiên của người giàu có.
Sự vật luôn có hai mặt. Kẻ tham lam nhìn vào chỉ thấy tro bụi và những của cải chóng qua ở đời này, trái lại người có tâm hồn trong sạch sẽ nhìn thấy được những giá trị vĩnh cửu. Kẻ bi quan nhìn vào sự vật sẽ chỉ nhìn thấy bóng tối, nhưng người lạc quan lại nhìn thấy ánh sáng và vẻ cao đẹp của sự vật. “Hãy thử nghĩ đến những sự vật trên trời”: đó là lời khuyên vàng ngọc của Thánh Phaolô. Tưởng nghĩ đến những sự trên trời không có nghĩa là sống trong thế giới của mơ mộng, ảo tưởng mà trái lại là sống tích cực trong thế giới này, sống bằng đôi mắt luôn tỉnh thức để nhìn ra chiều kích vĩnh cửu của cuộc sống, sống bằng tâm hồn trong sạch để nhận ra được những giá trị cao đẹp của cuộc sống. “Ðầu đội trời nhưng chân đạp đất”: đó là thế đứng đích thực của con người. Cắm rễ trong lòng cuộc sống này, nhưng vẫn luôn hướng nhìn về trời cao. Sống một cách trọn hảo trong từng phút giây của cuộc sống. Sống với tất cả trân trọng từng sinh hoạt hằng ngày. Sống với cái thường nhật của tất cả tin yêu, cảm mến… Ðó chính là cách sống của người có niềm tin.
(Lẽ Sống)




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét