21/07/2019
Chúa Nhật 16 Thường Niên năm C
(phần I)
Bài Ðọc I: St 18, 1-10a
"Ðối với Thiên Chúa có gì khó đâu. Ta trở lại thăm ông và Sara được
một đứa con trai".
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, Chúa hiện ra cùng Abraham dưới chòm cây ở Mambrê, đang
lúc ông ngồi ở cửa lều giữa trưa nóng bức. Ông ngước mắt lên thấy ba người nam
xuất hiện, đứng gần ông: Vừa trông thấy, từ cửa lều, ông chạy ra đón các vị ấy,
rồi sấp mình lạy và thưa rằng: "Lạy Chúa, nếu con được đẹp lòng Chúa, xin
đừng bỏ đi qua, con xin lấy ít nước để các Ðấng rửa chân, và nghỉ mát. Con xin
đem ít bánh mời các Ðấng dùng để lấy sức lại rồi sẽ đi: chính vì thế mà các Ðấng
đã ghé vào nhà con". Các Ðấng ấy nói: "Như ông đã ngỏ, xin cứ
làm".
Abraham liền vào lều, và bảo Sara rằng: "Hãy mau mau trộn ba đấu bột
làm bánh nướng". Còn ông, ông chạy đến đoàn bò bắt một con bê non hảo hạng,
trao cho đầy tớ đem đi nấu. Ông lấy bơ sữa và thịt bê đã chín, dọn ra trước mặt
các Ðấng. Chính ông đứng hầu các Ðấng dưới bóng cây.
Ăn xong, các Ðấng hỏi Abraham rằng: "Sara bạn ông đâu?" Ông trả
lời: "Kìa, bạn con ở trong lều". Một Ðấng nói tiếp: "Ðộ này sang
năm, khi Ta trở lại thăm ông, thì cả hai vẫn còn mạnh khoẻ, và Sara bạn ông sẽ
được một con trai".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 14, 2-3ab.
3cd-4ab. 5
Ðáp: Lạy Chúa, ai được cư ngụ
trên núi thánh của Chúa? (c. 1a)
Xướng: 1) Người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy
nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống. - Ðáp.
2) Người không làm ác hại bạn đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận.
Người coi rẻ đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa. - Ðáp.
3) Người không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người
hiền lương. Người thực thi những điều kể đó, thì muôn đời chẳng có lung lay. -
Ðáp.
Bài Ðọc II: Cl 1, 24-28
"Mầu nhiệm ẩn giấu từ muôn thuở, nhưng nay đã được tỏ bày cho các
thánh".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, hiện nay tôi vui sướng trong những đau khổ tôi phải chịu
vì anh em. Tôi bổ khuyết nơi thân xác tôi những gì còn thiếu sót trong cuộc
thương khó của Ðức Kitô, để Hội thánh là thân xác của Người được nhờ. Tôi đã được
trở thành người phục vụ Hội thánh theo sự an bài của Thiên Chúa, Ðấng đã trao
phó cho tôi rao giảng đầy đủ lời Chúa, đó là mầu nhiệm ẩn giấu từ muôn thuở qua
muôn thế hệ, nhưng nay đã được tỏ bày cho các thánh của Người. Thiên Chúa muốn
tỏ bày cho họ biết thế nào là sự phong phú vinh quang của mầu nhiệm nơi dân ngoại,
tức là Ðức Kitô trong anh em, Người là niềm hy vọng vinh quang. Tôi loan báo
Người, cảnh tỉnh mọi người, đem tất cả khôn ngoan mà dạy dỗ mọi người, để làm
cho mọi người nên hoàn hảo trong Ðức Giêsu Kitô.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 4, 4b
Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi
lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 10, 38-42
"Martha rước Người vào nhà
mình. Maria đã chọn phần tốt nhất".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào một làng kia và có một phụ nữ tên là Martha rước
Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe
lời Người. Martha bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng:
"Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin
Thầy bảo em con giúp con với". Nhưng Chúa đáp: "Martha, Martha, con
lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần
tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Phục vụ Lời
Chúa
Chúng ta chưa quên bài Tin Mừng Chúa nhật trước về người Samaria nhân ái.
Chúa dạy chúng ta phải thi hành bác ái yêu thương để sống đạo. Tuy nhiên phụng
vụ cũng đã đề phòng, không muốn cho ai ngộ nhận đạo chỉ là từ thiện.
Bài Tin Mừng hôm nay muốn củng cố quan niệm này. Chúng ta thấy Ðức Giêsu
có vẻ khen Maria hơn Matta. Nhưng để hiểu rõ ý Chúa, chúng ta hãy nhờ tất cả
các bài Kinh Thánh của phụng vụ hôm nay.
Câu chuyện Abraham tiếp khách trong bài đọc I và tâm tư của Phaolô trong
bài đọc II sẽ giúp chúng ta không quá khích khi suy diễn Lời Chúa.
1. Phục Vụ Là Ðiều
Ðáng Khen
Thật vậy, ai không thấy Abraham là người đặc biệt trong câu chuyện hôm
nay. Ở thời bấy giờ dễ gì tìm được một người nào quảng đại và hồn nhiên đến như
thế? Chúng ta phải nhớ lại những thời buổi xa xưa ở những dân tộc rất hiếu
khách để hiểu câu chuyện này.
Abraham hôm ấy đang ngồi nghỉ trưa ở cửa lều, dưới bóng một cây sồi to.
Chắc chắn sức nóng của mặt trời đúng ngọ ở nơi sa mạc tắt gió đang làm cho thân
thể ông uể oải và buồn ngủ. Nhưng kìa ở đàng xa có bóng ba người tiến đến. Ba lữ
khách đi vào giờ này giữa bãi cát mênh mông và nóng bỏng phải là những người đặc
biệt gì đây.
Người ta ở thời Abraham và riêng trong vùng Cận Ðông, hay chuyền tai nhau
những câu chuyện lạ lùng: thần thánh hay lấy hình khách lạ đến viếng thăm vào
những lúc bất ngờ để thử thách lòng người. Abraham có lẽ cũng chia sẻ niềm tin ấy.
Bóng dáng ba người khách đang tiến về phía lều của ông vào giờ trưa nóng bức,
oi ả và mệt mỏi lúc này, có thể là một chuyện bất ngờ.
Ông liền bỏ lều chạy ra về phía khác. Ông sấp mình chào hỏi. Ông tự đặt
mình như tôi tớ của những nhân vật kỳ lạ. Và có lẽ ông nghĩ nhân vật đi giữa hẳn
có ưu vị, nên tuy đứng trước ba vị ông vẫn thưa như chỉ muốn thỉnh ý người quan
trọng hơn: "Thưa Ngài, nếu tôi được nghĩa trước mặt Ngài, thì xin Ngài đừng
xa rời tôi tớ của Ngài". Rồi không kịp để cho khách trả lời và muốn cho
khách thấy lòng thành của mình mà không thể từ chối được, Abraham nói một hơi,
xin đem nước cho các Ngài rửa chân và đem của ăn đến cho các Ngài lót lòng, trước
khi các Ngài tiếp tục cuộc hành trình.
Dĩ nhiên là khách chấp nhận. Và chúng ta lại thấy Abraham, thành khẩn hơn
nữa. Ông bảo bà Sara nhào bột làm bánh. Ông chạy ra chuồng, chính tay lựa con
bê non béo tốt, trao cho đầy tớ làm thịt. Và ông chạy đi lấy sữa và nhũ men.
Ông mời khách ngồi và khúm núm đứng hầu chuyện cũng như hầu bàn. Ông không chờ
đợi gì cả; cũng không nghĩ gì đến mình. Ông chỉ biết có khách và chỉ biết thành
khẩn phục vụ, vừa quảng đại vừa hồn nhiên.
Thái độ của Abraham khác hẳn cách cư xử của dân thành Sôđôma kể ở chương
sau cũng của sách Khởi nguyên này. Thấy hai người khách lạ vào nhà ông Lot, họ
đợi đến chiều tối; rồi kéo nhau đến đòi chủ nhà phải đem khách ra cho họ bạo hành.
Thế nên khi đặt hai câu chuyện này gần nhau, rõ ràng tác giả sách Khởi
nguyên muốn đề cao tư cách của Abraham và muốn chúng ta bắt chước. Chúng ta phải
hiếu khách và phục vụ quảng đại. Cựu Ước và Tân Ước không ngừng khuyên nhủ như
vậy, không ai được lấy lẽ đạo đức nào để dèm pha việc phục vụ. Sống đạo mạc khải
thì phải thi hành bác ái yêu thương.
Ở đây để làm chứng phục vụ là điều đáng khen, rất đẹp lòng Thiên Chúa,
tác giả sách Khởi nguyên đã kết thúc câu chuyện trên bằng một lời hứa hẹn phấn
khởi. Dùng bữa xong quí khách đã cho gia đnìh Abraham biết: vào mùa tới các
ngài sẽ trở lại và khi ấy Sara đã có con trai rồi.
Chúng ta khó tưởng tượng lòng Abraham và Sara khi nghe báo tin như vậy...
Ðó là điều hai người từng mơ ước chờ đợi. Nhất là chúng ta đừng quên gắn liền lời
tiên báo này vào việc Abraham đãi khách ở trên. Há tác giả sách Khởi nguyên
không muốn đặt việc tiếp khách và phục vụ vào trong viễn tượng của lời giao ước
hay sao? Rõ ràng ông muốn nói rằng đạo chúng tôi đòi hỏi hết thảy có tinh thần
phục vụ, phục vụ rất quảng đại và không tính toán, phục vụ khiêm tốn và hồn
nhiên. Abraham trong câu chuyện này đã được nhiều danh họa vẽ lại vì người ta
muốn tấm gương mà ông treo lên hôm nay phải được người ở mọi thời nhìn ngắm.
Người ta phải khen chứ không thể chê những hành vi phục vụ.
Thế mà sao thánh Luca trong bài Tin Mừng hôm nay lại có vẻ nghĩ thế khác,
Matta phục vụ dường như bị chê; và Chúa thích Maria hơn. Chúng ta cần phải suy
nghĩ cẩn thận về câu chuyện này.
2. Nhưng Phục Vụ Phải
Theo Trật Tự
Matta và Maria là hai chị em tính tình rõ ràng khác nhau. Họ có một người
em tên là Lazarô mà Ðức Giêsu sẽ làm cho sống lại, ra khỏi huyệt. Có lẽ đó là một
trong những gia đình được Ðức Giêsu đi lại nhiều. Và hôm nay cũng như mọi lần.
Matta muốn tỏ ra không những hiếu khách mà còn quý thầy. "Bà bận rồn với
những công việc phục dịch bộn bàng". Tác giả Luca đã dùng những lời như vậy
để diễn tả con người của bà lúc ấy. Và nếu chúng ta quan sát bà trong câu chuyện
Ðức Giêsu làm cho em trai bà là Lazarô sống lại, chúng ta cũng vẫn thấy bà hoạt
động, đảm đang và để mắt đến hết mọi công việc. Cũng vì vậy mà tuy bận rộn với
bao việc làm ở dưới bếp, mắt bà vẫn còn nhìn thấy thái độ của cô em là Maria.
Cô này cứ ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Người và chẳng màng chi đến việc phục
dịch giúp đỡ chị một tay.
Phân tích tâm lý của Matta và dựa vào câu bà phàn nàn với Chúa: "Em
tôi để tôi một mình phục vụ", có tác giả ngày nay cho rằng việc phục vụ của
bà chưa quảng đại đủ vì chưa quên mình đủ. Khác với Abraham. Vị tổ phụ ngày xưa
chỉ biết phục vụ, chỉ nhìn đến khách và không mảy may nghĩ đến mình. Matta thì
không. Bà phục vụ nhưng nhìn thấy mình đang phục vụ... Bà chưa dồn hết mắt, hết
lòng, hết linh hồn cho Chúa và cho việc tiếp rước. Bà còn thấy mình ở giữa những
sự đó và còn muốn so sánh tìm cho được chỗ xứng đáng của mình. Cũng có thể bà sợ
Chúa không để ý đến bà và không biết được các nỗi vất vả của bà.
Nhưng Matta lầm. Ðức Giêsu biết rõ mọi việc. Người không phán đoán bà một
cách ngặt như các nhà phân tích tâm lý chúng ta vừa nói đâu. Người luôn dùng mọi
hoàn cảnh để đưa người ta vào Nước Trời. Thế nên, nghe Matta phàn nàn về cô em,
Ðức Giêsu âu yếm gọi "Matta, Matta". Rồi Người hé cho bà thấy mầu nhiệm
Nước Thiên Chúa: "Con lo lắng xôn xao về nhiều chuyện. Chỉ có một điều cần
mà thôi. Maria đã chọn phần tốt rồi; và sẽ không bị lấy mất".
Câu Chúa trả lời có thể đau cho Matta, nếu chúng ta nghĩ đây là lần duy
nhất Người nói những lời tương tự. Nhưng ngược lại, nếu đọc lại các sách Tin Mừng
và nhất là tác phẩm của Luca chúng ta sẽ thấy ở đây Ðức Giêsu chỉ áp dụng một
giáo huấn mà Người không ngớt dạy dỗ. Ðã nhiều lần Người căn dặn môn đệ: đừng
lo lắng quá mức về của ăn áo mặc, đừng lo mang tiền mang bị khi đi đường, đừng
xao xuyến sẽ phải ăn nói thế nào... vì chỉ có một điều cần mà thôi là hãy tìm
Nước Thiên Chúa trước đã.
Như vậy, nếu chúng ta hiểu rằng lúc ấy Ðức Giêsu đang ngồi trong nhà chị
em Matta và Maria; và Người lợi dụng lúc chờ đợi dọn bữa mà có người muốn nghe
lời; và Người đang dạy dỗ môn đệ và người ta; mà Matta sấn lại thưa như trên,
muốn kéo cô em ra khỏi thái độ làm môn đệ là ngồi dưới chân để nghe Lời Chúa,
thì dứt khoát Chúa phải trả lời lại cho Matta như vậy. Bà phải chen việc phục vụ
bàn ăn vào việc phục vụ Lời Chúa, làm rối loạn công việc này, thì cũng như
Phêrô sẽ nói sau này trong sách Công vụ các Tông đồ: "Không phải là điều đẹp
lòng Chúa nếu chúng ta nhãng bỏ Lời Thiên Chúa mà đi lo giúp việc bàn ăn".
Chúng ta biết cũng chính tác giả Luca viết câu chuyện này về các tông đồ phải
chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa; còn việc phục vụ bàn ăn thì phải để lại
cho những anh em đầy Thánh Thần được cộng đoàn bầu lên.
Không có một chút xíu tinh thần coi khinh việc phục vụ trong các câu chuyện
này. Chỉ có một thứ tự phải nhìn nhận là chính đáng.
Ðó là việc phục vụ bàn ăn không được làm xáo trộn việc phục vụ Lời Chúa.
Không được giựt ai ra khỏi thái độ làm môn đệ, thái độ mà Maria đã chọn, để đưa
họ về thái độ phục vụ như tôi tớ. Matta lầm khi không nhìn thấy thái độ ngồi
nghe Lời Chúa cũng là phục vụ và là phục vụ cần thiết hơn. Bà cũng nên biết phục
vụ của bà có phần bận rộn bộn bàng đó. Abraham đã phục vụ hết tình nhưng bình
tĩnh vô cùng.
Dù sao, như đã nói không nên coi câu trả lời của Chúa như là những ý tưởng
chỉ nói cho Matta và chỉ phát biểu có lần này ở đây thôi. Hiểu như vậy không thể
nào không thương cho Matta được. Nhưng nếu hiểu đây là giáo huấn Chúa nói với mọi
người và đã từng lặp lại ở nhiều trường hợp khác nhau, thì Matta không có gì phải
buồn. Bà chỉ cần khiêm nhường đón lời mạc khải của Chúa về mầu nhiệm Nước Trời.
Và Lời ấy sẽ có giá trị cứu độ. Vì nó nhắc nhở cho tất cả chúng ta nhớ luôn
luôn phải gỡ mình ra khỏi những lo lắng thế gian, cản trở việc tìm kiếm Nước Trời.
Và việc phục vụ bàn ăn, tức là việc phục vụ nói chung, vẫn không bao giờ được
làm cản trở việc phục vụ Lời Chúa.
Nếu trong bài đọc I, phụng vụ hôm nay đã hết lời ca tụng thái độ phục vụ
của Abraham thì thiết tưởng chúng ta cũng phải dễ tính để cho bài Tin Mừng hôm
nay xếp đặt lại địa vị lắng nghe Lời Chúa và phục vụ Lời Người. Những người
thông thái về Nước Trời phải biết rút ra cả những sự cũ và mới.
Ấy là chưa kể còn có một thứ phục vụ nữa cũng không được thiếu ở trong đạo
ta và nơi đời sống đạo của chúng ta. Bài thư Phaolô sẽ đề cập đến.
3. Ngay Ðau Khổ Cũng
Là Phục Vụ
Phaolô bấy giờ đang ở trong tù. Có lẽ đúng hơn người đang ở trong tình trạng
là tù nhân nhưng vẫn được tại ngoại. Người gửi thư cho giáo đoàn Côlôsê. Và ở
đoạn này, người nói đến mình không phải tự khoe nhưng để tín hữu hiểu thế nào
là ơn gọi tông đồ.
Ðó là sứ mệnh được Thiên Chúa chỉ cho để rao giảng Lời Chúa. Riêng trường
hợp của Phaolô, việc rao giảng này lại được quy định nơi dân ngoại, để cả lương
dân được thấy mầu nhiệm của Chúa.
Mầu nhiệm này ngày trước còn bị giữ kín. Các dân tộc ngày xưa không được
biết mạc khải của Chúa. Nhưng từ ngày Ðức Giêsu Kitô đã lên cây thập giá để hủy
bỏ bức tường ngăn cách giữa dân "cắt bì" và những "dân không cắt
bì", thì mọi dân tộc đều được biết mầu nhiệm phong phú và vinh quang, là mầu
nhiệm Ðức Giêsu Kitô ở giữa mọi người có đức tin để hết thảy được tin tưởng vào
vinh quang đang chờ mình.
Mầu nhiệm cứu độ này, Phaolô đang phục vụ cho lương dân khi chẳng quản
gian lao thử thách, luôn rao giảng cho mọi người. Nhưng nay bị tù, bị hạn chế
và quản thúc, Phaolô vẫn tiếp tục phục vụ dưới hình thức khác: đó là hình thức
chịu đau khổ.
Và đây là điểm chúng ta nên nhớ, Phaolô coi trọng việc phục vụ Lời Chúa.
Không ai đã dám nói như người: "Thật khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng
Tin Mừng cứu độ". Nhưng nay thấy mình trong thân phận tù nhân và suy nghĩ
đến mầu nhiệm Ðức Giêsu mà mình đã được tuyển chọn để phục vụ, Phaolô nhận ra:
Chịu đau khổ cũng là phục vụ.
Quả vậy, những đau khổ hiện nay người đang chịu là lo việc rao giảng Lời
Chúa, mang Tin Mừng Nước Trời đến cho các dân tộc. Ðó là những đau khổ tất yếu
gắn liền với việc phục vụ Lời Chúa. Chính Ðức Giêsu vì rao truyền Danh Ðức Chúa
Cha mà phải chịu nhiều đau khổ; và Người cũng đã khẳng định rằng môn đệ phải chịu
nhiều đau khổ để làm chứng cho Người. Người còn nói trước những thử thách lớn
lao và bắt bớ dữ tợn vào thời kỳ sau hết. Thế nên lời rao giảng thánh giá đi đến
đâu cũng sinh ra nhiều tử đạo ở những nơi ấy. Những đau khổ và thử thách lớn
lao này không cần thiết theo nghĩa để bù đắp những gì còn thiếu nơi các nỗi thống
khổ của Ðức Giêsu vì lẽ cuộc tử nạn của Người chưa đủ sức để đền bù tội lỗi.
Không, thánh giá của Người thật vinh quang, và máu Người đổ ra đã đem lại ơn cứu
độ. Nhưng khi ơn này đến với chúng ta và nơi các dân tộc chúng ta gặp thấy
không thiếu những thánh giá bên trong và bên ngoài.
Ðó là những đau khổ cần thiết để kết hiệp chúng ta vào mầu nhiệm thánh
giá Chúa Kitô cho chúng ta được cứu độ. Những thánh giá đó cần cho chúng ta,
nhưng thật sự cũng là cần cho Ðức Giêsu mà Người chưa chịu khi sống ở trần gian
này, để cho ơn của Người chuyển đến chúng ta. Bây giờ các tông đồ và môn đệ của
Người phải chịu để làm công việc ấy. Họ chịu để cho mầu nhiệm Ðức Kitô được
sáng lên trong các tâm hồn. Họ bù đắp những gì còn thiếu sót nơi các nỗi quẫn
bách của Ðức Kitô, theo nghĩa ấy, tức là để ơn của Người đến được với các con
người đang được gọi để trở nên thân thể của Người là Hội Thánh. Chịu những đau
khổ như vậy cũng là phục vụ và là phục vụ Lời Chúa, và là phục vụ một cách sâu
xa. Thế nên, thánh Phaolô cũng như mọi tông đồ chân chính khi gặp đau khổ trong
sứ vụ đều có tinh thần của các tử đạo... Hết thảy đều hân hoan và lấy làm vinh
dự vì được thông phần những đau khổ cứu thế của Ðức Giêsu Kitô.
Như vậy, phục vụ trong đạo ta có nhiều mặt. Phục vụ bàn ăn và thi hành
các việc bác ái thương người là điều qúy. Nhưng phục vụ Lời Chúa lại là việc
không được xao nhãng vì những lý do phục vụ bác ái.
Và cuối cùng những kẻ xem ra chẳng phục vụ được gì nhưng đang quảng đại
chịu đau khổ cho mầu nhiệm Ðức Kitô được sáng lên trong Hội Thánh, những kẻ ấy
cũng đang phục vụ và phục vụ rất thánh thiện. Ðiều cần thiết là mỗi người hãy
theo ơn gọi của mình mà phục vụ. Cũng như hết thảy phải phục vụ công việc phải
làm vào những giờ và những nơi nhất định.
Do đó giờ đây chúng ta phải hết mình phục vụ các mầu nhiệm bàn thờ. Nhưng
khi ra khỏi thánh lễ này, chúng ta lại phải hoàn thành các nhiệm vụ phục vụ anh
em và xã hội. Cũng có thể có những thử thách và đau khổ mà Chúa đang gọi ta phải
chịu cho ơn cứu độ được lan rộng.
Xin Chúa cho chúng ta ở đâu và lúc nào cũng có tinh thần phục vụ như
Abraham, Maria và Phaolô của các bài đọc Kinh Thánh hôm nay.
(Trích dẫn từ tập
sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 16 Thường Niên, Năm C
Bài đọc: Gen 18:1-10a; Col 1:24-28; Lk 10:38-42.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tinh
thần hiếu khách
Tiếp rước khách vào nhà là cả một nghệ thuật đòi chúng ta phải biết nhiều
thứ, nhưng hai điều quan trọng nhất là ý thích của khách và hoàn cảnh sinh sống
của chúng ta. Nhiều người nghĩ cách đón tiếp trọng thể nhất là mâm cao cỗ đầy;
nhưng nếu những thứ làm ra không hợp khẩu vị hay ý thích của khách, hậu quả là
vừa mất thời giờ vừa lãng phí đồ ăn. Người khác lại nghĩ chỉ cần đơn giản vài
món, hậu quả là khách cảm thấy họ bị xúc phạm.
Các bài đọc hôm nay giúp chúng ta trau dồi nghệ thuật tiếp khách; nhất là
khi tiếp đón Thiên Chúa, vị thượng khách Tối Cao. Trong bài đọc I, Abraham, tuy
không biết ba vị khách đến thăm mình là ai, nhưng đã tiếp ba vị khách qua đường
hết lòng. Hậu quả ông nhận được là ba vị thượng khách đó quan tâm để cảnh góa bụa
của Sarah, vợ ông. Các ngài hứa năm sau khi trở lại, Sarah sẽ sinh cho Abraham
một bé trai để nối dõi tông đường. Trong bài đọc II, thánh Phaolô biết rõ Vị
Thượng Khách của mình cần gì và khả năng của mình có thể làm được. Ông xin chịu
tất cả những gian nan mà Đức Kitô còn phải chịu để giúp cho thân thể của Ngài
là Hội Thánh được đạt tới mức vẹn toàn. Trong Phúc Âm, em Maria đã biết được ý
của Chúa Giêsu khi Ngài đến thăm nhà, nên em ngồi dưới chân Chúa Giêsu để nghe
Ngài giảng dạy. Khi chị Martha than phiền với Chúa Giêsu vì cô em không giúp
mình việc bếp núc, Chúa Giêsu chỉ cho Martha thấy rõ cô đã không hiểu ý Thiên
Chúa: "Martha! Martha ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một
chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy
đi."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nếu tôi được đẹp lòng Ngài, xin
Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài.
1.1/
Tinh thần hiếu khách của Abraham
Theo trình thuật, chỉ có người viết biết một trong ba vị khách là Thiên
Chúa, Abraham không biết điều này vì ba vị đều trong hình dạng con người.
Xét hoàn cảnh đón khách của Abraham, chúng ta thấy tinh thần hiếu khách của
ông đã đạt tới mức tuyệt đỉnh.
- Đây là ba người khách lạ, Abraham không quen những người này. Họ là
khách qua đường.
- Họ đến bất ngờ, Abraham không biết trước để chuẩn bị cho chu đáo.
- Họ đến vào thời tiết nóng nực nhất trong ngày; không ai muốn nấu nướng
vào lúc nóng nực như thế.
- Abraham niềm nở chạy ra săn đón và năn nỉ mời khách vào nhà.
- Ông đón tiếp rất tử tế: Abraham sụp lạy khách, lấy nước rửa chân cho
khách, mời khách vào bàn ăn trong khi ông đứng để phục vụ.
- Ông tỏ ra rất rộng lượng trong việc đón khách: ba thúng tinh bột, con
bê tơ, sữa chua, sữa tươi...
Tất cả những điều này chứng minh tinh thần hiếu khách của Abraham và
Sarah. Trình thuật có vấn đề khó khăn để hiểu văn bản trong câu 3: “Thưa Ngài,
nếu tôi được đẹp lòng Ngài, xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ
Ngài.” Danh từ “Ngài” ở ngôi thứ nhất số ít; trong khi câu 4 và 5 đều ở ngôi thứ
nhất số nhiều, “các ngài.” Nhiều học giả thắc mắc không biết Abraham có nhận ra
Đức Chúa đến viếng thăm ông không; và nếu có, ông nhận ra lúc nào?
1.2/
Phần thưởng được hứa cho Abraham
Vì Abraham không biết Đức Chúa đến thăm mình, ít nhất ngay từ đầu, nên sự
đón tiếp của ông là đón tiếp khách một cách vô vị lợi: ông không nhằm được ích
lợi gì cả. Sau khi thấy Abraham tiếp đón mình cách tử tế, ba vị khách hỏi thăm
Sarah, vợ của Abraham. Họ hứa ban cho hai vợ chồng một phần thưởng trọng hậu là
có con trai trong lúc tuổi già. Họ hứa: "Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm
ông, và khi đó bà Sarah vợ ông sẽ có một con trai."
2/ Bài đọc II: Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì
Đức Kitô và vì Hội Thánh.
2.1/
Phaolô biết những gì Đức Kitô mong muốn.
Yêu thương ai là phải biết tính tình và sở thích của người đó. Nếu con
người yêu thương Thiên Chúa, họ sẽ cố gắng làm trọn ba điều đầu tiên của Kinh Lạy
Cha: Xin cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng
như trên trời.
Phaolô yêu Đức Kitô, thánh nhân biết hai ý định của Đức Kitô: (1) Ngài muốn
cho ơn cứu độ được lan rộng tới mọi người qua việc rao giảng Tin Mừng, và (2)
Ngài muốn cho Giáo Hội, thân thể của Ngài được trở nên tinh tuyền thánh thiện
qua Lời Chúa và các bí tích.
2.2/
Phaolô muốn hoàn thành ý định của Đức Kitô.
(1) Rao giảng Tin Mừng là chấp nhận đau khổ và thiếu thốn mọi đàng, vì
con người thế gian không luôn sẵn sàng chấp nhận. Đó là lý do mà thánh Phaolô
nói: Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân
cho đủ mức. Những gian nan này có thể là sự từ chối nghe Tin Mừng, đánh đập, tù
đày, và ngay cả cái chết.
Nhưng Tin Mừng có sức mạnh thay đổi con người và giúp họ đạt được ơn cứu
độ. Phaolô nói với các tín hữu Colossê: Chính Người là Đấng chúng tôi rao giảng,
khi khuyên bảo mỗi người và dạy dỗ mỗi người với tất cả sự khôn ngoan, để giúp
mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Kitô.
Người đã muốn cho họ được biết mầu nhiệm này phong phú và hiển hách biết
bao giữa các dân ngoại: đó là chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho
chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang.
(2) Thánh hóa Hội Thánh: Khi chịu Phép Rửa, người tín hữu được tháp nhập
vào thân thể của Đức Kitô, là Hội Thánh. Vì thế, thánh Phaolô tìm mọi cách để Hội
Thánh trở nên tinh tuyền, thánh thiện, và nhất là luôn hiệp nhất trong đức ái.
Thánh Phaolô hãnh diện tuyên xưng: Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em, vì
lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh. Tôi đã trở nên người phục vụ Hội
Thánh, theo kế hoạch Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em: đó là
tôi phải rao giảng lời của Người cho trọn vẹn, rao giảng mầu nhiệm đã được giữ
kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho dân thánh của
Thiên Chúa.”
3/ Phúc Âm: “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ
không bị lấy đi."
3.1/
Em Maria chọn ngồi bên chân Chúa để nghe Ngài giảng dạy.
Nhiều người chắc cũng nghĩ như chị Martha: con bé này lười quá hay
"mồm miệng đỡ tay chân!" Nhưng đây là một lựa chọn rất tính toán và
khôn ngoan, như Chúa Giêsu đã phải khen Maria bên dưới. Một số lý do có thể
Maria đã dựa vào để làm sự lựa chọn này:
+ Cô biết rõ thứ tự ưu tiên của cuộc đời: phải chọn Thiên Chúa trước hết.
Maria biết chẳng có ai có những lời khôn ngoan và mang lại sự sống như Chúa
Giêsu; vì thế, cô phải hoãn tất cả các việc khác để lắng nghe những gì Ngài muốn
truyền đạt.
+ Cô biết nắm lấy cơ hội khi nó xảy đến: Một người bận rộn rao giảng như
Chúa không dễ gặp. Cô biết cơ hội để đàm đạo với Chúa không thường xảy ra: nếu
không biết nắm lấy ngay, cô không biết có còn cơ hội nào khác không! Chúng ta
phải học nơi Maria điều này, để khi Chúa gởi những nhà rao giảng đến, chúng ta
biết sắp xếp công việc hàng ngày để nghe những gì họ rao giảng. Đừng giả sử cơ
hội sẽ có mãi, kẻo phải tiếc nuối sau này!
+ Khách đến nhà không chỉ để ăn, nhưng còn để chuyện vãn, tâm sự. Maria
thấy chị bận rộn nấu nướng; cô chọn để trò chuyện với Chúa. Nhiều người chúng
ta không chịu để ý đến khía cạnh tế nhị này; nên đã để cho khách ngồi một mình
trong phòng khách chờ đợi trong khi chúng ta chuẩn bị thức ăn dưới bếp. Hiểu
như thế, quyết định của Maria thật sáng suốt: chị lo nấu ăn, em lo tiếp khách.
3.2/
Chị Martha chọn để vất vả lo việc phục vụ Chúa Giêsu.
Khi một thượng khách như Chúa Giêsu đến nhà, đó là lúc để chủ nhà biểu tỏ
tài nội trợ, nấu nướng, và tính hiếu khách. Chúng ta không lạ gì khi Martha quá
vất vả lo lắng tới độ cô tiến lại Chúa Giêsu và than phiền với Ngài: "Thưa
Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó
giúp con một tay!" Ngược lại với những gì Martha mong đợi, Chúa Giêsu đáp:
"Martha! Martha ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một
chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy
đi." Có nhiều điều chúng ta có thể học hỏi từ câu trả lời của Chúa Giêsu:
+ Martha không hiểu rõ thứ tự ưu tiên của cuộc đời: Chúa Giêsu sữa chữa lỗi
lầm cho cô khi Ngài nói: "Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy
đi." Thức ăn có ngon mấy chăng nữa rồi cũng qua đi; nhưng Lời Chúa sẽ ở lại
trong tâm hồn và soi sáng cho con người biết cách sống thế nào để có hạnh phúc
trong cuộc đời.
+ Martha không quan tâm đến người khác: Cô có thể nghĩ chỉ có việc của cô
mới đáng làm, việc của Maria không quan trọng! Đây là một lỗi lầm mà nhiều người
chúng ta mắc phải. Chúng ta đừng bắt người khác phải suy nghĩ và hành động như
mình, vì mỗi người có những suy nghĩ và hành động khác nhau. Chúng ta cũng
không hiểu đủ để xác quyết việc nào là việc tốt nhất, cho đến khi được tuyên bố
rõ ràng bởi Thiên Chúa.
+ Martha không biết sắp xếp thời giờ: Có thể Martha không biết khi nào
Chúa đến, vì ngày xưa không có thói quen có giờ hẹn như thời nay. Dù sao chăng
nữa, Martha không nên lo lắng quá nhiều đến chuyện ăn uống, vì khách tới nhà để
thăm viếng chứ không chỉ để ăn! Các gia đình Việt-nam chúng ta cần chú trọng điều
này, để đừng làm quá nhiều thức ăn mỗi khi tiếp khách. Hầu hết trong các bữa tiệc,
khách không dùng hết một nửa các thức ăn của chủ nhà bày ra. Hậu quả là gia chủ
phải ăn đồ thừa hay phải lãng phí thức ăn cách không cần thiết.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Hai giới răn “mến Chúa yêu người” đòi chúng ta phải có tinh thần hiếu
khách với Thiên Chúa và với tha nhân. Để tỏ tinh thần hiếu khách đúng đắn,
chúng ta cần biết những gì Thiên Chúa và tha nhân muốn, và những gì chúng ta có
thể làm được.
- Tổ chức ăn uống linh đình không phải là dấu hiệu của tinh thần hiếu
khách, vì nhiều khi chúng ta quá chú trọng vào việc nấu nướng và chuẩn bị,
chúng ta có thể bỏ qua những lịch sự tối thiểu và làm buồn lòng khách.
- Những giá trị tinh thần như ơn cứu độ, rao giảng Tin Mừng, tinh thần hiệp
nhất, và sống đạo phải đặt trên những ăn uống và tiệc tùng.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
21/07/2019
CHÚA NHẬT TUẦN 16 TN – C
Lc 10,38-42
Lc 10,38-42
VIỆC DỄ BỎ QUA NHẤT
“Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi… và sẽ không bị lấy
đi.” (Lc
10,42)
Suy niệm: Việc chị Ma-ri-a “ngồi
bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy” tưởng chừng như chuyện vô tích sự,
vậy mà lại được Chúa Giê-su khen là biết chọn phần việc tốt nhất. Tốt nhất vì
trên đời này, không gì cao trọng bằng việc ta phải thực hiện ý Chúa thay vì ý
mình, sống cho Chúa thay vì cho mình, hướng về Chúa thay vì hướng về cái tôi của
mình. Muốn thực hiện ý Chúa, ta phải có những giây phút ở bên Chúa, có mối
tương giao thân thiết với Ngài, để lắng nghe, lĩnh hội ý Ngài trước khi hành động.
Chúa Giê-su không cho rằng việc hiếu khách của Mác-ta là không cần thiết, nhưng
trước hết, phải có tâm tình như Ma-ri-a. Hơn nữa, ta dễ bị cám dỗ bỏ qua việc
phải làm để chỉ làm việc mình thích, chỉ làm những việc bề ngoài, dễ được thiên
hạ thấy mà khen tặng. Cám dỗ chạy theo công việc như thế khiến người ta đặt giá
trị ưu tiên cho hình thức bên ngoài, tâm hồn dần dần trở nên trống rỗng; hệ quả
là người ta sẽ đánh mất nhân cách của chính mình, một thứ tha hoá cần phải
tránh.
Mời Bạn: Tựa như chị Ma-ri-a, bạn hãy
xác tín mối tương quan với Chúa là cần thiết nhất trong cuộc đời bạn. Xác tín
thứ hai là Chúa biết rõ bạn, tỏ tường hơn là chính bạn. Thế nên, bạn hãy sống
và làm theo những gì Ngài dạy bảo để mãi được bước đi trong ánh sáng của Ngài,
đạt đến cùng đích cuộc đời.
Sống Lời Chúa: Anh/chị lo lắng về nhiều chuyện;
nhưng hãy xét xem: chuyện nào đáng để bạn quan tâm nhất hiện nay?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con phân định các bậc thang giá trị trong cuộc sống
làm người và làm con Chúa. Amen.
(5 phút Lời Chúa)
CHỈ CÓ MỘT ĐIỀU
CẦN
Cuộc sống dồn dập hôm nay dễ biến chúng ta thành Mácta: xao động, âu lo, căng thẳng, mất kiên nhẫn. Cả người làm việc cho Chúa cũng bị cuốn hút.
Suy niệm:
Trên dặm đường rao giảng Tin Mừng,
thỉnh thoảng Ðức Giêsu và các môn
đệ
gặp được một chỗ nghỉ chân chan
chứa tình người.
Mácta là chủ nhà đón tiếp Ðức
Giêsu.
Chị tất bật lo việc tiếp đãi nấu
nướng,
chị lo lắng trước bao việc phải
làm ngay
để có được một bữa ăn thịnh soạn
hầu tỏ lòng kính trọng đối với vị
khách quý.
Trong khi đó cô em Maria lại vô
tư và bình thản,
ngồi dưới chân Chúa mà nghe Lời
Người.
Maria say mê nghe Lời Chúa,
Lời mở tâm tư cô ra trước những
chân trời mới mẻ.
Cô thấy chẳng có gì hạnh phúc hơn
giây phút này,
được ngồi nghe Thầy giảng như một
môn đệ thực thụ.
Mácta không hiểu được cô em gái,
chị cũng không hiểu được Ðức
Giêsu,
nên cuối cùng chị đã đến thưa với
Chúa:
Thầy không để ý tới sao?
Mácta muốn Thầy để ý đến việc
mình đang làm,
muốn Thầy nhận ra sự vất vả mình
phải chịu.
Em con để mình con phục vụ.
Mácta tưởng chỉ có mình mới là
người phục vụ.
Chị không nhận thấy rằng Maria
cũng đang tiếp khách
và ngồi nghe Chúa cũng là một
cách phục vụ.
Xin Thầy bảo em giúp con một tay.
Mácta kéo Ðức Giêsu vào cuộc,
kéo Ngài đứng về phía mình, phía
đúng,
để gây áp lực trên cô em.
Chị muốn Maria phải vào bếp với
mình,
phải phục vụ theo kiểu của mình.
Ngấm ngầm, Mácta không chấp nhận
kiểu phục vụ của Maria.
Có lẽ chị nghĩ đó là một hành vi
vô ích,
trong khi có biết bao việc quan
trọng khác cần làm.
Ðức Giêsu không ghét Mácta,
không coi nhẹ việc phục vụ của chị,
nhưng buộc lòng Ngài phải lên tiếng.
Ngài muốn giải phóng Mácta khỏi nỗi
bồn chồn quá mức.
Ngài muốn giải phóng chị khỏi cái
tôi, khỏi lối nhìn hẹp hòi,
để nhận ra điều duy nhất cần thiết.
Ngài gọi tên chị hai lần: Mácta!
Mácta!
Con lo lắng và xao động vì NHIỀU
chuyện quá,
dù chuyện ấy là chuyện con lo cho
Thầy.
Cần thanh lọc lòng mình khỏi những
tìm kiếm vị kỷ,
khỏi những ganh tị nhỏ mọn và tự
mãn ngấm ngầm,
để có thể làm việc cho Chúa trong
bình an thư thái,
dù có gặp thất bại hay bị lãng
quên.
Chỉ có MỘT chuyện cần mà thôi.
Coi chừng nỗi lo lắng về nhiều
chuyện phụ
lại làm ta quên mất chuyện chính,
một chuyện cần hơn cả,
đó là an tĩnh gặp gỡ và lắng nghe
Chúa mỗi ngày
trong tư thế khiêm hạ của người
môn đệ.
Cuộc sống dồn dập hôm nay dễ biến
chúng ta thành Mácta:
xao động, âu lo, căng thẳng, mất
kiên nhẫn.
Cả người làm việc cho Chúa cũng bị
cuốn hút.
Có lẽ cần bớt việc và thêm giờ cầu
nguyện,
cần để cho Chúa làm việc nơi tôi
và qua tôi
thay vì tự mình bươn chải một
mình.
Phải chăng đời Kitô hữu là kết hợp
giữa Mácta và Maria,
giữa tất bật và an tĩnh,
giữa lăng xăng và ngồi yên,
giữa hoạt động và cầu nguyện?
Ðể rồi giữa tất bật, tôi tìm thấy
an tĩnh,
giữa lăng xăng, tôi thấy mình ngồi
yên,
giữa hoạt động, tôi thấy mình
chiêm niệm.
Cầu nguyện:
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm
và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi
dưới chân Chúa
để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
21 THÁNG BẢY
Hồng Ân Nghĩa Tử
Sự chọn lựa đầy yêu thương của
Thiên Chúa và hệ quả nhất định của nó luôn luôn gắn liền với sự sống mật thiết
của Thiên Chúa Ba Ngôi. Sự sống đầy sống hoạt trong tình yêu này liên quan đến
Chúa Cha cũng như Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. Con người chia sẻ sự sống thần
linh này vì con người được mời gọi tham dự vào kế hoạch sáng tạo và cứu độ của
Thiên Chúa. Con người được tiền định ơn tuyển chọn thần linh này ngay cả trước
khi vũ trụ được tạo thành (Ep 1,5).
Con người – ngay cả trước khi được
dựng nên – đã được Thiên Chúa “chọn lựa”. Sự chọn lựa này xảy ra nơi Người Con
Đời Đời (Ep 1,4). Nghĩa là, nó xảy ra nơi Ngôi Lời Vĩnh Cửu, nhờ Ngài mà thế giới
được tạo thành. Như vậy, con người được tuyển chọn trong Chúa Con để nhờ chức
phận làm con của Người mà con người được Thiên Chúa nhận làm nghĩa tử. Đây chính
là cốt lõi của mầu nhiệm tiền định. Và đây chính là sự biểu lộ tình yêu vĩnh cửu
của Chúa Cha đối với chúng ta. Như Kinh Thánh nói: “Vì yêu thương, Ngài đã tiền
định cho ta làm nghĩa tử trong Đức Giê-su Kitô” (Ep 1,5).
Như vậy, sự tiền định cho thấy từ
đời đời Thiên Chúa kêu gọi con người tham dự vào bản tính của Ngài. Đó là một
ơn gọi tiến tới sự thánh thiện thông qua ơn nghĩa tử – trở thành những người
con “tinh tuyền thánh thiện trước thánh nhan Ngài” (Ep 1,4).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John
Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 17 – 7
Chúa Nhật XVI Thường niên
St 18,1-10; Cl 1,24-28; Lc
10,38-42.
Lời suy niệm: “Mácta! Mácta
ơi! chị băng khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết
mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.”
Trước sự tiếp đón của hai chị em
Mácta và Maria có tính cách khác nhau, nhưng cả hai đều tỏ ra ân cần đối với
Chúa Giêsu. Công việc và thái độ của cả hai chị em đều là tốt, mang tính phục vụ;
ngay từ đầu Chúa Giêsu không có ý kiến, nhưng đến khi Mácta đòi sự quan tâm của
Chúa và phê phán Maria, muốn Maria phải làm theo cách của mình. Chúa Giêsu mới
phân giải để mọi sự được tốt đẹp hơn.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa muốn chúng
con mang tinh thần tự nguyện trong mọi công tác phục vụ, Chứ không muốn đem ý
riêng mình áp đặt trên người khác. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng
con có tinh thần nhanh nhẹn như Mácta và sự thinh lặng như Maria.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 21-07: Thánh LAURENSÔ
BRINDISTIÔ
Linh Mục Và Tiến Sĩ Hội Thánh
(1559 - 1619)
Cesare de Rossi sinh tại Brindisi
vùng Aquila, miền nam nước ý năm 1559, Ngài được giáo dục tại Venise và gia nhập
dòng thánh Phanxicô ở Verôna. Năm 1575, Ngài được mặc áo dòng với tên gọi là
Laurensô Brindisiô.
Những năm theo học tại Padua đã
giúp Ngài trở thành những học giả, thông thạo các thứ tiếng Pháp, Đức, Hy lạp,
Syria và Do thái. Những khả năng này đã góp phần mang lại nhiều thành công khi
Ngài làm việc với anh em Do thái và khi Ngài phải đương đầu với sự bành trướng
của Thệ phản. Danh tiếng Ngài lan rộng khắp vùng Trung Âu.
Trong dòng, Laurensô Brindisiô đã
được bầu làm bề trên cả.
Ngoài ra, Ngài còn hăng say với đạo
binh Thánh giá dẫn đầu đoàn quân Hung Gia Lợi chống lại quân Thổ Nhĩ Kỳ. Với
thánh giá cầm tay, Ngài đã mang lại chiến thắng năm 1601.
Phần đời còn lại, Ngài hiến mình
cho việc truyền giáo và ngoại giáo. Với khả năng đặc biệt này, Ngài đã là một
nhà ngoại giao tài giỏi của nhiều vị giáo hoàng. Tuy nhiên, giữa những hoạt động
bên ngoài, thánh nhân vẫn dành nhiều thời gian cho việc cầu nguyện và thực tập
các nhân đức. Chính đời sống nội tâm sâu sắc đã đưa Ngài lên đỉnh cao đời sống
thánh thiện.
Năm 1619, đang khi thi hành sứ mạng
được trao phó ở Lisbonne, thánh Laurensô đã từ trần trong sự nghèo khó đơn sơ
và thánh thiện. Ngài để lại nhiều tác phẩm giá trị cho kho tàng đức tin công
giáo.
Năm 1881, Đức Lêô XIII đã
suy tuyên Ngài lên bậc hiển thánh. Năm 1959 Đức Gioan XXIII đặt Ngài làm
tiến sĩ Hội Thánh.
(daminhvn.net)
21 Tháng Bảy
Lúa Mì VàHoa Mồng Gà
Hòa Lan là một nước nổi tiếng về
hoa. Ở phía bắc Hòa Lan, có những cánh đồng hoa chạy dài tắp tít vượt cả tầm
nhãn giới. Nhiều loại hoa sặc sỡ tuyệt đẹp làm say mê khách du lịch. Phía nam của
Hòa Lan, trái lại, chỉ có những cánh đồng lúa mì bát ngát và khi lúa chín thì
khắp nơi chỉ còn là một màu vàng ối làm nổi bật màu đỏ tím của những bông hoa mồng
gà.
Cảnh đó đẹp với thi sĩ và họa sĩ
nhưng rất đáng buồn đối với nông gia vì mồng gà càng sặc sỡ thì vụ lúa càng
kém. Chẳng có cách nào nhổ hết được những cây mồng gà này mà không làm hư hại
lúa, đằng khác hoa mồng gà càng nhiều và càng đẹp thì khách du lịch càng làm hư
hại lúa nhiều, mỗi khi họ nhảy xuống ruộng để hái hoa.
Sự chung đụng của lúa mì và hoa mồng
gà: đó là bức tranh tuyệt hảo của nhân loại chúng ta. Thiên Chúa tạo dựng lúa
mì để nuôi sống chúng ta, nhưng Người cũng cho hoa mồng gà mọc lên để làm vui mắt
chúng ta. Có lúa mì thì cũng có hoa mồng gà. Có nhà nông thì cũng có thi sĩ, họa
sĩ.
Thiên Chúa cho nắng mưa hòa nhịp
với nhau. Người nông gia không thể đòi hỏi chỉ có mưa cho lúa tốt. Người nghệ
sĩ không thể đòi hỏi chỉ có ánh mặt trời... Sống là biết chấp nhận sự đa diện của
vũ trụ như một bức tranh tuyệt hảo. Sống là biết lấy đau khổ, mất mát của mình
làm hạnh phúc cho người khác.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét