13/08/2019
Thứ ba tuần 19 thường
niên.
BÀI ĐỌC I: Đnl 31, 1-8
“Giosuê, anh hãy dũng mạnh và
can đảm: anh sẽ đem dân vào Đất Nước”.
Trích sách Đệ Nhị
Luật.
Môsê đến nói với toàn dân Israel tất cả những lời này: “Tôi hôm nay đã một
trăm hai mươi tuổi. Tôi không còn đi đứng được nữa, nhất là khi Chúa đã phán
cùng tôi rằng: ‘Ngươi sẽ không qua sông Giođan này’. Chúa là Thiên Chúa của
ngươi sẽ qua trước ngươi, chính Người sẽ tiêu diệt các dân tộc ấy trước mặt
ngươi và ngươi sẽ thắng chúng. Chính Giosuê sẽ qua trước ngươi như Chúa đã
phán. Chúa sẽ đối xử với chúng như đã đối xử với Sêhon và Og là vua người Amorê
và với đất nước các vua ấy. Người đã tiêu diệt chúng. Vậy khi Chúa nộp chúng
cho các ngươi, các ngươi sẽ đối xử với chúng như tôi đã truyền cho các ngươi.
Hãy dũng mạnh và kiên trì, đừng sợ, đừng kinh hãi trước mặt chúng. Vì chính
Chúa là Thiên Chúa các ngươi dẫn đường cho các ngươi, Người sẽ không bỏ rơi và
lìa khỏi các ngươi”.
Ông Môsê gọi ông Giosuê đến và nói với ông trước mặt toàn dân Israel rằng:
“Hãy dũng mạnh và can đảm: vì anh sẽ đem dân này vào Đất Nước Chúa đã thề hứa sẽ
ban cho cha ông chúng; chính anh sẽ bắt thăm phân chia phần đất ấy. Chúa là Đấng
dẫn đàng cho anh, chính Người sẽ ở với anh. Người sẽ không bỏ rơi và lìa khỏi
anh. Anh đừng sợ và đừng kinh hãi”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Đnl 32, 3-4a.
7. 8. 9 và 12
Đáp: Chúa lấy dân
Người làm phần riêng mình (c. 9a).
Xướng:
1) Tôi sẽ kêu cầu thánh danh Chúa. Các ngươi hãy mang sự uy linh lại cho
Chúa chúng ta. Các công trình của Thiên Chúa đều hoàn hảo, và mọi đường lối của
Người đều chính trực. – Đáp.
2) Ngươi hãy nhớ lại những ngày xa xưa, hãy tưởng nghĩ lại mỗi thế hệ:
Hãy hỏi cha ngươi, và người sẽ loan báo cho ngươi; hãy hỏi tổ phụ ngươi, và các
ngài sẽ chỉ dạy ngươi. – Đáp.
3) Khi Đấng Tối Cao phân chia các dân tộc, khi Người tách biệt con cái của
Ađam, Người đã thiết lập ranh giới của các nước, chiếu theo số con cái Israel.
– Đáp.
4) Nhưng Chúa lấy dân Người làm phần riêng mình, chọn Giacóp làm dây đo
cơ nghiệp của Người. Chỉ có một Chúa là Đấng dẫn đưa nó, và chẳng có Chúa nào
khác ở với nó. – Đáp.
ALLELUIA: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia!
– Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự
sống đời đời. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 18, 1-5.
10. 12-14
“Các con hãy coi chừng, đừng
khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy các môn đệ đến bên Chúa Giêsu mà hỏi: “Chớ thì ai là kẻ lớn nhất
trong Nước Trời?” Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng:
“Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ
không được vào Nước Trời. Vậy ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, người ấy là kẻ
lớn nhất trong Nước Trời.
“Và kẻ nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận
Thầy. Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này, vì
Thầy bảo các con, thiên thần của chúng trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan
Cha Ta, Đấng ngự trên trời.
“Các con nghĩ sao? Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì
người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao?
Nếu người đó tìm được, Thầy bảo thật các con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên
đó, hơn chín mươi chín con chiên không thất lạc. Cũng vậy, Cha các con trên trời
không muốn để một trong những kẻ bé mọn này phải hư mất”. Đó là lời Chúa.
Suy niệm : Tinh Thần Trẻ
Thơ
Tin Mừng Mátthêu được cấu trúc xoay quanh năm diễn từ dài của Chúa Giêsu,
và diễn từ thứ tư bắt đầu với chương 18 nói về nếp sống của người môn đệ trong
cộng đoàn. Tin Mừng hôm nay nhắc đến hai đặc điểm của nếp sống người môn đệ
trong cộng đoàn.
Trước hết là thái độ sống trẻ thơ.
Một tiểu thuyết gia nọ đã đưa ra nhận định: "Khi người lớn chúng ta
không còn giữ liên hệ nào với các trẻ nhỏ, thì chúng ta không còn giữ được tính
người nữa, mà đã trở thành như những chiếc máy chỉ biết ăn uống và kiếm tiền".
Lòng tin tưởng của trẻ thơ gợi lên cho chúng ta về sự tin tưởng mà Chúa
Giêsu đã dạy chúng ta phải có đối với Thiên Chúa Cha, Ðấng ngự trên trời. Thái
độ trẻ thơ khâm phục trước vũ trụ và thiên nhiên nhắc nhớ sự khâm phục mà chúng
ta cần có đối với vũ trụ do Thiên Chúa Cha chúng ta dựng nên. Thái độ đáp trả của
trẻ nhỏ trước tình yêu thương nhắc chúng ta phải đáp trả đối với tình yêu
thương của Thiên Chúa.
Nhận định trên đây giúp chúng ta hiểu tại sao Chúa Giêsu muốn các môn đệ
trong cộng đoàn mà Ngài thiết lập phải trở nên như những trẻ nhỏ: đơn sơ, tin
tưởng phó thác, không có thái độ kẻ cả.
Những đức tính tốt của tuổi thơ sẽ giúp cho các thành phần trong cộng
đoàn chấp nhận và phục vụ nhau, không kỳ thị phân biệt. Cộng đoàn những con người
cụ thể dĩ nhiên có những khuyết điểm, những bất toàn, tội lỗi. Chúa Giêsu biết
rõ điều đó, nhưng Ngài không muốn môn đệ Ngài có thái độ sống kỳ thị tách biệt
khỏi những người khác, nhất là những người tội lỗi. Trái lại, Chúa Giêsu đã mở
ra một viễn tượng mới, Ngài mạc khải thái độ nhân từ thương xót của Thiên Chúa
đối với những người tội lỗi, đến nỗi đã bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên
lạc, và vui mừng khi tìm được nó. Chúa Giêsu mời gọi con người ăn năn sám hối
trở về với sự thật, với tình thương và với người anh em.
Xin Chúa cho chúng ta sống tinh thần trẻ thơ trước mặt Chúa và trong
tương quan với người khác. Xin cho chúng ta sống tin tưởng, yêu thương phục vụ
mọi người vì tình yêu Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần 19 TN1
Bài đọc: Deut 31:1-8; Mt 18:1-5, 10, 12-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Môn đệ Đức Kitô phải biết khiêm hạ và bênh vực kẻ yếu
đuối.
Thế gian thích có địa vị và quyền hành để được nổi tiếng và được phục vụ.
Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải khiêm hạ và phục vụ thì mới có thể vào Nước Trời.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng Thiên Chúa yêu thương và bảo vệ những người
yếu đuối và tin tưởng nơi Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, ông Moses khuyên dân
chúng hãy đặt trọn niềm tin nơi Thiên Chúa và ông Joshua, người Thiên Chúa chọn
để thay thế ông Moses. Ngài sẽ lãnh đạo và đưa dân vào vùng đất mà Ngài đã hứa
với các tổ-phụ của họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy dỗ các môn đệ phải sống
ngược lại với những tiêu chuẩn và giá trị của thế gian để được vào Nước Trời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ông Moses chuẩn bị cho con cái
Israel tiến vào Đất Hứa.
1.1/
Ông Moses nói những lời từ biệt với con cái Israel: Ông Moses cho tập họp toàn thể
con cái Israel và nói những lời này với họ: Hôm nay tôi đã được một trăm hai
mươi tuổi, tôi không thể đi ra đi vào được nữa, và Đức Chúa đã bảo tôi: “Ngươi
sẽ không được sang qua sông Jordan kia.”
Khi ông Moses dẫn con cái Israel ra khỏi Ai-cập, ông đã 80 tuổi. Sau 40
năm chịu thanh luyện trong sa mạc với họ, đến nay ông đã 120 tuổi. Tuổi già đã
làm ông không thể đi lại được nữa. Ông Moses biết: để tiến vào Đất Hứa, con cái
Israel cần một người lãnh đạo trẻ trung và khỏe mạnh; chứ không thể theo một
người già yếu ớt như ông. Để chuẩn bị cho con cái Israel vào Đất Hứa, ông Moses
tuyên bố với dân chúng họ sẽ có hai nhà lãnh đạo:
(1) Thiên Chúa là Người sẽ dẫn dân vào Đất Hứa: Ông Moses và toàn dân dư
biết sức mạnh của con cái Israel không đủ để chống cự với sức mạnh của các dân
tộc đang sống trong Đất Hứa; vì thế, ông Moses bảo đảm với dân chúng một điều tối
quan trọng: “Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ dẫn đầu anh em sang qua
sông, Người sẽ tiêu diệt các dân tộc ấy cho khuất mắt anh em, để anh em chiếm đất
của chúng.”
(2) Joshua sẽ là người lãnh đạo dân vào Đất Hứa: Thiên Chúa hành động
theo cách thức của con người như Ngài đã từng hành động qua ông Moses để truyền
lệnh cho dân chúng; vì thế, ông Moses loan báo cho dân nhà lãnh đạo mới sẽ thay
thế ông: “Chính ông Joshua sẽ dẫn đầu anh em sang qua sông, như Đức Chúa đã
phán.”
1.2/
Ông Moses khuyên bảo con cái Israel: Để vượt qua sông Jordan vào Đất Hứa Canaan, con cái
Israel phải băng qua đất của hai vua người Amorites là Sihon và Og. Ông Moses
muốn dùng chiến thắng này để khuyến khích con cái Israel đặt trọn vẹn tin tưởng
vào Thiên Chúa: “Người đã tiêu diệt chúng. Đức Chúa sẽ trao các dân tộc ấy cho
anh em, và anh em sẽ xử với chúng theo như tất cả mệnh lệnh tôi đã truyền cho
anh em.”
(1) Lời khuyên cho dân chúng: Ông Moses biết rõ lòng dân vì đã cùng họ
đương đầu với nghịch cảnh trong suốt 40 năm trong sa mạc; ông biết dân chúng rất
yếu đuối khi phải đương đầu với nguy hiểm, nên ông khuyên họ: “Mạnh bạo lên,
can đảm lên! Đừng sợ, đừng run khiếp trước mặt chúng, vì chính Đức Chúa, Thiên
Chúa của anh em, đi với anh em; Người sẽ không để mặc, không bỏ rơi anh em.”
(2) Lời khuyên cho Joshua, người sẽ thay ông lãnh đạo dân chúng: Người
lãnh đạo khôn ngoan và thương dân thật là người biết chuẩn bị kiếm người thay
thế mình trong tương lai và chuẩn bị lòng dân để chấp nhận người kế vị mình; chứ
không vô trách nhiệm để dân bị thiệt thòi vì người lãnh đạo không có bản lãnh.
Ông Moses đã chuẩn bị cho ông Joshua thay thế ông; vì thế, ông Moses gọi ông
Joshua lại, và nói với ông trước mặt toàn thể Israel: “Mạnh bạo lên, can đảm
lên! Chính anh sẽ cùng với dân này vào đất Đức Chúa đã thề với cha ông họ rằng
Người sẽ ban cho họ; chính anh sẽ cho họ hưởng đất ấy làm gia nghiệp. Chính Đức
Chúa đi phía trước anh, chính Người sẽ ở với anh; Người sẽ không để mặc, không
bỏ rơi anh. Đừng sợ, đừng hãi!”
2/ Phúc Âm: Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ
này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời.
2.1/
Khiêm nhường là điều kiện để được vào Nước Trời.
(1) Tham vọng của con người: Các môn đệ lại gần hỏi Đức Giêsu rằng: “Thưa
Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời?” Các môn đệ hỏi câu hỏi này vì các
ông đã quá quen với tiêu chuẩn và giá trị của thế gian: tiêu chuẩn của thế gian
là địa vị, danh vọng, và quyền hành; người có giá trị là người có địa vị và quyền
hành lớn nhất, chẳng hạn như vua hay một nguyên thủ của quốc gia. Có thể nói mục
đích của các môn đệ khi theo Chúa lúc đầu là để được cùng thống trị với Chúa,
khi Ngài khôi phục vương quốc Israel. Tham vọng này được chứng minh khi mẹ và
hai anh em Giacôbê và Gioan đến xin Chúa cho một người ngồi bên phải và một người
ngồi bên trái Chúa khi Ngài trị vì. Mười tông-đồ kia bất mãn với hai anh em về
yêu cầu này.
(2) Điều kiện để được vào Nước Trời: Đức Giêsu liền gọi một em nhỏ
(paidi,on) đến, đặt vào giữa các ông và bảo: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em
không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Vậy ai tự hạ,
coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời.” Hai tư tưởng
chính Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu ở đây: Thứ nhất, tiêu chuẩn và giá trị của
Nước Trời hoàn toàn khác với tiêu chuẩn của thế gian. Thứ hai, để được vào Nước
Trời, con người phải hạ mình và trở nên như một trẻ nhỏ.
2.2/
Người mục tử nhân lành: Vẫn trong chiều hướng dạy dỗ các môn đệ làm quen với tiêu chuẩn và giá trị
của Nước Trời, Chúa Giêsu tiếp tục dạy các ông hai bài học:
(1) Đừng khinh thường kẻ bé mọn: “Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai
trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của
họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.”
Thế gian chú trọng đến những người có địa vị, quyền thế, và giầu có; Chúa
dạy các môn đệ phải thương xót và săn sóc những kẻ bé mọn (mikro,j). Tĩnh từ
Hy-lạp dùng như danh từ ở đây khác với danh từ dùng cho trẻ nhỏ ở trên
(paidi,on), tĩnh từ này được dùng để chỉ:
– những người có thân hình nhỏ bé: trẻ thơ, người lùn;
– những người không quan trọng, không có địa vị trong xã hội, người nghèo
khó, thất học.
Người môn đệ của Đức Kitô phải biết đứng về phía những kẻ cô thân cô thế
để bênh vực và giúp đỡ họ như những con cái của Thiên Chúa. Mỗi người này đều
có một thiên thần hộ thủ để bênh vực cho họ trước Thiên Chúa. Ai khinh thường
và làm hại họ, thiên thần sẽ tường thuật cho Thiên Chúa (x/c Tob 3:8-9,
12:12-14).
(2) Phải đi tìm con chiên lạc: Chúa tiếp tục dạy các môn đệ: “Anh em nghĩ
sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín
con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, thì Thầy
bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín
con không bị lạc.”
Người của thế gian chú trọng đến đám đông để được phổ thông và nổi tiếng;
họ không thể hiểu nổi tại sao lại bỏ 99 con chiên trên núi để đi tìm con chiên
lạc. Thiên Chúa như một người cha yêu thương chú trọng đến từng cá nhân một, nhất
là những con chiên bị lạc đường. Ngài biết từng con chiên, yêu thương từng con
chiên, không thỏa mãn cho đến khi tìm được con chiên lạc, và chỉ vui mừng khi
thấy tất cả chiên được qui tụ về một đàn dưới quyền của một Chúa chiên.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải luôn biết khiêm nhường, không cậy dựa vào sức mình; nhưng
biết trông cậy nơi sức mạnh và tình thương của Thiên Chúa.
– Chúng ta phải đứng về phía những người bị bỏ rơi để bênh vực và giúp đỡ
họ.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
13/08/19 – THỨ BA TUẦN 19 TN
Th. Pon-ti-a-nô, giáo hoàng và th. Híp-pô-li-tô linh mục,
tử đạo
Mt 18,1-5.10.12-14
HAI ƯỚC MUỐN GẶP NHAU
“Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai
trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.” (Mt 18,14)
Suy niệm: Có con chiên nào nhận ra mình đi lạc mà lại không
nôn nóng tìm đường trở về? Nó hoảng hốt, nháo nhác kêu, chạy tới chạy lui tìm
đường trở về bầy; nó ngẩng cổ, vểnh tai xem coi có nghe được tiếng của mục tử
hay của các con chiên khác thuộc đàn mình không. Người mục tử đi tìm chiên lạc
cũng mang tâm trạng giống như thế. Anh ta lần dò theo từng dấu vết, xem xét từng
bụi cây ngọn cỏ, lắng tai nghe ngóng từng tiếng kêu, và phán đoán xem ở hướng
nào, có dấu hiệu nào dù nhỏ nhất cho biết vị trí của con chiên đang đi lạc.
Mời Bạn: Con chiên lạc thì luôn mong muốn trở về với đàn
chiên. Nhưng con người đi lạc xa Chúa có thể muốn trở về, cũng có thể không vì
nhiều lý do khác nhau. Về phần Chúa, là Cha nhân hậu và giàu lòng thương xót,
Ngài luôn chờ đợi và mở rộng vòng tay đón họ về, bởi vì Người “không muốn cho một
ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.” Là tội nhân, một khi muốn trở về thì
luôn luôn có cơ hội. Chỉ cần chúng ta chứng tỏ lòng mong muốn đó, Chúa sẽ tỏ
cho chúng ta thấy cơ hội để trở về với Chúa, với đàn chiên của Ngài. Chúa ước
muốn gặp lại ta và ta ước muốn được gặp lại Chúa. Có cả hai ước muốn này chắc
chắn sẽ có một kết cuộc có hậu.
Sống Lời Chúa: Ý thức mình tội lỗi và ước muốn trở về với Chúa như
một đòi hỏi sống còn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa muốn và Chúa
đang chờ con trở về. Con cũng muốn trở về nhưng nhiều khi không đủ can đảm đứng
lên. Xin ban cho con lòng can đảm bước ra khỏi vũng lầy tội lỗi mà đến với Chúa
là Đấng hằng mong muốn cứu giúp con.
(5 Phút Lời Chúa)
Em nhỏ và kẻ bé mọn (13.8.2019 –
Thứ Ba Tuần 19 Thường niên)
Suy niệm:
Làm lớn ở trong nhóm hay trong Giáo Hội,
đó vẫn là mối bận tâm gây tranh cãi giữa các môn đệ Thầy Giêsu.
Sau khi Thầy loan báo lần thứ hai về cuộc Khổ nạn (Mt 17, 22-23),
các môn đệ vẫn bị hút vào câu hỏi ai là người lớn nhất (c. 1).
Như một nhà sư phạm khéo léo, Thầy Giêsu đã gọi một em nhỏ lại,
đặt em đứng giữa các ông, và đưa ra câu trả lời.
đó vẫn là mối bận tâm gây tranh cãi giữa các môn đệ Thầy Giêsu.
Sau khi Thầy loan báo lần thứ hai về cuộc Khổ nạn (Mt 17, 22-23),
các môn đệ vẫn bị hút vào câu hỏi ai là người lớn nhất (c. 1).
Như một nhà sư phạm khéo léo, Thầy Giêsu đã gọi một em nhỏ lại,
đặt em đứng giữa các ông, và đưa ra câu trả lời.
Câu trả lời của Thầy chắc đã làm các môn đệ bị sốc.
Trong xã hội Do thái thời Đức Giêsu, trẻ em không có vai vế gì,
cũng chẳng có chút quyền hành hay sự độc lập.
Chúng không phải là biểu tượng cho sự trong trắng, ngây thơ,
cho bằng là biểu tượng cho sự tùy thuộc, lệ thuộc vào người lớn.
Khi đặt một em nhỏ bằng xương bằng thịt giữa các ông,
Thầy Giêsu đã đưa ra câu trả lời rồi.
Đối với Thầy, điều kiện để vào Nước Trời mai sau,
là phải trở nên như trẻ em (c. 3).
Muốn trở nên như trẻ em, cần phải trở lại, nghĩa là quay lại, hoán cải.
Chỉ người lớn nào dám đổi hướng sống, mới có thể trở nên trẻ thơ.
Chỉ ai dám rũ bỏ đam mê về quyền lực và tiếng tăm, về địa vị và chỗ đứng,
người ấy mới có thể vào Nước Trời.
Nước Trời là Nước của trẻ thơ,
và những ai trở nên giống trẻ thơ nhờ hoán cải.
Trong xã hội Do thái thời Đức Giêsu, trẻ em không có vai vế gì,
cũng chẳng có chút quyền hành hay sự độc lập.
Chúng không phải là biểu tượng cho sự trong trắng, ngây thơ,
cho bằng là biểu tượng cho sự tùy thuộc, lệ thuộc vào người lớn.
Khi đặt một em nhỏ bằng xương bằng thịt giữa các ông,
Thầy Giêsu đã đưa ra câu trả lời rồi.
Đối với Thầy, điều kiện để vào Nước Trời mai sau,
là phải trở nên như trẻ em (c. 3).
Muốn trở nên như trẻ em, cần phải trở lại, nghĩa là quay lại, hoán cải.
Chỉ người lớn nào dám đổi hướng sống, mới có thể trở nên trẻ thơ.
Chỉ ai dám rũ bỏ đam mê về quyền lực và tiếng tăm, về địa vị và chỗ đứng,
người ấy mới có thể vào Nước Trời.
Nước Trời là Nước của trẻ thơ,
và những ai trở nên giống trẻ thơ nhờ hoán cải.
Vậy ai là người lớn nhất trong Nước Trời?
Thầy Giêsu trả lời, đó là người tự hạ, thấp kém như một em nhỏ (c. 4).
Để vào được Nước Trời, để làm người lớn nhất trong Nước đó,
cần trở nên như trẻ thơ, tay trắng, không tự hào, tự mãn về mình,
không cậy dựa vào đạo đức của bản thân, nhưng vào tình thương của Chúa.
như thế người lớn nhất trong Nước Trời lại là người nhỏ bé, khiêm nhu.
Thầy Giêsu trả lời, đó là người tự hạ, thấp kém như một em nhỏ (c. 4).
Để vào được Nước Trời, để làm người lớn nhất trong Nước đó,
cần trở nên như trẻ thơ, tay trắng, không tự hào, tự mãn về mình,
không cậy dựa vào đạo đức của bản thân, nhưng vào tình thương của Chúa.
như thế người lớn nhất trong Nước Trời lại là người nhỏ bé, khiêm nhu.
Thầy Giêsu không chỉ giúp môn đệ hiểu xem ai là người lớn nhất thực sự,
Ngài còn dạy họ biết quý giá trị của từng con người trong cộng đoàn.
Cộng đoàn tín hữu nào cũng có những môn đệ yếu kém mặt này, mặt khác.
Ở đây họ được gọi là những kẻ bé mọn.
Thầy Giêsu nhấn mạnh đến phẩm giá của những kẻ bé mọn này.
Không ai được phép khinh rẻ một người nào trong nhóm họ.
Họ được bảo trợ bởi các thiên thần riêng,
và các thiên thần của họ vẫn chiêm ngưỡng nhan Cha ở trên trời (c. 10).
Có những môn đệ bé mọn bị sa ngã, lạc lối.
Thái độ của người lãnh đạo là để lại chín mươi chín con chiên
để đi tìm một con chiên lạc.
Cả con chiên lạc cũng vẫn có giá trị khiến ta phải tốn công sức để tìm về. “Thiên Chúa không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.”
Chính vì thế từng con chiên lạc đều đáng chúng ta trân trọng.
Khi nhìn trẻ nhỏ và kẻ bé mọn trong cộng đoàn bằng cặp mắt của Chúa,
chúng ta sẽ biết cư xử tử tế và kính trọng họ hơn.
Ngài còn dạy họ biết quý giá trị của từng con người trong cộng đoàn.
Cộng đoàn tín hữu nào cũng có những môn đệ yếu kém mặt này, mặt khác.
Ở đây họ được gọi là những kẻ bé mọn.
Thầy Giêsu nhấn mạnh đến phẩm giá của những kẻ bé mọn này.
Không ai được phép khinh rẻ một người nào trong nhóm họ.
Họ được bảo trợ bởi các thiên thần riêng,
và các thiên thần của họ vẫn chiêm ngưỡng nhan Cha ở trên trời (c. 10).
Có những môn đệ bé mọn bị sa ngã, lạc lối.
Thái độ của người lãnh đạo là để lại chín mươi chín con chiên
để đi tìm một con chiên lạc.
Cả con chiên lạc cũng vẫn có giá trị khiến ta phải tốn công sức để tìm về. “Thiên Chúa không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.”
Chính vì thế từng con chiên lạc đều đáng chúng ta trân trọng.
Khi nhìn trẻ nhỏ và kẻ bé mọn trong cộng đoàn bằng cặp mắt của Chúa,
chúng ta sẽ biết cư xử tử tế và kính trọng họ hơn.
Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
13 THÁNG TÁM
Xây Dựng Một Nơi Cư
Ngụ Xứng Đáng Cho Con Người
Con người được mời gọi phát triển thế giới, làm việc hướng về việc phát
triển tốt hơn các hệ thống kinh tế và văn hóa. Công việc này là một phần của ơn
gọi con người, vì con người được mời gọi làm chủ trái đất. Đó là lý do tại sao
sự suy nghĩ khoa học và kỹ thuật hiện đại cũng như văn hóa và sự khôn ngoan của
mọi thời phải được định hình bởi con người để phù hợp với kế hoạch của Thiên
Chúa đối với tạo vật của Ngài.
Công Đồng Vatican II nhìn nhận giá trị và chức năng của công việc và văn
hóa trong thời đại chúng ta. Thật vậy, Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng mô tả tình
hình xã hội và văn hóa mới của chúng ta với những khả năng thay đổi và tiến bộ
nhanh chóng của nó. Những khả năng này làm nhiều người ngạc nhiên và đem lại niềm
hy vọng cho nhiều người khác. (MV 53-54).
Công Đồng không ngần ngại nhìn nhận những thành tựu ngoạn mục của con người.
Công Đồng đặt những thành tựu này trong bối cảnh kế hoạch và lệnh truyền của
Thiên Chúa cho con người. Công Đồng liên hệ những thành tựu ấy với Phúc Âm về
tình huynh đệ được rao giảng bởi Đức Giê-su Kitô. “Khi cày cấy với hai bàn tay
hoặc với phương tiện kỹ thuật để trái đất nảy sinh hoa quả và trở thành nơi cư
ngụ xứng đáng của toàn thể gia đình nhân loại, và khi tham dự cách ý thức vào tập
thể xã hội, con người đã tuân theo ý định của Thiên Chúa được tỏ bày ngay từ
thuở đầu là loài người phải chế ngự trái đất và hoàn tất công cuộc tạo dựng, đồng
thời con người phát triển được chính bản thân; và cùng khi ấy con người tuân giữ
giới răn quan trọng của Chúa Kitô là hiến thân phục vụ anh em” (MV 57; 63).
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 13/8
Thánh Pontianô,
giáo hoàng tử đạo
và Thánh Hippôlytô,
linh mục, tử đạo
St 31, 1-8; Mt 18,
1-5.10.12-14.
LỜI SUY NIỆM: “Thầy bảo
thật anh em; nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào
Nước Trời.”
Chúa Giêsu muốn tất
cả những ai trở thành môn đệ của Người cần được trở nên như trẻ nhỏ. Bởi vì nơi
trẻ nhỏ luôn có sự đơn sơ không tính toán khi khóc cũng như khi cười; luôn
khiêm nhường biết ẩn mình vào lòng tình thương của cha mẹ. Luôn tin tưởng vào
cha mẹ, và vui thích khi nhận được quà tặng và lời khen thưởng cũng như những
nhu cầu cấp bách và cần thiết đúng lúc.
Lạy Chúa Giêsu.
Xin cho mỗi thành viên trong gia đình chúng con luôn có những tâm tình và đặc
tính của một trẻ nhỏ trước mặt Chúa và người đời, để chúng con sống hòa thuận
và được Chúa yêu thương chăm sóc nhiều hơn.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 13-08
Thánh
PONTIANÔ, Giáo Hoàng Tử Đạo
Thánh
HIPPÔLITÔ Linh Mục, Tử Đạo (thế kỷ III)
Thánh PONTIANÔ
Kế vị Thánh Urbanô I làm giáo hoàng khoảng năm 230 Ngài bị bắt đi lưu đày
cùng với vị phản giáo hoàng là Hippôlitô, tới miền Sardinia trong thời kỳ bách
hại của hoàng đế Maximinô. Ngài nổi danh và được kính nhớ vì đã tử đạo tại đó.
Thánh HIPPÔLITÔ
: Ít ra
có ba vị thánh mang tên này.
Một huyền thoại kể rằng thánh Hippôlitô là viên cai ngục canh giữ thánh
Lorensô khi được thánh nhân cải hóa. Hippôlitô đã trở thành môn đệ và đã dự vào
đám đông và đã dự vào đám táng thánh nhân. Tin này tới tai hoàng đế, ông ta
truyền đánh đòn Ngài. Vú nuôi Ngài, thánh nữ Concordia cùng với 18 gia nhân bị
đánh đòn cho tới chết, còn thánh nhân được tha để cho ngựa xé. Câu chuyện này
còn đáng nghi ngờ, vì “Hippôlitô” có nghĩa là “ngựa tháo cương” và vì câu chuyện
rất giống với huyền sử Hy lạp về Hippôlitô con của Therêô, cũng đã chịu một
hình phạt như vậy. Điều thật dễ hiểu khi thánh nhân trở thành vị bảo trợ của
các kỵ sĩ.
Đúng hơn, thánh Hippôlitô được kính nhớ hôm nay là một linh mục và là một
thần học gia sống vào đầu thế kỷ thứ ba. Ngài đã trước tác một số tác phẩm bằng
tiếng Hy lạp, nay chỉ còn lại quá ít. Trong số các tác phẩm này, cuốn
Philosophoumena đả kích những học thuyết đương thời.
Kính Ngài, các đồ đệ đã dựng được một bức tượng mà thế kỷ XVI người ta
tìm thấy. Trên ghế bức tượng của Ngài có bảng ghi các sách của Ngài. Ngài lập bảng
tính về lễ phục sinh không được chính xác lắm. Trong số các sách chú giải kinh
thánh của Ngài còn lại cuốn chú giải sách Daniel, trong đó Ngài trấn an người
đương thời về biến cố Chúa lại đến bằng cách chứng minh rằng thế giới còn tồn tại
600 năm. Dầu không kết án, Đức Callistô nghi ngờ thần học của thánh Hippôlitô về
lời Chúa.
Khi đức Callistô được chọn làm giáo hoàng năm 217, Hippôlitô chống lại và
tự đặt mình làm phản giáo hoàng, Ngài còn tố giác điều mà Ngài coi như sự dung
thứ của đức Callistô cũng như không rút lại lời dèm pha. Ngài được coi như là
người đã viết cuốn chỉ nam chính yếu về phụng vụ gọi là cuốn “truyền thống tông
đồ”. Sớm bị Giáo hội Tây Phương quên lãng, Ngài lại sống còn lâu dài trong các
Giáo hội đông phương, thế giá của Ngài đối với chúng ta là bản lễ qui Roma của
Ngài, dầu không cố định từng lời.
Năm 235, hoàng đế Maximinô khơi lại cuộc bách hại các Kitô hữu. Cả Đức
Potianô lẫn vị phản giáo hoàng Hippôlitô đều bị đầy tới miền hầm mỏ Sardinia.
Hippôlitô không đòi làm giáo hoàng nữa và khuyên những ai theo mình hãy vâng phục
Đức giáo hòang hợp thức. Cả hai đấng đều từ trần như là nạn nhân của trại tập
trung. Khi cuộc bách hại chấm dứt, xác các Ngài được mang về mai táng tại Roma
(ngày 13 tháng 8).
Dầu thái độ cư xử của thánh Hippôlitô chẳng thánh thiện gì, nhưng Ngài được
kính nhớ vì đời sống riêng rất khắc khổ nhiệm nhặt và vì đã chết vì đạo. Mộ
Ngài ở tại nguyện đường Tiburtine được kính như mồ thánh tử đạo, nhưng chuyện
thật của Ngài lại sớm bị quên lãng. Người ta còn coi Ngài như một vị thánh giám
mục của Portô “con người lừng danh về học thức”. Nhưng có lẽ thánh Hippôlitô
chính là đấng mà chúng ta đã nói đến ở trên.
(daminhvn.net)
13 Tháng Tám
Bức Tường Ô Nhục
Ngày 13/8/1961, sau nhiều cuộc thương thảo vô ích giữa Washington và
Mascơva nhằm giải quyết cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối Ðông và Tây,
Kruschev, chủ tịch nhà nước Liên Xô, đã ra lệnh cho xây cất một bức tường ngăn
cách Ðông và Tây Bá Linh. Bức tường này được dựng lên không những để đánh dấu sự
đọan tuyệt giữa Ðông và Tây, nhưng còn để ngăn chặn làn sóng những người Ðông Ðức
ồ ạt chạy sang tỵ nạn tại Tây Bá Linh. Khối Ðông Âu thì giải thích rằng bức tường
này được dựng lên là để ngăn chặn những người Tây Phương có thể đến Ðông Ðức để
làm gián điệp. Còn phía Tây Phương thì lại gọi bức tường đó là bức tường ô nhục…
Nhưng dù được gọi dưới danh hiệu nào, dù được xây dựng dưới mục đích nào, bức
tường ngăn cách giữa Ðông và Tây Bá Linh vẫn mãi mãi là biểu trưng của những
chia cách giữa con người mà chính con người đã tạo nên…
Có những bức tường ngăn cách về kinh tế, chính trị, chủng tộc, văn hóa do
con người dựng lên… Nhưng cũng có những bức tường vô hình mà mỗi người chúng ta
có thể xây lên để tự ngăn cách với người khác.
Bức tường vô hình đó trước tiên là bức tường của nghi kỵ. Người ta thường
xây kín khu vực của mình ở bằng kín cửa cao tường là bởi vì người ta sợ con mắt
dòm ngó của những người xung quanh. Sự nghi kỵ không những ngăn ngừa người khác
đến với mình, nhưng còn giam hãm chính mình trong cô đơn…
Bức tường vô hình cũng là bức tường của ích kỷ. Người ích kỷ chỉ biết đến
thế giới của mình và khép mắt, bịt tai trước những gì đang xảy ra cho người
khác…
Bức tường đó cũng có thể là bức tường của sự bất cảm thông. Kẻ xây tường
để bao bọc mình sẽ không muốn nhìn thấy và thông cảm với những người xung
quanh…
Nhưng bức tường nào cũng là một nấm mồ chôn kín mình trong sự cô đơn.
Càng bảo vệ chính mình, con người càng mất mát trong sự hao mòn. Trái lại, càng
cởi mở, càng đến với tha nhân càng triển nở trong nhân cách…
(Lẽ Sống)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét