14/08/2019
Thứ tư tuần 19 thường niên
Thánh Mácximilianô Maria Kônbê, lm tử đạo
Lễ nhớ
* Thánh nhân sinh ngày 8 tháng 1 năm 1894 tại Ba Lan. Người gia
nhập Dòng Anh Em Hèn Mọn và
năm 1918 thụ phong linh mục tại Rôma. Đầy lòng yêu mến nồng nàn đối với Đức
Trinh Nữ Maria Thánh Mẫu Thiên Chúa, người lập một hội đạo đức lấy tên là “Đạo
binh Đức Maria Vô Nhiễm”. Hội này đã được truyền bá rộng rãi cả ở quê hương của
người lẫn ở nhiều miền khác. Người đã đến Nhật Bản để truyền
giáo, hăng say loan báo đức tin
Kitô giáo dưới sự chăm sóc và bảo trợ của Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Khi
đã trở về Ba Lan, người phải chịu biết bao cơ cực, nhọc nhằn một thời gian dài
trong trại tập trung Ốt-suýt vì chính sách kỳ thị chủng tộc. Người đã hiến
dâng mạng sống mình làm lễ toàn thiêu vì lòng bác ái ngày 14 tháng 8 năm 1941.
Bài Ðọc I: (Năm
I) Ðnl 34, 1-12
"Môsê qua đời tại đó như Chúa đã truyền dạy, và không
còn tiên tri nào như ông đứng lên nữa".
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Trong những ngày ấy,
ông Môsê từ đồng bằng Moab đi lên núi Nêbô, ngọn núi Phasga, ngay trước mặt
thành Giêricô. Và Chúa cho ông thấy khắp xứ Galaad cho đến Ðan, cả miền
Nephtali, đất Ephraim và Manassê, cả xứ Giuđa cho đến Biển Tây, phần đất phía
nam vùng đồng bằng rộng lớn Giêricô, là thành cây chà là, cho đến Sêgor. Chúa
phán cùng ông rằng: "Ðây là Ðất Ta đã thề hứa với Abraham, Isaac và Giacóp
bằng những lời này: "Ta sẽ ban nó cho con cháu ngươi". Ta đã cho
ngươi thấy tận mắt xứ ấy, nhưng ngươi sẽ không được qua đến đó".
Môsê, tôi tớ của Chúa,
đã qua đời tại đó, trên đất Moab, như Chúa đã truyền dạy. Ông được chôn cất
trong thung lũng tại xứ Moab, ngay trước mặt thành Phegor. Mãi đến nay, không
ai biết ngôi mộ của ông. Khi Môsê qua đời, ông được một trăm hai mươi tuổi: mắt
vẫn chưa mờ và răng vẫn chưa lung lay. Con cái Israel thương khóc ông suốt ba
mươi ngày trong đồng bằng Moab. Ngày thọ tang Môsê chấm dứt, thì Giosuê, con
ông Nun, được đầy tinh thần khôn ngoan, vì Môsê đã đặt tay trên ông. Con cái
Israel vâng lời ông, thi hành mệnh lệnh Chúa đã truyền cho Môsê.
Về sau, trong Israel
không còn tiên tri nào như Môsê đứng lên nữa: ông là người Thiên Chúa từng quen
mặt. Biết bao dấu lạ, kỳ công Chúa đã sai ông làm trong đất Ai-cập, chống lại
Pharaon cùng tất cả triều thần và xứ sở vua ấy. Môsê đã tác oai và làm những việc
kỳ diệu vĩ đại trước mắt toàn thể Israel.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 65, 1-3a. 5
và 8. 16-17
Ðáp: Chúc tụng Chúa là Ðấng đã ban cho linh hồn chúng
tôi được sống (c. 20a & 9a).
Xướng: 1) Toàn thể đất
nước, hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy ca ngợi vinh quang danh Người; hãy kính dâng
Người lời khen ngợi hiển vinh. Hãy thưa cùng Thiên Chúa: kinh ngạc thay sự nghiệp
Chúa. - Ðáp.
2) Hãy tới và nhìn coi
sự nghiệp của Thiên Chúa. Người thi thố những chuyện kinh ngạc giữa con cái người
ta! Hỡi chư dân, hãy chúc tụng Thiên Chúa chúng tôi, và loan truyền lời ca khen
Người. - Ðáp.
3) Phàm ai tôn sợ
Chúa, hãy đến, hãy nghe tôi kể lại, Chúa đã làm cho linh hồn tôi những điều trọng
đại biết bao. Tôi đã mở miệng kêu lên chính Chúa, và lưỡi tôi đã ngợi khen Người.
- Ðáp.
Alleluia: Gc 1, 21
Alleluia, alleluia! -
Anh em hãy khiêm nhu nhận lãnh lời giao ước trong lòng, lời đó có thể cứu thoát
linh hồn anh em. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 18, 15-20
"Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh
em".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu anh em con lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó,
riêng con và nó thôi. Nếu nó nghe con, thì con đã lợi được người anh em. Nếu nó
không nghe lời con, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải
quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng
đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, con hãy kể nó như người ngoại giáo
và như người thu thuế.
"Thầy bảo thật
các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc, và những
gì các con tháo gỡ dưới đất thì trên trời cũng tháo gỡ.
"Thầy cũng bảo thật
các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều
gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc
ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Hiệp Thông
Huynh Ðệ
Một linh mục quản xứ nọ
bất ngờ nhận được một cú điện thoại hỏi xin cho biết nhân vật quan trọng X có đến
tham dự Thánh lễ sáng Chúa Nhật tới hay không? Vị linh mục trả lời: "Tôi
không biết gì về chương trình của nhân vật đó; ông ta có đến hay không, tôi
không biết; nhưng tôi có thể báo cho anh biết chắc chắn rằng trong Thánh lễ đó,
có một vị thượng khách sẽ hiện diện với chúng ta, đó là Chúa Giêsu Kitô, Con
Thiên Chúa".
Câu trả lời trên đây
có thể thức tỉnh chúng ta về thái độ trong sinh hoạt phụng vụ của cộng đoàn.
Chúng ta thường muốn có và hãnh diện vì sự hiện diện của những nhân vật quan trọng
trong những cử hành phụng vụ; trong khi đó, chúng ta lại bỏ quên hoặc lơ là với
một nhân vật quan trọng nhất, đó là Chúa Giêsu Kitô.
Chương 18 Tin Mừng
Mátthêu gồm những giáo huấn của Chúa Giêsu về thái độ của người môn đệ trong cộng
đoàn. Ở đây chúng ta đọc thấy điểm căn bản cho giáo lý về Giáo Hội như một sự
hiệp thông, một cộng đoàn, một thân thể của Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu đã quả
quyết: "Ở đâu có hai hay ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở giữa
họ". Ðây là yếu tố quyết định cho lời cầu xin của chúng ta, vì chính Chúa
Giêsu mới là Ðấng làm cho lời cầu xin của chúng ta được Thiên Chúa nhậm lời.
Một điểm nữa được nhắc
đến trong Tin Mừng hôm nay, đó là thái độ phải có đối với những người tội lỗi
trong cộng đoàn. Tội lỗi, nết xấu, đó là một thực tại không thể tránh được, dù
đó là cộng đoàn do chính Chúa Giêsu qui tụ. Cộng đoàn có Chúa hiện diện, nhưng
đồng thời là cộng đoàn bao gồm những con người yếu đuối, có thể lỗi phạm. Lời
Chúa dạy về việc sửa lỗi huynh đệ cần được chúng ta lưu tâm: Kẻ phạm lỗi kia là
người anh em chúng ta, chứ không phải là kẻ thù. Lời khuyên, sự nâng đỡ, sửa lỗi
riêng tư phải là bước đầu tiên; kế đến là việc sửa lỗi chung nhờ sự hỗ trợ của
cộng đoàn; cuối cùng là phán quyết của vị đại diện đã được Chúa trao cho tác vụ
bảo vệ sự hiệp nhất và hiệp thông cũng như chữa trị những gì làm hại đến cộng
đoàn.
Lời Chúa hôm nay mời gọi
chúng ta kiểm điểm lại thái độ sống của chúng ta: chúng ta đã làm gì để duy trì
sự hiệp nhất trong cộng đoàn? Chúng ta đã đối xử ra sao trước tội lỗi của chính
mình cũng như của người khác?
Xin Chúa tha thứ và giải
thoát chúng ta khỏi tội lỗi mà tự sức riêng, chúng ta không thoát được. Xin
Chúa luôn hiện diện với chúng ta, để chúng ta sống hiệp nhất với nhau và được
ơn cứu độ.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 19 TN1,
Năm lẻ.
Bài đọc: Deut
34:1-12; Mt 18:15-20.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chiều
kích cộng đoàn phải đặt trên chiều kích cá nhân.
Thiên Chúa không sống
một mình, Ngài hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa, với thiên thần, và với con
người. Thiên Chúa có dư uy quyền để làm tất cả mọi sự; nhưng Ngài chọn để cộng
tác với tất cả trong chương trình cứu độ của Ngài. Nếu Thiên Chúa chú trọng chiều
kích cộng đoàn hơn chiều kích cá nhân, con người cũng phải làm như thế.
Các Bài Đọc hôm nay đều
muốn nêu bật tính cộng đoàn trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Trong Bài
Đọc I, tác giả Sách Đệ Nhị Luật nêu bật sự hy sinh và lãnh đạo của ông Moses
trong việc đưa dân Chúa ra khỏi đất nô lệ của Ai-cập và vào Đất Hứa. Moses đã
hoàn tất sứ vụ Thiên Chúa trao và trước khi qua đời, ông đã chuyển giao sứ vụ
cho ông Joshua như ý Thiên Chúa muốn, để đưa dân vào Đất Hứa. Trong Phúc Âm,
Chúa Giêsu đưa ra một số điều phải làm để bảo vệ và lãnh đạo cộng đoàn: sửa lỗi
huynh đệ, quyền cầm buộc và tháo cởi, và những giờ cầu nguyện chung.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa gởi mỗi nhà lãnh đạo tới để hoàn tất một phần của
chương trình cứu độ.
1.1/ Ông Moses hoàn tất
trách nhiệm Thiên Chúa trao phó: Theo sự
quan phòng của Thiên Chúa: những gì Thiên Chúa hứa, Ngài sẽ thực hiện; khi nào
Ngài sẽ thực hiện, không ai biết được thời gian. Lịch sử cứu độ là bằng chứng của
điều này. Ông Abraham không sống trên đời để nhìn thấy ngày con cháu của ông
"đông như sao trên trời và như cát dưới biển" như ngày nay. Chúa
Giêsu không sống trên dương gian đến ngày nhìn thấy Tin Mừng lan ra đến tận
cùng bờ cõi trái đất. Và trong trình thuật hôm nay, Moses không sống để đưa con
cái Israel vào miền đất mà Thiên Chúa hứa sẽ đem dân vào khi ông đưa dân ra khỏi
Ai-cập; mặc dù Thiên Chúa đã đem ông lên núi Nebo để nhìn thấy trước vùng Đất Hứa
này. Thiên Chúa dùng mỗi nhà lãnh đạo trong một thời gian, để thực thi một phần
Kế Hoạch Cứu Độ của Ngài cho nhân loại.
1.2/ Con cái Israel nhìn
lại cuộc đời ông Moses: Nước chảy đá mòn; để
hoàn tất sứ vụ Thiên Chúa trao, ông Moses đã phải hy sinh đời mình cho con cái
Israel đến hơi thở cuối cùng. Con cái Israel than khóc cái chết của ông Moses một
phần vì hối hận đã đối xử không tốt với ông khi ông đồng hành với họ suốt 40
năm trong sa mạc, một phần vì thương tiếc cho ông đã không sống để được hưởng kết
quả mà ông đã vất vả thực hiện.
Ông Moses phải là mẫu
gương cho các nhà lãnh đạo tinh thần: Mục đích của việc lãnh đạo là hoàn tất ý
định của Thiên Chúa, chứ không phải để mưu cầu lợi ích cho bản thân mình. Những
điều họ làm cho dân chúng không luôn được định giá và mang đến kết quả ngay,
nhiều khi phải chờ đến lúc tạm biệt ra đi hay lúc chết, dân chúng mới nhìn thấy
và ghi ơn những gì họ đã làm cho dân. Con cái Israel nhận ra tất cả những gì
ông Moses đã làm cho họ:
+ Ông Moses đã chuẩn bị
cho họ có nhà lãnh đạo mới: "Ông Joshua, con ông Nun, đã được đầy thần khí
khôn ngoan, vì ông Moses đã đặt tay trên ông. Con cái Israel nghe ông và làm
như Đức Chúa đã truyền cho ông Moses." Sự nối tiếp giữa Moses và Joshua có
thể so sánh với sự nối tiếp sứ vụ tiên tri giữa Elijah và Elisha. Việc đặt tay
có ý muốn nói lên sự chuyển thông thần khí (spirit); đồng thời với việc chuyển
giao sứ vụ.
+ Ông Moses là ngôn sứ
cao trọng nhất: "Trong Israel, không còn xuất hiện một ngôn sứ nào như ông
Moses, người mà Đức Chúa biết rõ, mặt giáp mặt." Có nhiều ngôn sứ trong lịch
sử Israel; nhưng họ chỉ được nghe tiếng của Thiên Chúa trong giấc mơ hay trong
thị kiến, chỉ có ông Moses được đàm đạo với Thiên Chúa mặt đối mặt mà không phải
chết.
2/ Phúc Âm: Hiệp nhất trong cộng đoàn
2.1/ Cách sửa lỗi anh/chị/em:
Sửa lỗi người khác là một việc rất tế nhị,
nhưng phải làm vì lợi ích của cộng đoàn. Để việc sửa lỗi có kết quả, Chúa Giêsu
dạy chúng ta phải theo cẩn thận tiến trình như sau:
(1) Giữa hai người mà
thôi: "Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó,
một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được
người anh em." Hai điều Chúa muốn chúng ta lưu ý: Thứ nhất, hầu hết chúng
ta thường sửa lỗi đương sự trước mặt người thứ ba. Làm như thế sẽ không có kết
quả hay đưa đến kết quả ngược lại điều chúng ta mong muốn, vì theo tâm lý
chung, không ai muốn bị sửa lỗi trước mặt người khác, nhất là người đó lại là
người thân thiết với đương sự. Thứ hai, mục đích của việc sửa lỗi là chinh phục
đương sự, không phải là để thỏa mãn tính nóng giận.
(2) Sự thật được chứng
minh bởi hai hay ba nhân chứng: "Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem
theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời
hai hoặc ba chứng nhân." Đây là điều rất khôn ngoan vì nó giúp cho cả hai
tránh được cái nhìn chủ quan. Hầu hết các tòa án trong mọi quốc gia đều dựa vào
lời của hai hoặc ba nhân chứng.
(3) Can thiệp của cộng
đoàn: "Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó
cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế."
Cộng đoàn có thể là gia đình, đoàn thể, dòng tu, hay Giáo Hội. Đây chỉ là giải
pháp sau cùng để bảo vệ lợi ích của cộng đoàn và tránh gương mù. Người ngoại
hay người thu thuế là người không biết hay coi thường Lề Luật của Thiên Chúa.
Tuy vậy, vẫn phải tha thứ khi họ biết ăn năn trở lại.
2.2/ Thiên Chúa hiện diện
giữa cộng đoàn: Dĩ nhiên, chúng ta không phủ
nhận việc Thiên Chúa cũng hiện diện trong cá nhân; nhưng sự hiện diện của Ngài
trong cộng đoàn có một thứ tự ưu tiên hơn. Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ để chứng
minh sự hiện diện của Thiên Chúa trong cộng đoàn:
(1) Quyền cầm buộc và
tháo cởi: "Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì,
trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên
trời cũng tháo cởi như vậy." Trước tiên, quyền này áp dụng cho sự thật; chứ
không cho sự sai lầm vì Thiên Chúa là sự thật. Thứ hai, Chúa muốn nhắc nhở những
tội nhân: tuy họ chưa thấy những hậu quả xảy ra đời này, nhưng không có nghĩa họ
có thể tránh được ở đời sau. Sau cùng, Giáo Hội dùng quyền này cho Bí-tích Hòa
Giải, để tội nhân có thể làm lại cuộc đời.
(2) Hiệp nhất trong lời
cầu nguyện: "Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh
em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban
cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ."
Lời hứa này không có nghĩa tất cả những gì con người cầu xin đều được Thiên
Chúa chấp nhận. Để được Thiên Chúa nhận lời, con người phải tránh những lời cầu
xin ích kỷ hay có hại cho người khác, mà là những lời đẹp lòng Thiên Chúa và
sinh ích cho tha nhân. Thứ đến, khi Thiên Chúa nhận lời, không có nghĩa người
xin sẽ được đúng điều mình mong muốn. Thiên Chúa biết điều tốt lành, Ngài sẽ
ban những gì tốt lành cho tương lai con người. Sau cùng, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh
việc hiện diện của Ngài ngay cả khi ít người, chứ không phải chỉ những nơi có
đông người tụ họp.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa không bao
giờ muốn con người sống riêng lẻ. Ngài muốn con người sống quây quần thành đoàn
thể, và chúc lành cho các công việc của cộng đoàn.
- Mỗi khi có xung đột
quyền lợi, chúng ta phải luôn luôn đặt quyền lợi của cộng đoàn lên trên lợi ích
của cá nhân trong việc lãnh đạo, sửa lỗi, hay cầu nguyện.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
14/08/2019
THỨ TƯ TUẦN 19 TN
Mt 18,15-20
Mt 18,15-20
BIẾT NGHE NHAU
“Nếu Hội Thánh mà họ cũng chẳng nghe, thì kể họ như một người
ngoại hay một người thu thuế.”(Mt
18,17)
Suy niệm: Nghe nhau vốn là điều rất
khó nhưng lại rất cần thiết trong đời sống chung. Trong gia đình, nếu vợ chồng,
những người nói yêu nhau bằng một “tình yêu mạnh hơn sự chết”, mà không biết
nghe nhau, thì tình yêu của họ sớm muộn gì cũng sẽ chết yểu!!! Huống chi trong
Hội Thánh là thân thể mầu nhiệm của Chúa Ki-tô, khi mà công tội của mỗi người đều
ảnh hưởng đến nhau, thì nghe nhau nói và nói nhau nghe lại càng khẩn thiết hơn
bội phần. Chính vì thế Chúa Giê-su vạch ra cho chúng ta lộ trình để sửa lỗi cho
nhau. Không được im lặng đồng loã khi anh em mắc lỗi, nhưng cũng không được làm
nhục anh em mình khi sửa lỗi họ. Nhẫn nại và lắng nghe khi sửa lỗi cho nhau. Chỉ
với điều kiện: “Nếu Hội Thánh mà họ cũng chẳng nghe,” mới áp dụng
giải pháp cuối cùng: “kể họ như một người ngoại hay một người thu thuế”.
Mời Bạn: Trong tình bác ái, dám sửa
lỗi cho anh em mình là việc tốt. Đồng thời, bạn cũng biết lắng nghe ý kiến của
người khác và tu sửa chính mình.
Chia sẻ: Bạn có bao giờ sống như “dân ngoại hay người thu thuế” chưa?
Nghĩa là chẳng bao giờ biết nghe ai, nhất là khi biết mình đang cần được nâng đỡ.
Sống Lời Chúa: Quan tâm đến vai trò và sứ
mệnh của Hội Thánh khi chúng ta “có vấn đề” với nhau, vì Chúa đã nói với các
Tông Đồ: “Ai nghe các con là nghe Thầy”.
Cầu nguyện: Lạy
Chúa, “xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài trong cuộc sống”, Lời Ngài đã được mạc
khải trong Thánh Kinh, và còn được phát biểu qua miệng đồng loại, đồng đạo, qua
giáo huấn của Hội Thánh tại trần gian.
(5 phút Lời Chúa)
Sửa lỗi người anh em (14.8.20179–
Thứ tư Tuần 19 Thường niên)
Hôm nay Chúa Giêsu vẫn
đồng hành với chúng ta khi ta để cho Ngài quy tụ. Ngài vẫn hiện diện ở nơi nhóm
bạn có chung một niềm tin và tình yêu.
Suy niệm:
Trong Giáo hội ngay từ
thuở ban đầu, đã có những người sai lỗi.
Nếu đó chỉ là những
sai lỗi nhỏ giữa các cá nhân trong cộng đoàn
thì cần tha thứ cho
nhau (Lc 17, 3-4).
Nhưng nếu đó là những
sai lỗi nghiêm trọng đụng chạm đến cộng đoàn,
vô tình hay cố ý sống
ngược với giáo huấn căn bản của Đức Giêsu,
thì cộng đoàn không thể
nhắm mắt làm ngơ
mà không sửa sai cho
người anh em phạm lỗi.
Bài Tin Mừng hôm nay
phản ánh cách sửa lỗi trong cộng đoàn thánh Mátthêu.
Người phạm lỗi nặng ở
đây vẫn được gọi là người anh em (c. 15).
Tiến trình sửa sai
huynh đệ này diễn ra từ từ, từng bước một.
Bước này thất bại mới chuyển
qua bước kế tiếp.
Bước một là cuộc gặp gỡ
kín đáo giữa người sửa lỗi và người phạm lỗi.
Mục đích là để giúp
người phạm lỗi biết lắng nghe lời góp ý chân tình,
nhận ra lỗi của mình
và thay đổi cuộc sống cho phù hợp.
Bước hai diễn ra khi
bước một thất bại, khi người phạm lỗi không chịu nghe.
Người sửa lỗi sẽ đem
theo hai, ba người nữa để tăng sức thuyết phục.
Nếu người phạm lỗi vẫn
khăng khăng không nghe,
thì bước kế tiếp là phải
đưa chuyện này ra trước Giáo hội địa phương (c. 17).
Bước cuối cùng chỉ xảy
ra khi người anh em ấy vẫn ngoan cố,
không muốn nghe tiếng
nói của cộng đoàn Giáo hội,
nghĩa là tự đặt mình
ra ngoài sự hiệp thông với cộng đoàn tín hữu,
thì Giáo hội đành lòng
không nhận anh ấy như phần tử của Giáo hội nữa.
Có thể ngày nay Giáo hội
có những cách sửa lỗi khác,
nhưng những nét dưới
đây vẫn giữ nguyên giá trị:
coi người phạm lỗi như
anh em và không muốn mất người ấy,
kiên trì đối thoại, cố
gắng để người anh em ấy nghe ra và nhận lỗi,
kín đáo giữ thanh danh
cho người ấy, đi từng bước trước khi quyết định.
Ngay cả khi Giáo hội
đã đưa ra quyết định cuối cùng,
thì việc trở lại với cộng
đoàn vẫn luôn mở ngỏ, nếu người ấy muốn làm hòa.
Đức Giêsu phục sinh đã
cho Giáo hội dưới quyền thánh Phêrô
được quyền tháo cởi và
ràng buộc (Mt 16, 19b; Ga 20, 23)
khi phải đưa ra các
quyết định về những phần tử của mình (c. 18).
Sự hiện diện của những
nhóm nhỏ trong cộng đoàn là điều có từ xưa.
Tuy nhóm chỉ có hai
người, nhưng nếu họ đồng lòng xin một ơn nào đó,
thì Cha trên trời sẽ
ban cho (c. 19).
Có nhóm hai hay ba người
hội họp với nhau nhân danh Đức Giêsu,
thì Ngài có mặt ở
trong cuộc gặp gỡ đó, và Ngài ở giữa họ (c. 20).
Đức Giêsu là Đấng
Emmanuen, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt 1, 23).
Đức Giêsu phục sinh
cũng hứa ở với các môn đệ cho đến tận thế (Mt 28, 20).
Chính vì thế Ngài hiện
diện một cách kín đáo, thầm lặng
nơi những cuộc hội họp
nhỏ bé nhất giữa các tín hữu.
Thiên Chúa đã đi với
dân Ngài trong hoang địa.
Hôm nay Chúa Giêsu vẫn
đồng hành với chúng ta khi ta để cho Ngài quy tụ.
Ngài vẫn hiện diện ở
nơi nhóm bạn có chung một niềm tin và tình yêu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc đời chúng con diễn ra quanh những chiếc bàn,
làm bằng những chất liệu khác nhau,
kiểu dáng khác nhau, đặt ở những chỗ khác nhau.
Nơi bàn học,
Ngài mở trí tuệ chúng con
trước những chân trời mới,
và dạy chúng con học đạo làm người.
Nơi bàn ăn,
Ngài nuôi dưỡng thân xác chúng con
để chúng con có sức phục vụ tha nhân.
Nơi bàn làm việc,
Ngài cho chúng con được cộng tác với Ngài
trong việc xây dựng thế giới đại đồng huynh đệ.
Nơi bàn thờ,
Ngài cho chúng con được hiệp thông với Ngài,
và hiệp nhất với nhau qua một tấm bánh thánh.
Lạy Chúa,
giờ đây chúng con ngồi quanh chiếc bàn này,
để gặp gỡ, chia sẻ, để bàn bạc, thảo luận,
để cùng nhau tìm ý Chúa và đem ra thực hành.
Xin thánh hóa những chiếc bàn chúng con sử dụng
để tất cả trở nên con đường
đưa chúng con đến hưởng bàn tiệc thiên quốc. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
14 THÁNG TÁM
Mục Đích Phổ Quát Của
Con Người Trong Kế Hoạch Của Thiên Chúa
Tuy nhiên, Công Đồng
không nhắm mắt trước những vấn đề ngổn ngang mà con người đối mặt khi phát triển
trái đất, cả những vấn đề trong chính mình lẫn những vấn đề trong cuộc sống với
người khác. Sẽ là thiếu thành thật nếu phớt lờ những vấn đề ấy; cũng vậy, sẽ là
một sai lầm nếu trình bày các vấn đề ấy một cách không đúng đắn và không phù hợp
qua việc không qui chiếu đến sự quan phòng và ý định của Thiên Chúa.
Công Đồng nói: “Ngày
nay, tuy đã tự hào trước những khám phá và quyền lực mình, nhân loại vẫn thấy
lo lắng thắc mắc về sự tiến hóa hiện nay của thế giới, về chỗ đứng và phận vụ của
con người trong vũ trụ, về ý nghĩa của những cố gắng cá nhân cũng như tập thể,
và sau hết về cùng đích của con người và muôn loài” (MV 3).
Rồi Công Đồng tiếp tục
giải thích: “Cũng như trong bất cứ cơn khủng hoảng tăng trưởng nào, sự biến đổi
này kéo theo những khó khăn không nhỏ. Chẳng hạn như đang khi bành trướng quá rộng
quyền lực của mình, không phải lúc nào con người cũng có thể bắt nó phục vụ
mình. Cố gắng đi sâu hơn vào thâm tâm mình, con người nhiều khi lại tỏ ra hoang
mang hơn về chính mình. Dò dẫm tìm hiểu rõ hơn những luật lệ của đời sống xã hội,
con người lại do dự không dám định đoạt hướng đi cho mình” (MV 4).
Một cách rất ấn tượng,
Công Đồng nói về “những mâu thuẫn và chênh lệch” là hệ lụy của sự thay đổi
“nhanh chóng và lộn xộn” trong các điều kiện kinh tế xã hội, trong tập quán,
trong văn hóa, trong suy nghĩ và trong lương tâm con người, trong gia đình,
trong các mối quan hệ xã hội, trong quan hệ giữa các nhóm, các cộng đồng và các
quốc gia. Điều này gây ra “những ngờ vực và thù nghịch nhau, những xung đột và
thống khổ mà chính con người là nguyên nhân và nạn nhân.” (MV 8-10).
Cuối cùng, Công Đồng vạch
ra gốc rễ của vấn đề nói trên khi tuyên bố: “Những chênh lệch dày vò thế giới
ngày nay gắn kết với một chênh lệch căn bản hơn phát xuất từ đáy lòng con người”
(MV 10).
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 14- 8
Đnl 34, 1-12; Mt
18, 15-20.
Lời suy niệm: “Thầy còn bảo thật
anh em, nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì,
thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người hợp lại
nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.”
Lời nói này của Chúa
đang nói cho hết thảy mọi người; nhưng cách riêng nào đó thì chính Chúa cũng
đang mời gọi từng gia đình một, trong nhân loại. Bởi vì không có cộng đoàn nào
có sự gắn kết, gần gũi và yêu thương nhau cho bằng những người trong một gia
đình, họ thấy được những nhu cầu cần thiết của nhau và cho nhau.
Lạy Chúa Giêsu. Xin
cho tất cả chúng con có được đức tin, tin vào một mình Chúa; tin vào tình yêu
thương vào sự quan phòng của Chúa; Nhờ đó những ơn ban của Chúa, sẽ giúp chúng
con luôn được sống trong bình an.
Mạnh Phương
Hạnh Các Thánh
14 Tháng Tám
Thánh Maximilian Mary Kolbe
(1894-1941)
Thánh Maximilian Mary Kolbe
(1894-1941)
Không hiểu tương lai của
con sẽ ra sao!" Ðó là câu mà nhiều cha mẹ từng than thở với đứa con hay
đau yếu. Nhưng với Thánh Maximilian Mary Kolbe thì khác. Ngay từ nhỏ, khi được
cha mẹ hỏi, ngài trả lời, "Con tha thiết cầu xin với Ðức Mẹ để biết tương
lai của con. Và Ðức Mẹ đã hiện ra, tay cầm hai triều thiên, một mầu trắng, một
mầu đỏ. Ðức Mẹ hỏi con có muốn nhận các triều thiên ấy không -- mầu trắng là sự
thanh khiết, mầu đỏ là sự tử đạo. Con trả lời, 'Con muốn cả hai.' Ðức Mẹ mỉm cười
và biến mất." Sau biến cố đó, cuộc đời của Maximilian Kolbe không còn giống
như trước.
Ngài gia nhập tiểu chủng
viện của các cha Phanxicô ở Lwow, Ba Lan, gần nơi sinh trưởng, và lúc ấy mới 16
tuổi. Mặc dù sau này ngài đậu bằng tiến sĩ về triết học và thần học, nhưng ngài
rất yêu thích khoa học, có lần ngài phác họa cả một phi thuyền không gian.
Sau khi thụ phong linh
mục lúc 24 tuổi, ngài nhận thấy sự thờ ơ tôn giáo là căn bệnh nguy hiểm vào thời
ấy. Nhiệm vụ của ngài là phải chiến đấu chống với căn bệnh này. Ngài sáng lập tổ
chức Ðạo Binh của Ðức Vô Nhiễm mà mục đích là chống lại sự dữ qua đời sống tốt
lành, siêng năng cầu nguyện, làm việc và chịu đau khổ. Ngài phát hành tờ Hiệp
Sĩ của Ðức Vô Nhiễm, được đặt dưới sự phù hộ của Ðức Maria để rao giảng Phúc Âm
cho mọi dân tộc. Ðể thực hiện công việc ấn loát, ngài thành lập "Thành Phố
của Ðức Vô Nhiễm" - Niepolalanow -- mà trong đó có đến 700 tu sĩ Phanxicô
làm việc. Sau này, ngài thành lập một thành phố khác ở Nagasaki, Nhật Bản. Cả tổ
chức Ðạo Binh và tờ nguyệt san có đến 1 triệu hội viên cũng như độc giả. Tình
yêu Thiên Chúa của ngài được thể hiện hằng ngày qua sự sùng kính Ðức Maria.
Năm 1939, Ðức Quốc Xã
xâm lăng Ba Lan. Thành phố Niepolalanow bị dội bom. Cha Kolbe và các tu sĩ
Phanxicô bị bắt, nhưng sau đó chưa đầy ba tháng, tất cả được trả tự do, vào
đúng ngày lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Vào năm 1941, ngài bị
bắt một lần nữa. Mục đích của Ðức Quốc Xã là thanh lọc những phần tử tuyển chọn,
là các vị lãnh đạo. Cuộc đời Cha Kolbe kết thúc trong trại tập trung Auschwitz.
Vào ngày 31 tháng Bảy
1941, có một tù nhân trốn thoát. Sĩ quan chỉ huy trại bắt 10 người khác phải chết
thay. Hắn khoái trá bước dọc theo dãy tù nhân đang run sợ chờ đợi sự chỉ định của
hắn như tiếng gọi của tử thần. "Tên này." "Tên kia." Có những
tiếng thở phào thoát nạn. Cũng có tiếng nức nở tuyệt vọng.
Trong khi 10 người xấu
số lê bước về hầm bỏ đói, bỗng dưng tù nhân số 16670 bước ra khỏi hàng.
"Tôi muốn thế chỗ
cho ông kia. Ông ấy có gia đình, vợ con."
Cả một sự im lặng nặng
nề. Tên chỉ huy sững sờ, đây là lần đầu tiên trong đời hắn phải đối diện với một
sự can đảm khôn cùng.
"Mày là ai?"
"Là một linh mục."
Không cần xưng danh tính cũng không cần nêu công trạng.
Và Cha Kolbe được thế
chỗ cho Trung Sĩ Francis Gajowniczek.
Trong "hầm tử thần"
tất cả bị lột trần truồng và bị bỏ đói để chết dần mòn trong tăm tối. Nhưng
thay vì tiếng rên xiết, người ta nghe các tù nhân hát thánh ca. Vào ngày lễ Ðức
Mẹ Hồn Xác Lên Trời (15 tháng Tám) chỉ còn bốn tù nhân sống sót. Tên cai tù chấm
dứt cuộc đời Cha Kolbe bằng một mũi thuốc độc chích vào cánh tay. Sau đó thân
xác của ngài bị thiêu đốt cũng như bao người khác.
Cha được Ðức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh năm 1981.
Lời Bàn
Cái chết của Cha Kolbe
không phải là một hành động anh hùng bất chợt, bốc đồng vào giây phút cuối. Cả
cuộc đời ngài đã chuẩn bị cho giây phút đó. Sự thánh thiện của ngài được thể hiện
qua niềm khát khao muốn hoán cải cả thế giới mà động lực là tình yêu của ngài
dành cho Ðức Mẹ Vô Nhiễm.
Lời Trích
"Hãy can đảm
lên các con. Các con không thấy chúng ta đang trên đường thi hành sứ vụ hay
sao? Chúng ta phải trả một giá quá rẻ. Thật may mắn biết chừng nào! Ðiều bây giờ
chúng ta phải làm là chú tâm cầu nguyện để chiếm đoạt càng nhiều linh hồn càng
tốt. Và sau đó, chúng ta sẽ thưa với Ðức Trinh Nữ là chúng ta rất mãn nguyện để
ngài muốn làm gì với chúng ta tùy ý" (Lời
Thánh Maximilian Mary Kolbe trong lần bị bắt đầu tiên).
Trích từ NguoiTinHuu.com
14 Tháng Tám
Còn Tình Nào Cao Quý Hơn
Vào khoảng cuối
tháng 7/1941, một tù nhân đã trốn khỏi trại tập trung Auschwitz. Theo quy định
của những người Ðức quốc xã đang điều khiển trại, cứ một tù nhân đào thoát, thì
10 người khác phải thế mạng.
Duyệt qua khu biệt
giam, viên chỉ huy Fritsch trỏ tay vào hàng rào các tù nhân và ông đếm từ 1 đến
10. Mười người bị tử thần chiếu cố đã lần lượt tiến đến trước mặt người đồ tể.
Người thứ mười đứng cạnh cha Maximiliano Kobel chợt la lên thảm thiết: "Vợ
tôi, con tôi, trời ơi! Tôi sẽ không bao giờ gặp được vợ con tôi". Cha
Maximiliano Kobel đã kéo người tử tội thứ mười đó lại và ngài tiến ra đứng thế
chỗ cho anh...
Sau này, Francis
Gajownizcek, người đàn ông đã được cha Maximiliano Kobel chết thế đã kể lại:
Tinh thần trong trại thay đổi hẳn. Sự kiện này đã tạo ra một ấn tượng cao đẹp
vàsâu xa... Vị linh mục dòng Fanxico đó không những chỉ chia sẻ cho các bạn tù
một mẩu bánh, vài muỗng xúp, nhưng là chính mạng sống của mình để chuộc mạng
cho người khác...
Liên tiếp trong hai
tuần, cha Maximiliano Kobel đã phải nhịn đói, nhịn khát để chờ chết. Cơn hấp hối
kéo dài quá lâu khiến những người Ðức quốc xã không thể chờ đợi được. Sau cùng,
viên lý hình đã kết thúc cuộc đời của cha bằng một mũi thuốc độc.
Thân xác của cha đã
được hỏa táng và tro tàng đã được rắc trên đồng lúa như phân bón. Nguyện ước
lúc thiếu thời của cha đã được thành tựu: "Tôi ước ao được hóa thành tro bụi
vì Ðức Trinh Nữ Vô Nhiễm nguyên tội. Ước gì tro đó được reo rắc khắp nơi trên
thế giới để không còn một mảnh thi hài nào còn sót lại...".
Nhà tù nào cũng có thể
là một hỏa ngục: hỏa ngục của hận thù, của ích kỷ, của phản bội. Có lẽ nhiều
người Việt Nam đã và đang trải qua những hành hạ dã man gấp bội phần những gì
đã diễn ra trong các trại tập trung thời Ðức quốc xã...
Nhà tù có thể là hỏa
ngục, nhưng cũng có thể là Thiên Ðàng: Thiên Ðàng của hy sinh, nhẫn nhục, yêu
thương, tha thứ, quảng đại... Biết bao nhiêu hoa thơm đã chớm nở trong cảnh khốn
cùng ấy. Khốn khổ càng nhiều, hy sinh càng cao.
"Không có tình yêu nào cao quý bằng tình yêu của người thí mạng sống vì người mình yêu". Chúa Giêsu đã tuyên bố như thế và Ngài đã đi đến cùng cam kết của Ngài. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá không những là sự thể hiện của sự độc ác dã man của con người, nó còn là dấu chỉ của mối tình của một người đã yêu và yêu cho đến cùng...
"Không có tình yêu nào cao quý bằng tình yêu của người thí mạng sống vì người mình yêu". Chúa Giêsu đã tuyên bố như thế và Ngài đã đi đến cùng cam kết của Ngài. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá không những là sự thể hiện của sự độc ác dã man của con người, nó còn là dấu chỉ của mối tình của một người đã yêu và yêu cho đến cùng...
Cái chết hy sinh vì
người khác, Chúa Giêsu muốn luôn được tiếp tục qua cuộc sống của người Kitô. Ðã
có rất nhiều người đã lập lại cái chết đó qua suốt lịch sử của Giáo Hội và hiện
nay, còn biết bao nhiêu người vẫn còn tái diễn cái chết đó qua những hy sinh hằng
ngày của mình...
Hôm nay, chúng ta kính
nhớ thánh Maximiliano Kobel, ngưòi đã chết thay cho một người bạn tù. Ðức Thánh
Cha Gioan Phaolô II đã phong thánh cho ngài ngày 10/10/1982 và đặt ngài làm
quan thầy của thời đại khó khăn. Kinh nghiệm của ngài chắc chắn đang tái diễn hằng
ngày trong xã hội chúng ta, trong đó người Kitô không ngừng được mời gọi để
quên mình và sống cho người khác.
(Lẽ Sống)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét