01/06/2019
Thứ Bảy đầu tháng, tuần 6 Phục Sinh
Thánh Giúttinô, tử đạo.
Lễ nhớ.
* Thánh nhân là một
triết gia và là anh hùng tử đạo. Người sinh tại Phơ-la-vi-a Nê-a-pô-li, ở
Samari, trong một gia đình ngoại giáo, đầu thế kỷ thứ 2.
Sau khi tin Chúa
Kitô, người đã viết nhiều tác phẩm bênh vực Kitô giáo. Trong số đó, còn lại hai
tác phẩm “Minh giáo” gửi cho hoàng đế Antôniô và “Đối thoại với ông Triphông”,
tranh luận với người Do thái.
Người cũng mở một
trường dạy triết lý ở Rôma. Bị một đồng nghiệp tố cáo, người một lòng son sắt
tuyên xưng đức tin trước mặt quan toà và đã được phúc tử đạo cùng với sáu Kitô
hữu khác, quãng năm 165, thời hoàng đế Máccô Aurêliô
BÀI ĐỌC I: Cv 18, 23-28
“Apollô trưng Thánh Kinh để
minh chứng Đức Giêsu là Đấng Kitô”.
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Sau khi ở lại Antiôkia
ít lâu, Phaolô ra đi, lần lượt ngài đi qua các vùng Galata và Phrygia, làm cho
tất cả môn đồ thêm vững mạnh.
Bấy giờ có một người
Do-thái tên là Apollô, quê ở Alexan-dria, rất lợi khẩu và thông biết Thánh
Kinh, ông đến Êphêxô. Ông đã học thông đạo Chúa; ông nhiệt tâm rao giảng và
siêng năng dạy những điều về Đức Kitô, mặc dầu ông chỉ biết phép rửa của Gioan.
Vì thế ông bắt đầu hành động mạnh dạn trong hội đường. Khi Priscilla và Aquila
nghe ông, liền đón ông (về nhà) và trình bày cặn kẻ hơn cho ông biết đạo Chúa.
Ông muốn sang Akaia, thì các anh em khuyến khích ông và viết thơ cho các môn đồ
xin họ tiếp đón ông. Đến nơi, ông đã giúp các tín hữu rất nhiều, vì ông đã công
khai phi bác những người Do-thái cách hùng hồn; ông trưng Thánh Kinh để minh chứng
Đức Giêsu là Đấng Kitô. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 46, 2-3.
8-9. 10
Đáp: Thiên Chúa là
Vua khắp cõi trần gian (c. 8a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Hết thảy chư dân,
hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa tiếng reo vui! Vì Chúa là Đấng Tối cao, khả
uý, Người là Đại Đế trên khắp trần gian. – Đáp.
2) Vì Thiên Chúa là
Vua khắp cõi trần gian, hãy xướng ca vịnh mừng Người, Thiên Chúa thống trị trên
các nước, Thiên Chúa ngự trên ngai thánh của Người. – Đáp.
3) Vua chúa của chư
dân, đã nhập đoàn với dân riêng Thiên Chúa của Abraham. Vì các vua chúa địa cầu
thuộc quyền Thiên Chúa: Người là Đấng muôn phần cao cả! – Đáp.
ALLELUIA: Ga 28, 19 và
20
Alleluia, alleluia!
– Chúa phán: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi
ngày cho đến tận thế”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 16, 23b-28
“Cha yêu mến các con, bởi vì
các con yêu mến và tin Thầy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: “Thật, Thầy bảo thật các con: điều gì các con sẽ
nhân danh Thầy mà xin Cha, thì Người sẽ ban cho các con. Cho đến bây giờ, các
con chưa nhân danh Thầy mà xin điều gì. Hãy xin thì sẽ được, để các con được niềm
vui trọn vẹn. Tất cả những điều đó, Thầy đã dùng dụ ngôn mà nói với các con. Đã
đến giờ Thầy sẽ không còn dùng dụ ngôn mà nói nữa, Thầy sẽ loan truyền rõ ràng
cho các con về Cha. Ngày đó các con sẽ nhân danh Thầy mà xin, và Thầy không bảo
là chính Thầy sẽ xin Cha cho các con đâu. Chính Cha yêu mến các con, bởi vì
chúng con yêu mến Thầy và tin rằng Thầy bởi Thiên Chúa mà ra. Thầy bởi Cha mà
ra, và đã đến trong thế gian, rồi bây giờ Thầy bỏ thế gian mà về cùng Cha”. Đó
là lời Chúa.
SUY NIỆM : Đứng về phía
Chúa.
Khi cuộc Nam Bắc
phân tranh bùng nổ tại Hoa kỳ vào khoảng măm 1860, một vị giáo sĩ nọ đã đến gặp
Tổng thống Abraham Lincoln và trịnh trọng phát biểu: “Thưa Tổng thống, chúng ta
hãy tin tưởng rằng Thiên Chúa luôn ở phía chúng ta trong cuộc chiến này”. Nghe thế,
Tổng thống Abraham Lincoln vặn lại tức khắc: “Tôi không mấy quan tâm về điều
đó, vì tôi biết rằng Thiên Chúa luôn đứng về phía những người công chính, nhưng
tôi luôn lo lắng và cầu nguyện để tôi và toàn dân Mỹ đứng về phía Chúa.
Lời phát biểu của Tổng
thống Abraham Lincoln nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa và thái độ đích thực trong lời
cầu nguyện của chúng ta. Cầu nguyện thiết yếu là xin cho được đứng về phía
Chúa, chứ không lôi kéo Thiên Chúa đứng về phía mình.
Tin mừng Giáo Hội cho chúng
ta lắng nghe và suy niệm hôm nay là đoạn kết trong diễn từ Tiệc ly. Một trong
những đặc ân nơi cách sống của người môn đệ Chúa Giêsu chính là cầu nguyện nhân
danh Ngài. Chúa Giêsu là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người, cho
nên từ nay chỉ trong Ngài, con người mới có thể cầu nguyện với Thiên Chúa một
cách đúng đắn. Chúa Giêsu là trung gian duy nhất giữa con người và Thiên Chúa
trong sự cầu nguyện, bởi vì Ngài vừa là vừa là con người vừa là Thiên Chúa:
Ngài là người luôn đọc trong từng biến cố đời mình như một thể hiện chương
trình cứu rỗi của Thiên Chúa; Ngài là Thiên Chúa nắm giữ chìa khoá của chương
trình cứu rỗi ấy và biết rằng Thiên Chúa luôn nhận lời Ngài.
Sinh hoạt nền tảng nhất
của người kitô hữu chính là cầu nguyện. Nhưng mãi mãi, có lẽ chúng ta phải thốt
lên như các môn đệ Chúa Giêsu: “Lạy Thày, xin dạy chúng con cầu nguyện” vì
chúng con chưa biết cầu nguyện. Thay cho một lời giải thích về cầu nguyện. Chúa
Giêsu đã dạy các môn đệ Kinh Lạy Cha, đó là tất cả cuộc sống của Ngài, một cuộc
sống luôn diễn ra phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Như vậy, cầu nguyện là đi vào
tri giao mật thiết với Thiên Chúa, hay nói như Abraham Lincoln là đứng về phía
Chúa. Thật ra, thái độ nền tảng của cầu nguyện là ra khỏi chính mình và đi vào
tương quan với người khác. Người không thể ra khỏi chính mình và sống tương
quan với người khác, không thể cầu nguyện một cách đúng đắn theo tinh thần của
Chúa Giêsu. Ai biết tôn trọng người khác và thiết lập với người khác tương quan
đối thoại và lắng nghe, người đó mới có thể có đủ những điều kiện cần thiết để
sống tương quan mật thiết với Chúa Giêsu Phục sinh.
Cầu nguyện là đứng về
phía Chúa. Ước gì trong Chúa Giêsu Phục sinh, Đấng trung gian giữa Thiên Chúa
và con người, đồng thời là mẫu mực của cầu nguyện, cuộc sống của chúng ta luôn
là một thực thi thánh ý Chúa và phục vụ tha nhân. Nguyện xin Chúa Giêsu Phục
sinh đồng hành với chúng ta để hiến cả đời sống chúng ta thành một lời cầu nguyện
đẹp lòng Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần VI PS
Bài đọc: Acts
18:23-28: Jn 16:23-28.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cùng nhau hoạt
động để mang Ơn Cứu Độ cho mọi người.
Con người thường cảm
thấy bất an và ghen tị khi thấy người khác nổi tiếng, uy quyền, giàu sang, và
được mọi người kính trọng hơn mình. Vì thế, họ tìm cách làm sao để giảm danh
giá, uy quyền, và thế lực của người khác bằng nhiều những thủ đoạn khác nhau
như: nói xấu, bôi nhọ, và ngay cả hãm hại người khác. Nhưng đối với các tín hữu
là những môn đệ của Chúa, họ không được phép làm như thế. Trái lại, Thiên Chúa
đòi họ phải cộng tác với nhau, mỗi người một tài năng của Thánh Thần ban, cho
việc xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô và cho việc loan báo Tin Mừng.
Các Bài Đọc hôm nay
cho chúng ta những mẫu gương về tinh thần đoàn kết và cộng tác trong Kế Hoạch Cứu
Độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, khi cộng đoàn Ephesus nhận ra ông Apollo có
những tài năng xuất chúng cho việc rao giảng Tin Mừng, họ không ghen tị với
ông. Trái lại, họ tìm cách bổ khuyết những gì ông còn thiếu, và tạo mọi cơ hội
dễ dàng để ông đem Tin Mừng cho mọi người trong tỉnh Akaia. Trong Phúc Âm, Chúa
Giêsu không giữ các môn đệ lại cho mình; nhưng khuyến khích các ông đến với
Chúa Cha. Ngài xác tín với các môn đệ là Chúa Cha yêu con người, và sẵn sàng
ban mọi điều các ông xin nhân danh Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Các tín hữu cùng cộng tác với nhau trong việc rao giảng và
bảo vệ Tin Mừng.
1.1/ Sự xuất hiện của một
nhà rao giảng mới, ông Apollo: Trải qua lịch
sử của Do-thái cũng như của Giáo Hội, Thiên Chúa không ngừng gởi tới những nhân
tài: khôn ngoan, thánh thiện, can đảm, và nhiệt thành, để loan truyền những sứ
điệp của Ngài; chẳng hạn, Moses, David, Solomon, Isaiah, Gioan Tẩy Giả, Phêrô
và Phaolô. Trong cộng đoàn Ephesus, Thiên Chúa cũng cho xuất hiện một tài năng
mới người Do-thái tên là Apollo, quê ở Alexandria, ông là người có tài hùng biện
và thông thạo Kinh Thánh.
Alexandria bên Ai-cập
và Antioch bên Syria là hai trung tâm nổi tiếng vế triết học và thần học của
Giáo Hội trong những thế kỷ đầu tiên. Hai nơi này đã cống hiến cho Giáo Hội rất
nhiều các thánh Giáo Phụ xuất chúng và nhiệt tâm bảo vệ Đạo Thánh Chúa. Apollo
có những đặc tính của người rao giảng: đã được học Đạo Chúa, có tài hùng biện,
và thông thạo Kinh Thánh. Với tâm hồn nồng nhiệt, ông thường lên tiếng giảng dạy
chính xác những điều liên quan đến Đức Giêsu. Một điều ông còn thiếu: ông chỉ
biết có Phép Rửa của ông Gioan.
1.2/ Rao giảng Tin Mừng
là bổn phận của mọi người: Nhận ra tài năng
và lòng nhiệt thành của Apollo, những người trong cộng đoàn giúp ông bổ khuyết
những gì còn thiếu và tạo cơ hội cho ông đi rao giảng Tin Mừng trong tỉnh
Akaia.
(1) Bà Priscilla và
ông Aquila giúp cho ông Apollo hiểu Đạo của Thiên Chúa: Sau khi nghe ông mạnh dạn
rao giảng trong hội đường, “bà Priscilla và ông Aquila mời ông về nhà để trình
bày Đạo của Thiên Chúa cho ông chính xác hơn.” Có nhiều điều cho chúng ta học hỏi
từ biến cố này:
– Hai ông bà không
ghen tị với Apollo, nhưng giúp ông hiểu biết tường tận hơn.
– Apollo không kiêu ngạo
cho mình biết hết, nhưng sẵn sàng học hỏi từ người đi trước.
– Những người trong bậc
gia đình có thể đóng góp trong việc giáo dục và đào tạo những người rao giảng
Tin Mừng tương lai.
– Nữ giới cũng có vai
trò trong việc rao giảng Tin Mừng mà không cần phải đòi cho được hưởng quyền lợi
như nam giới.
(2) Các anh em trong cộng
đòan giúp Apollo có cơ hội rao giảng Tin Mừng tại Akaia: “Khi biết ông Apollo
muốn sang miền Akaia, các anh em khuyến khích ông và viết thư xin các môn đệ tiếp
đón ông.” Người khuyến khích ơn gọi và người tạo cơ hội đều góp phần trong việc
rao giảng Tin Mừng. Để có người rao giảng, Thiên Chúa cần sự cộng tác của tất cả
mọi người.
Kết quả là cả cộng
đoàn cùng được hưởng: “Khi đến nơi, nhờ ơn Chúa, ông Apollo đã giúp ích nhiều
cho các tín hữu, vì ông mạnh mẽ và công khai bẻ lại người Do-thái, dẫn Kinh
Thánh mà minh chứng rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô.”
2/ Phúc Âm: Chính Chúa Cha yêu mến anh em, vì anh em đã yêu mến Thầy.
2.1/ Chúa Giêsu khuyến
khích các môn đệ đến cùng Chúa Cha: Chúa
Giêsu không hoạt động riêng lẻ, nhưng cùng hoạt động với Chúa Cha để sinh lợi
ích cho con người. Ví dụ, Chúa Cha tạo cơ hội thuận tiện cho con người đến với
Chúa Giêsu để nghe người rao giảng và chữa lành; đối lại, Chúa Giêsu nói cho
con người biết về tình yêu Thiên Chúa. Trong trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu chỉ
đường cho các môn đệ đến với Chúa Cha: “Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em mà
xin Chúa Cha điều gì, thì Người sẽ ban cho anh em nhân danh Thầy. Cho đến nay,
anh em đã chẳng xin gì nhân danh Thầy. Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của
anh em nên trọn vẹn.”
Khi không ích kỷ giữ lại
cho mình, nhưng luôn rộng lượng cho đi, hậu quả là cả ba đều được hưởng: Chúa
Cha yêu Chúa Giêsu, Chúa Giêsu yêu con người, và con người yêu cả Chúa Cha và
Chúa Giêsu.
2.2/ Yêu thương Chúa Cha
là yêu thương Chúa Giêsu: Từ chương 1 cho đến
hết chương 12 của Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu đã dùng nhiều dụ ngôn giảng dạy
cho các môn đệ và dân chúng; nhưng từ chương 13 trở đi, Ngài dành riêng để mặc
khải và dạy dỗ các môn đệ. Đó là lý do Chúa Giêsu nói: “Sẽ đến giờ Thầy không
còn dùng dụ ngôn mà nói với anh em nữa, nhưng Thầy sẽ nói rõ cho anh em về Chúa
Cha, không còn úp mở.”
Các môn đệ của Chúa có
thể đến trực tiếp với Chúa Cha: “Ngày ấy, anh em sẽ nhân danh Thầy mà xin, và
Thầy không nói với anh em là Thầy sẽ cầu xin Chúa Cha cho anh em. Thật vậy,
chính Chúa Cha yêu mến anh em, vì anh em đã yêu mến Thầy, và tin rằng Thầy từ
Thiên Chúa mà đến. Thầy từ Chúa Cha mà đến và Thầy đã đến thế gian. Thầy lại bỏ
thế gian mà đến cùng Chúa Cha.” Nếu Cha yêu Con, Cha cũng yêu tất cả những ai
thuộc về Con (Jn 10:29). Nếu Con yêu Cha, Con sẽ gìn giữ và bảo vệ tất cả những
ai Cha đã ban cho Con (Jn 6:37, 39-40).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Rao giảng Tin Mừng
cho mọi người để họ tin yêu Thiên Chúa là bổn phận của mọi người. Vì thế, người
góp công, người góp của, chúng ta phải cộng tác với nhau, và làm hết sức cho Nước
Chúa ngày càng mở rộng.
– Chức vụ, danh giá,
uy quyền, luôn len lỏi khắp nơi trong Giáo Hội, dòng tu, và giáo xứ. Những điều
này không những đã làm trì trệ trong việc loan báo Tin Mừng, mà còn làm gương xấu
và làm mất đức tin cho người khác, ngay cả cho chính đương sự.
– Chúng ta đã lãnh nhận
Tin Mừng cách nhưng không, thì cũng phải cho đi cách nhưng không. Thiên Chúa
không cho phép chúng ta lạm dụng Tin Mừng để mưu cầu danh giá, uy quyền, và lợi
lộc cho cá nhân mình.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
01/06/2019 – THỨ BẢY ĐẦU THÁNG TUẦN 6 PS
Th. Giút-ti-nô, tử đạo
Ga 16,23b-28
NHỜ ĐỨC KI-TÔ CHÚA CHÚNG CON
“Chính Chúa Cha yêu
mến anh em, vì anh em đã yêu mến Thầy, và tin rằng Thầy từ Thiên Chúa mà đến.”
(Ga 16,27)
Suy niệm: Khi nói Đức Ki-tô là “Đấng
Trung Gian duy nhất,” nhiều người ví Ngài như một con đò, một cây cầu cần thiết
để vượt sông và có thể đặt chân lên bến hạnh phúc ở bờ bên kia. Mà vì chẳng có
một chuyến đò nào và cũng chẳng có một cây cầu nào khác ngoài Ngài: “Không ai
đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13) nên “qua sông
phải luỵ đò,” muốn lên trời, chỉ còn cách qua Ngài mà lên thôi! Lời Chúa hôm
nay cho thấy Chúa Kitô không phải là trung gian theo kiểu “đứng giữa” để con
người phải qua Ngài mới đến được với Chúa Cha. Chúa Giê-su cho biết Ngài còn là
trung gian để Chúa Cha đến với con người nữa: “Chúa Cha yêu mến anh em vì anh
em yêu mến Thầy”; nói cách khác Chúa Cha yêu thương chúng ta vì thấy chúng ta
trong Chúa Ki-tô, và đối lại, chúng ta cũng chỉ đến được với Chúa Cha trong
Ngài: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9).
Mời Bạn: Kết thúc kinh nguyện tạ ơn
chủ tế xướng: “Chính nhờ Người, với Người và trong Người…”, sau các lời nguyện,
chúng ta cũng nghe: “Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô…”, điều đó nói lên niềm
tin của chúng ta vào Đức Ki-tô là Đấng trung gian duy nhất; trong Ngài chúng ta
được nên giống Chúa và được Chúa yêu thương và cũng trong Ngài chúng ta mến
Chúa và yêu mọi người.
Sống Lời Chúa: Bạn nhớ đừng coi Ngài như
một thứ “phương tiện di chuyển,” cần cầu xin gì thì chạy tới Chúa, được ơn rồi
thì “qua cầu rút ván”. Trái lại mời bạn hãy đến và ở lại trong Chúa Ki-tô, cách
cụ thể qua việc rước Thánh Thể và suy niệm Lời Ngài.
Cầu nguyện: Đọc kinh Lạy
Cha.
(5 Phút Lời Chúa)
Chúa Cha yêu mến anh em (1.6.2019
– Thứ Bảy Tuần 6 Phục Sinh)
Suy niệm:
Allah là tên của Thiên Chúa trong Hồi giáo.
Ngài được tôn kính bằng 99 danh hiệu khác nhau:
Đấng Tối cao, Đấng Nhân hậu, Đấng Toàn năng, Đấng Vĩnh cửu…
Danh hiệu thứ 100 sẽ được mặc khải ở đời sau.
Nhưng Allah không bao giờ được gọi là Cha,
vì Ngài không sinh con.
Kitô giáo yêu mến Đức Giêsu và tin Ngài là Con Thiên Chúa.
Thiên Chúa chính là Cha của Đức Giêsu.
Đức Giêsu vẫn gọi Thiên Chúa bằng tiếng Abba thân thương.
Cuộc đời Đức Giêsu nơi trần gian giống như một cuộc ra đi và trở về.
Ngài từ Thiên Chúa Cha mà đến thế gian (cc. 27-28),
rồi Ngài lại bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha, sau khi hoàn thành sứ vụ.
Sứ vụ của Ngài là vén mở cho môn đệ về Chúa Cha (c. 25),
và đưa họ đi vào chỗ thân tình gần gũi với Người Cha ấy.
Chúa Cha ở trong thế giới thần linh,
nhưng thế giới ấy lại có những cửa sổ mở ra với thế giới con người.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thầy Giêsu kêu mời các môn đệ
hãy mạnh dạn đến với Cha và nài xin.
Đây là điều trước đây họ chưa từng làm (c. 24a).
Đã đến lúc mạnh dạn đưa ra những thỉnh nguyện nhân danh Thầy Giêsu.
Nhân danh Thầy Giêsu mà xin cùng Chúa Cha
là điều vẫn nằm ở phần cuối của mỗi lời nguyện trong Giáo Hội.
Khi cầu xin nhân danh Thầy Giêsu, chúng ta hiệp nhất với Thầy,
nên lời xin của chúng ta dễ được Chúa Cha đoái nhận.
Chúa Cha sẽ ban cho chúng ta mọi sự nhân danh Đức Giêsu (c. 23).
Hơn thế nữa, chính Chúa Cha cũng yêu mến chúng ta (c. 27),
và muốn cho chúng ta ơn lớn nhất
là đi vào tương quan với Ba Ngôi ngay từ khi còn sống ở trần gian.
“Cứ xin đi, anh em sẽ được,
để niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (c. 24).
Khi sắp được về hưởng niềm vui bên Chúa Cha (Ga 14, 28),
thấy các môn đệ buồn phiền, Thầy Giêsu đã nói nhiều về niềm vui.
Thầy muốn chia sẻ cho họ niềm vui của mình,
Ba lần Ngài nói đến niềm vui trọn vẹn hứa ban cho họ (Ga 15,11; 16,24;
17,13).
Ngài còn hứa cho họ niềm vui mà không ai sẽ lấy được (Ga 16, 22).
Chuẩn bị mừng lễ Chúa Thăng Thiên, chúng ta xin được niềm vui đó,
niềm vui của những người đã chạm đến trời cao.
Cầu nguyện:
ấy. Amen. Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của con.
Con tin Cha là Tình yêu,
và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.
Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,
cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,
cả những khi
Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.
Con tin
Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.
Con tin rằng
nơi lòng những người cứng cỏi nhất
cũng có một đốm lửa của sự thiện,
được vùi sâu dưới những lớp tro.
Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.
Con tin rằng
chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,
thế giới vẫn tồn tại
nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng
chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.
Con tin rằng
dòng lịch sử của loài người và vũ trụ
đang chuyển mình tiến về với Cha,
qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu
và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.
Con tin rằng
dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,
vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,
mọi dị biệt, thành kiến,
để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin của con.
Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
1 THÁNG SÁU
Hơi Thở Sự Sống
Bản văn Thánh Kinh
trong Sách Sáng Thế cho phép chúng ta hiểu rõ rằng con người – được tạo thành
như thế – khác hẳn với toàn thể thế giới hữu hình, nhất là khác hẳn với thế giới
động vật. Chính “hơi thở sự sống” đã làm cho con người có thể biết các động vật,
có thể đặt tên cho chúng – và có thể nhận ra mình khác với chúng (St 2, 18 –
20).
Mặc dù trình thuật
Gia-vít về cuộc tạo dựng con người không nói đến “linh hồn”, ta vẫn dễ dàng nhận
ra từ trình thuật này rằng sự sống con người là một sự sống siêu việt trên sự sống
thuần túy chất thể của động vật, rằng sự sống vượt quá vật chất để vươn tới chiều
kích tinh thần. Đây chính là nền tảng cốt yếu của “hình ảnh Thiên Chúa” mà bản
văn Sáng Thế 1, 27 nói về.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 01/6
Thánh Justinô, tử đạo
Cv 18, 23-28; Ga
16, 23-28.
LỜI SUY NIỆM: “Thầy từ Chúa
Cha mà đến và Thầy đã đến thế gian. Thầy lại bỏ thế gian mà dến cùng Chúa Cha.
Trước đây, trong lúc giảng dạy đám đông dân chúng, Chúa Giêsu thường đưa ra những
dụ ngon để mạc khải về Người, về Chúa Cha, về tình yêu thương của Ngài, và về
Nước Trời. Nhưng hôm nay thì Chúa nói rõ, không còn nói úp mở nữa; để giúp cho
các Tông Đồ và cả chúng ta ngày hôm nay hiểu:.Người chính là Đấng Thiên Sai, được
chính Thiên Chúa sai đến thế gian, và Người đã đến, và rồi sẽ rời bỏ thế gian
mà về cùng Chúa Cha.
Lạy Chúa Giêsu. “Nhân loại với sức tự nhiên của mình, không thể vào được “Nhà
Cha”, không thể đạt tới sự sống và sự vinh phúc của Thiên Chúa.” (GL số 661).
Xin cho chúng con đặt hết niềm tin và lòng trông cậy vào Chúa, vào ơn Cứu Độ của
Chúa; chỉ có Chúa mới có thể mở lối cho chúng con tiến vào.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
01-06: Thánh GIUSTINÔ
Tử Đạo (+165)
Thánh Giustinô tử đạo
sinh tại Nablus, Samaria ở vào đầu thế kỷ thứ II. Sinh trưởng trong một gia
đình ngoại giáo, nhưng Ngài luôn nuôi dưỡng nhiệt tình tìm kiếm Thiên Chúa chân
thật. Với nhiệt tình này, Ngài đã tiếp xúc với mọi triết thuyết đương thời và
không thoả mãn được các đòi hỏi của trí khôn.
Trong tác phẩm “Đối
thoại với Tryphon” (Dialogus cum Tryphone), chính thánh Giustinô kể lại cuộc
tìm kiếm của mình: – Trước hết, Ngài tin tưởng vào một người theo phái khắc kỷ.
Những người này chẳng dạy gì về Thiên Chúa. Ông ta nói rằng sư hiểu biết ấy không
cần thiết gì. Sau đó, Ngài đến với một người theo thuyết của Aristote. Ông này
đòi thù lao quá cao, khiến sinh viên trẻ là Giustinô phẫn uất: người ta không
rao bán triết học.
Một người theo lý thuyết
của Pythagore hỏi Ngài: – Anh đã học âm nhạc, thiên văn và địa lý chưa ? Bởi vì
để chiêm ngưỡng điều góp phần tạo nên hạnh phúc cần phải biết học giải thoát
tâm hồn khỏi các đối tượng hữu hình để có thể tiếp nhận được những đối tượng
trong trí khôn và cho phép thấy được sự thiện mỹ nội tại.
Giustinô chưa biết gì
về những môn học, nhưng lại thấy mình bị thúc bách tìm kiếm Thiên Chúa hơn.
Ngài gặp một người theo phái Platon Ngài nói: – Sau nhiều đàm luận, tôi hiểu được
những điều vô hình ở mức độ cao hơn. Việc chiêm ngưỡng thế giới tư tưởng chấp
cánh cho tinh thần của tôi.
Dầu vậy, không có gì
làm cho Ngài thỏa mãn được cơn khát chân lý. Tại Ephesô, Giustinô gặp một cụ
già đầy khôn ngoan. Ông trách Ngài đã thích lý sự về từ ngữ hơn sự kiện. Ông đã
cho Ngài một lời khuyên cao cả là hãy tìm đọc kinh thánh: phải vượt qua những
giới hạn của trí khôn, phải đi xa trong thời gian hơn các triết gia, phải nghe
các tiên tri là những người nói bởi Chúa Thánh Thần, nhất là phải cầu nguyện
vì: – Không ai có thể thấy hay nghe được những điều này nếu Thiên Chúa và đức
Kitô không cho họ hiểu biết.
Theo lời khuyên này,
Giustinô đã khám phá ra Kitô giáo bảo đảm hơn triết học nhiều. Từ đấy đức tin
là qui luật xử thế và sự thánh thiện lý tưỏng của Ngài, Ngài mở một trường học
tại Rôma và sống đời tông đồ đích danh. – Tôi sẽ nói sự thật, không một đắn đo
sợ sệt, cả vào lúc bị phân thay thành trăm mảnh.
Gương mẫu của các
thánh tử đạo đánh động ngài rất nhiều: – Thấy họ kiên vững trước cái chết, tôi
thầm nói rằng: họ không thể sống trong sự dữ và ham mê các khoái lạc được nữa.
Ngài sẽ tìm được ở đâu
sự thăng hoa cuộc sống lớn lao hơn là trong Kitô giáo ? Bởi vậy Ngài đã tìm mở
rộng môi trường hoạt động ra ngoài ranh giới lớp học và những cuộc tranh luận,
bằng việc viết nhiều tác phẩm để phổ biến tư tưởng tôn giáo. Ngày nay chúng ta
chỉ còn giữ lại được hai cuốn: Đối Thoại Với Tryphone, và Hộ Giáo. Nhưng với
hai tác phẩm ấy, thánh Giustinô cũng tỏ ra là một nhà minh giáo có thế giá được
thế kỷ thứ II và là người đã phác họa ra nền thần học Kitô giáo.
Từ một đức tin vững chắc
vào các chân lý Kitô giáo. Thánh Giustinô đã không ngần ngại tìm hết khả năng
trổi vượt của trí khôn để hai lần viết thơ can ngăn các bạo vương. Lần thứ nhất
vào năm 138. Ngài viết cho Antonin Le Pieux và lần thứ hai cho Marcô Aurelio. Cả
hai lần Ngài cố gắng chỉ dẫn đến kết quả là bị kết án tử hình.
Giustinô và các bạn bị
dẫn tới trước mặt tổng trấn Rusticus, một người theo triết thuyết Khắc Kỷ. Ngài
lớn tiếng tuyên xưng đức tin. – Không ai có lương tri mà lại bỏ rơi chân lý để
theo sự lầm lạc cả.
Thánh nhân từ chối không
chịu tố giác nơi các kitô hữu hội họp. Sau cùng Ngài và các bạn bi đánh đòn rồi
bị chém đầu. Tài liệu còn ghi lai nhiều chân lý mà thánh nhân đã phát biểu
trong cuộc đối thoại với Rustisus, chẳng hạn: – Mọi nguyên tắc chính đáng mà
các triết gia và các nhà lập luật khám phá được và trình bày cũng phải nhớ ở điều
mà Ngôi lời đã diễn tả một phần.
Ngài còn nói: – Không
ai tin Socrate đến độ chết vì điều ông ta dạy. Chính vì những lý do khác hẳn với
lãnh vực văn chương mà bao nhiêu giáo phụ đã lấy máu mình để ký nhận các công
trình của các Ngài, chính tình yêu Thiên Chúa nhập lòng các Ngài.
(daminhvn.net)
01 Tháng Sáu
Con Người Khờ Khạo
Một cuốn phim Pháp
với tựa đề “Gigot”, đã kể lại cuộc đời cao thượng nhưng vô cùng đáng thương của
một người câm tên là Gigot. Ðúng như cái tên có thể gợi lên, Gigot là một người
khờ khạo nhưng có một tâm hồn cao quí. Ngày ngày anh quét đường, kiếm từng đồng
xu nhỏ để mua những mẩu bánh mì vụn sống qua ngày. Nơi trú ngụ của anh là một cầu
thang bẩn thỉu nằm bên dưới một ngôi nhà. Những người bạn duy nhất của anh là
các chú chó và một con mèo hoang. Hằng ngày, từ tiệm bánh mì đi ra, anh đều
mang theo thức ăn cho chúng. Anh đi đâu, chúng quấn quít bên người đến đó… Những
con thú thương anh như một người bạn, nhưng những người đồng bào của anh chỉ
nhìn anh như trò đùa. Mỗi khi cần có một trận cười, người ta gọi Gigot đến cho
anh uống rượu để anh có thể nhảy múa trong cơn say và làm trò hề cho họ.
Một đêm nọ, sau khi
say túy lúy và làm đủ trò hề cho thiên hạ cười, Gigot đi ngã ngiêng về nhà giữa
cơn mưa. Anh bắt gặp một người đàn bà và một đứa con gái nhỏ đang nằm co ro
trong góc hè phố, mình mẩy ướt như chuột lột. Anh dìu hai mẹ con người đàn bà về
nhà mình và dọn chỗ cho họ qua đêm. Trong những ngày kế tiếp, anh tìm đủ mọi
cách để làm cho người đàn bà được hạnh phúc và cô bé được vui cười. Anh đưa cô
bé đến nhà thờ và dùng thứ ngôn ngữ câm của mình để nói với nó về Chúa Giêsu… Một
hôm, người mẹ muốn đi nơi khác vì không chịu nổi cảnh thiếu thốn trong căn nhà
của anh. Người câm không biết làm gì hơn là đành phải đến hiệu bánh mì quen để
đánh cắp một số tiền. Với số tiền ấy, anh có thể sắm sửa tươm tất cho hai mẹ
con người đàn bà…
Thế nhưng, một hôm,
khi thức giấc, anh không còn thấy người đàn bà trong căn gác của mình nữa. Anh
đưa cô bé vào sâu trong cầu thang và làm trò đùa cho nó cười. Vô tình, căn gác
đổ nát sụp xuống trên anh và đứa bé. Anh vừa mang đứa bé đến nhà thờ để xin cha
sở chạy chữa, thì người ta cũng phát giác ra sự mất tích của nó… Người ta tri
hô lên anh là thủ phạm bắt cóc đứa bé. Cuộc săn đuổi đã làm anh trượt té xuống
một dòng sông… Một chiếc phà chạy qua. Chiếc mũ của anh trồi lên. Mọi người tưởng
rằng anh đã chết chìm giữa dòng sông… Sự cảm thông và thương tiếc bỗng bừng dậy,
người ta lấy chiếc mũ của anh, đặt lên một chiếc quan tài và cử hành nghi lễ tống
táng. Người người sụt sùi khóc. Bao nhiêu bài điếu văn được đọc lên để ôn lại tấm
lòng cao thượng của người quá cố… Nhưng từ một chòm cây trong nghĩa địa, Gigot
lắng nghe tất cả, anh bật thành tiếng khóc, khóc vì sự cảm thông quá muộn màng
của người đồng loại, mà có lẽ cũng khóc khi nghĩ đến thân phận của anh.
Hôm nay chúng ta bước
vào tháng dành riêng để tôn kính Trái Tim Chúa Giêsu…. Có riêng một tháng để nhắc
nhớ cho con người về Tình Yêu của Thiên Chúa, bởi lẽ con người không hiểu mà
cũng dễ quên tình yêu của Thiên Chúa…
Thiên Chúa cũng giống
như một người tình câm. Ngài làm mọi sự và tìm đủ mọi cách để cho con người hiểu
được Tình Yêu của Ngài. Không còn ngôn ngữ nào nữa, Thiên Chúa đành phải dùng
chính cái chết, bởi lẽ không có tình yêu nào trọng đại cho bằng mối tình của
người chết vì người mình yêu…
“Chúng sẽ nhìn xem Ðấng
chúng sẽ đâm thâu qua”. Qua cái chết của Ðức Kitô trên thập giá, con người mới
có thể thấy được tình yêu của Thiên Chúa đối với mình. Cái chết là ngôn ngữ cuối
cùng của Tình Yêu. Mối tình câm lặng nhất đã được bày tỏ…
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét