16/08/2019
Thứ sáu tuần 19
thường niên
BÀI ĐỌC I: Gs 24, 1-13
“Ta đã đem tổ phụ các ngươi từ
Mêsôpôtamia về, đã dẫn các ngươi ra khỏi Ai-cập, đã đem các ngươi vào đất nước”.
Trích sách ông
Giosuê.
Trong những ngày ấy, Giosuê triệu tập tất cả các chi tộc lại ở Sikem, rồi
gọi các kỳ lão, các thủ lãnh gia tộc, quan án, sĩ quan đến, và họ đứng trước mặt
Thiên Chúa. Giosuê liền nói với toàn dân như thế này:
Chúa là Thiên Chúa Israel phán rằng: Thuở xưa tổ tiên các ngươi là Tharê,
cha của Abraham và Nacor, đã ở bên kia sông, và đã thờ các thần ngoại. Bấy giờ
Ta đã đem Abraham, tổ phụ các ngươi, từ bên kia sông và đã dẫn đưa ông vào đất
Canaan. Ta lại làm cho con cháu ông trở nên đông đúc, đã ban cho ông được
Isaac. Ta lại ban cho Isaac được Giacóp và Êsau. Trong hai người này, Ta đã ban
cho Êsau miền núi Sêir làm sản nghiệp. Còn Giacóp và con cái thì xuống Ai-cập.
Sau đó, Ta đã sai Môsê và Aaron, và trừng phạt Ai-cập bằng những phép lạ.
Rồi Ta đã dẫn các ngươi và cha ông các ngươi ra khỏi Ai-cập, và các ngươi đã đi
tới Biển. Người Ai-cập đuổi theo cha ông các ngươi với chiến xa binh mã cho đến
Biển Đỏ. Bấy giờ con cái Israel kêu cầu Chúa và Người đã khiến sự tối tăm ngăn
giữa các ngươi và quân Ai-cập, và làm cho biển tràn ra mà vùi lấp chúng. Chính
mắt các ngươi đã thấy tất cả những gì Ta đã làm ở Ai-cập, rồi các ngươi đã ở
lâu trong hoang địa.
Sau đó, Ta đã đưa các ngươi vào xứ Amorê, bên kia sông Giođan. Chúng đã
giao chiến với các ngươi và Ta đã trao chúng trong tay các ngươi. Các ngươi đã
chiếm được đất đai của chúng, và Ta đã tiêu diệt chúng trước mặt các ngươi. Rồi
Balac, con Sêphor, vua xứ Moab, dấy lên giao chiến với Israel. Vua ấy đã cho mời
Balaam, con của Bêor, đến để chúc dữ các ngươi. Ta không muốn nghe Balaam.
Nhưng trái lại Ta đã dùng nó chúc phúc cho các ngươi và Ta đã cứu các ngươi
thoát khỏi bàn tay nó.
Sau đó, các ngươi đã qua sông Giođan và đến Giêricô, dân thành này, cũng
như các người Amorê, Phêrêsê, Canaan, Hêthê, Gergêsê, Hêvê, Giêbusê, đã giao
chiến với các ngươi. Nhưng Ta đã trao chúng trong tay các ngươi. Ta đã cho ong
bò vẽ đi trước các ngươi, và Ta đuổi hai vua xứ Amorê ra khỏi các địa hạt của họ
mà không cần nhờ đến cung kiếm của các ngươi. Ta đã ban cho các ngươi một vùng
đất mà các ngươi không mất công đánh chiếm. Ta đã cho các ngươi được ở những
thành mà các ngươi không phải xây cất, Ta đã cho các ngươi những vườn nho và vườn
ôliu mà các ngươi không vun trồng. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 135, 1-3.
16-18. 21-22 và 24
Đáp: Bởi đức từ bi
Người muôn thuở.
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Hãy ca ngợi Chúa, vì Người hảo tâm, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Hãy
ca ngợi Thiên Chúa của chư thần, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Chỉ mình Người
làm những việc kỳ diệu vĩ đại, bởi đức từ bi Người muôn thuở. – Đáp.
2) Người đã dẫn đưa dân Người qua sa mạc, bởi đức từ bi Người muôn thuở.
Người đã đánh dẹp các đại vương đế, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Người đã giết
các vua quyền thế, bởi đức từ bi Người muôn thuở. – Đáp.
3) Người đã ban đất chúng để làm gia sản, bởi đức từ bi Người muôn thuở.
Làm gia sản của Israel tôi tớ Người, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Người đã giải
thoát chúng ta khỏi quân thù địch, bởi đức từ bi Người muôn thuở. – Đáp
ALLELUIA: 1 Ga 2, 5
Alleluia, alleluia!
– Ai giữ lời Chúa Kitô, thì quả thật, tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi
người ấy. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 19, 3-12
“Vì lòng chai đá của các ngươi
mà Môsê đã cho phép các ngươi rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, có những người biệt phái đến cùng Chúa Giêsu và hỏi thử Người rằng:
“Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lẽ gì không?” Người đáp: “Nào các ông đã chẳng đọc
thấy rằng: Từ thuở ban đầu, Tạo Hoá đã dựng loài người có nam có nữ, và Người
đã phán: Bởi thế nên người nam sẽ bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai sẽ
nên một thân xác? Cho nên họ không còn là hai, nhưng là một thân xác. Vậy điều
gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly”. Họ hỏi lại: “Vậy
tại sao Môsê đã truyền cấp tờ ly hôn mà cho rẫy vợ?” Người đáp: “Vì lòng chai
đá của các ông mà Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không
có như vậy. Tôi bảo các ông rằng: Ai rẫy vợ, trừ nố gian dâm, và đi cưới vợ
khác, thì phạm tội ngoại tình. Và ai cưới người đã bị rẫy, cũng phạm tội ngoại
tình”.
Các môn đệ thưa Người rằng: “Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì tốt
hơn đừng cưới vợ”. Người đáp: “Không phải mọi người hiểu được điều ấy, nhưng chỉ
những ai được ban cho hiểu mà thôi. Vì có những hoạn nhân từ lòng mẹ sinh ra,
có những hoạn nhân do người ta làm nên, và có những người vì Nước Trời, tự trở
thành hoạn nhân. Ai có thể hiểu được thì hiểu”. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Vấn Ðề Ly Dị
Vào thời Chúa Giêsu, dựa trên luật Môsê được ghi lại trong sách Tl 14,
1-4, thì mọi trường phái giải thích luật đều phải nhìn nhận việc ly dị, nhưng
có điểm khác nhau về lý do ly dị. Trường phái Hillel cho phép ly dị vì bất cứ
lý do gì, còn trường phái Shammai gắt gao hơn, chỉ cho phép ly dị trong trường
hợp ngoại tình mà thôi.
Những người Biệt phái đến chất vấn Chúa Giêsu như được ghi lại trong Tin
Mừng hôm nay, không phải về việc có được phép ly dị hay không, nhưng về lý do của
việc ly dị: họ muốn Chúa Giêsu phải chọn một trong hai lập trường: hoặc cho
phép ly dị vì bất cứ lý do gì, hoặc chỉ cho phép ly dị trong trường hợp ngoại
tình.
Trong câu trả lời, Chúa Giêsu không theo lập trường của con người, không
đứng về nhóm nào, nhưng Ngài kêu gọi trở về với chương trình nguyên thủy của
Thiên Chúa khi tạo dựng con người: "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người
không được phân ly". Ðời sống hôn nhân và gia đình giữa người nam và người
nữ là một định chế do chương trình của Thiên Chúa khi tạo dựng con người, chứ
không do con người thiết định. Môsê cho phép ly dị vì chiều theo lòng dạ chai
đá của dân chúng, chứ ngay từ đầu không có như vậy.
Chứng kiến cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và những người Biệt phái, các
môn đệ phản ứng: "Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì thà đừng lấy vợ
còn hơn". Trong câu trả lời, Chúa Giêsu cho các ông biết là cần phải có ơn
Chúa, con người mới có thể hiểu rõ ơn gọi cao cả của đời sống hôn nhân cũng như
của đời sống độc thân trinh khiết vì Nước Trời. Bậc sống độc thân hoặc lập gia đình,
không phải thuần túy tùy thuộc ý định con người, nhưng là một ơn ban đến từ
Thiên Chúa. Nếu không tin có Thiên Chúa và bị ảnh hưởng của tinh thần thế tục,
con người sẽ không hiểu giá trị cũng như không thể sống trọn vẹn ơn gọi độc
thân hoặc lập gia đình. "Ai có thể hiểu được thì hiểu", ơn ban của
Thiên Chúa tùy thuộc tự do của con người. Con người thời nay đã lạm dụng tự do
để quyết định những điều nghịch lại chương trình của Thiên Chúa. Con người đã
trần tục hóa cả bậc độc thân lẫn bậc hôn nhân và gia đình. Tất cả đều được
phép, kể cả việc hai người cùng phái tính được luật pháp cho phép sống với nhau
như vợ chồng, để rồi tình thương của cha mẹ đối với con cái trong trường hợp
nào cũng bị hạ thấp.
Người Kitô hữu chúng ta đừng để mình bị cám dỗ chạy theo tâm thức trần tục.
Giải pháp cho vấn đề không phải là luật lệ do con người đặt ra, nhưng là tình
thương, là trở về với Thiên Chúa và chương trình nguyên thủy của Ngài khi tạo dựng
con người. Ðiều này đòi hỏi nhiều cố gắng hy sinh, nhưng đó là bí quyết để con
người sống trọn ơn gọi của mình và đạt hạnh phúc vĩnh cửu. Chúng ta đừng sợ cố
gắng hy sinh, bởi vì Thiên Chúa sẽ trợ giúp chúng ta, nếu chúng ta mở rộng tâm
hồn đón nhận Ngài và để Ngài hướng dẫn cuộc đời chúng ta.
Xin Chúa canh tân tình yêu chúng ta, cho tình yêu chúng ta hòa nhập vào
tình yêu thần thiêng của Chúa, để chúng ta sống trọn vẹn ơn gọi của chúng ta
theo đúng chương trình của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 19 TN1
Bài đọc: Jos 24:1-13; Mt 19:3-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sống trung thành với ơn gọi của mình.
Có nhiều lý do con người vịn vào để từ chối giữ lòng trung thành: tại
không biết, tại hoàn cảnh, tại gia đình, tại người khác, tại yếu đuối … Nhưng
Thiên Chúa dạy: Để chu toàn hai giới răn “mến Chúa, yêu người,” con người phải
trung thành với Thiên Chúa và với tha nhân trong mọi trạng huống của cuộc đời.
Con người dễ dàng trung thành lúc vui vẻ, hạnh phúc, bình an; nhưng những lúc
khó khăn hoạn nạn mới chứng tỏ tình yêu trung thành của con người. Thánh M.
Kolbe mà chúng ta mừng hôm nay, đã chứng tỏ tình yêu đối với Thiên Chúa và tha
nhân bằng cách tình nguyện chết thay cho một chàng thanh niên để anh có thể sống
và chăm sóc vợ con của anh.
Các Bài Đọc hôm nay đưa ra những lý do tại sao con người cần phải trung
thành với Thiên Chúa và với tha nhân. Trong Bài Đọc I, ông Joshua triệu tập tất
cả con cái Israel lại để nhắc nhở cho họ biết sự trung thành của Thiên Chúa qua
những gì Ngài đã làm cho tổ tiên và dân tộc Israel. Mục đích là để họ nhận ra
tình yêu của Thiên Chúa và sống trung thành với Ngài. Trong Phúc Âm, những người
Pharisees đến hỏi Chúa về việc có được ly dị vợ vì bất cứ lý do gì hay không?
Chúa Giêsu trả lời cách tuyệt đối: không được; vì đó là thánh ý của Thiên Chúa
ngay từ ban đầu. Ngoài ra, Chúa Giêsu cũng muốn nói tới sự trung thành trong đời
sống độc thân vì Nước Trời: vì yêu Chúa và tha nhân, có những người tình nguyện
hy sinh cả cuộc đời cho phần rỗi linh hồn của tha nhân.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Vì Thiên Chúa đã luôn trung
thành, anh em cũng phải trung thành với Ngài:
Ông Joshua quy tụ mọi chi tộc Israel ở Shechem, và nhắc nhở cho toàn dân
biết tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho dân tộc họ:
(1) Những gì Ngài đã làm cho các tổ-phụ Abraham, Isaac và Jacob: Đây là
ba Tổ phụ của con cái Israel. Bắt đầu với Abraham, Thiên Chúa chọn ông khi ông
chưa biết Thiên Chúa và vẫn đang thờ kính các thần ngoại. Ngài chọn ông và hứa
sẽ ban hai điều: con cái đông đúc như sao trên trời dù ông hiếm hoi, và cho ông
xem miền Đất Hứa, nơi mà con cháu ông sẽ chiếm hữu và sinh sống sau này. Điều
thứ nhất được khơi mào khi Thiên Chúa ban cho ông Isaac trong lúc tuổi già. Từ
đó, Ngài đã ban cho Isaac sinh ra hai giòng tộc lớn là Jacob và Esau. Ngài cho
Esau chiếm hữu núi Seir. Còn Jacob và các con thì xuống Ai-cập.
(2) Những gì Ngài đã làm cho Moses và con cái Israel: Khi Giuse bị bán
sang Ai-cập, Thiên Chúa quan phòng để ông Giuse đưa cha và tất cả anh em sang
Ai-cập để tránh nạn đói lớn đang xảy ra thời đó. Khi con cái Israel bị đối xử
tàn nhẫn như nô lệ bên Ai-cập, Thiên Chúa đã truyền cho Moses và Aaron lãnh đạo
dân ra khỏi Ai-cập bằng những uy quyền qua việc gieo rắc bảy tai ương và đưa
dân vượt qua Biển Đỏ.
(3) Những gì Ngài đã chuẩn bị cho dân chúng trước khi vào Đất Hứa: Ta đã
đem các ngươi vào đất người Amorites. Chúng ở bên kia sông Jordan. Chúng đã
giao chiến với các ngươi, nhưng Ta đã nộp chúng vào tay các ngươi. Các ngươi đã
chiếm đất của chúng, và Ta đã tiêu diệt chúng trước mắt các ngươi.
(4) Những gì Ngài đã làm cho con cái Israel trong Đất Hứa: “Các ngươi đã
qua sông Jordan và tới Jericho. Những người làm chủ Jericho giao chiến với các
ngươi: Ta đã nộp chúng vào tay các ngươi. Ta đã thả ong bầu bay đi trước các
ngươi; chúng đuổi hai vua Amorites đi cho khuất mắt các ngươi; chính ong bầu chứ
không phải cung kiếm của các ngươi đã đuổi chúng.
Kết luận: Với chiến thắng Jericho va những chiến thắng sau này, Thiên
Chúa đã hoàn tất lời hứa thứ hai là đem dân vào Đất Hứa mà Ngài đã hứa với
Abraham: ”Ta ban cho các ngươi đất các ngươi đã không vất vả khai phá, những
thành các ngươi đã không xây mà được ở, những vườn nho và vườn ô-liu các ngươi
đã không trồng mà được ăn.” Khi nhắc nhở những điều này, ông Joshua muốn cho
con cái Israel thấy tình yêu và lòng trung thành của Thiên Chúa: Ngài luôn thực
hiện những gì Ngài hứa dù con cái Israel luôn cứng lòng phản bội Ngài. Ông
Joshua mong muốn dân nhận ra để rồi họ biết trung thành yêu thương và giữ các Lề
Luật của Ngài, như chúng ta sẽ nghe ngày mai.
2/ Phúc Âm: Thiên Chúa ban ơn thánh đủ để con
người trung thành trong ơn gọi của mình.
2.1/
Trung thành trong ơn gọi gia đình: Trước tiên, chúng ta cần biết một ít kiến thức về hôn nhân và lề luật
liên quan đến ơn gọi gia đình và sự ly dị của người Do-thái. Người Do-thái coi
trọng việc kết hôn vì qua đó, họ giữ lệnh truyền của Thiên Chúa: “Hãy sinh sôi
cho đầy mặt đất.” Vì thế, kết hôn là một bổn phận phải làm, trừ những người muốn
đình hoãn việc kết hôn để học hỏi Lề Luật. Về vấn đề ly dị, Sách Đệ Nhị Luật viết:
“Nếu một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không
đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng
(indecency, ervat trong MT, askemon trong
LXX), thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi
nhà” (Deut 24:1). Từ indecency rất mơ hồ và có hai nghĩa
chính: (1) không thích hợp; và (2) những hành vi vô luân. Có hai trường phái
chính cắt nghĩa chữ này như sau: Trường phái bảo thủ Shammai hiểu từ này có nghĩa
“ngoại tình;” người chồng chỉ có thể ly dị vợ mình vì lý do vợ ngoại tình mà
thôi. Trường phái cấp tiến Hillel hiểu theo nghĩa thứ nhất: tất cả những gì người
chồng thấy không xứng đáng nơi người vợ: không biết nấu nướng, đầu xù tóc rối
nơi công cộng, mạ lỵ chồng… Rabbi Akiba còn đi xa hơn: nếu chồng không còn thấy
nét quyến rũ nơi vợ mình nữa. Với sự hiểu biết đó, có mấy người Pharisees đến gần
Đức Giêsu để thử Người. Họ nói: “Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ
lý do nào không?”
Chúa đáp: “Các ông không đọc thấy điều này sao: “Thuở ban đầu, Đấng Tạo
Hoá đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: “Vì thế, người ta sẽ
lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy,
họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã
phối hợp, loài người không được phân ly.”” Trước hết, đây là ý muốn và là
nguyên lý sống của Thiên Chúa cho con người; điều mà con người phải cố gắng giữ
để nên trọn lành như Thiên Chúa, Đấng luôn trung thành với con người.
Họ thưa với Người: “Thế sao ông Moses lại truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy
vợ?” Người bảo họ: “Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Moses đã cho phép các
ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu. Tôi nói cho các ông biết: Ngoại
trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại
tình.” Thiên Chúa cũng như ông Moses quá hiểu sự cứng lòng của con người, nên
có những luật riêng để giải thoát con người khỏi những trường hợp khó khăn
ngoài ý muốn. Dù con người không đạt tới mức trọn lành như Thiên Chúa mong muốn,
ông Moses hay Giáo Hội cũng phải giúp con người vượt qua các khó khăn cách tốt
nhất có thể; nhưng không bao giờ như phái Hillel chủ trương.
2.2/
Trung thành trong ơn gọi độc thân vì Nước Trời: Các môn đệ thưa Người: “Nếu làm chồng mà phải như thế
đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ còn hơn.”
Chúa Giêsu lợi dụng cơ hội hay do Matthew sắp xếp, để đề cập tới những
người sống trong ơn gọi độc thân. Ngài đưa ra ba trường hợp: Thứ nhất, những
người không có khả năng để sống ơn gọi gia đình ngay từ lúc lọt lòng mẹ. Kế đến
những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn, như trường hợp các hoạn quan
trong triều đình. Sau cùng là những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời, những
người hy sinh để hoàn toàn dành thời giờ cho việc rao giảng Tin Mừng và cứu rỗi
linh hồn tha nhân. Đối với hạng người sau cùng này, Thiên Chúa ban ơn thánh đủ
để họ có thể trung thành với ơn gọi tu trì.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Để yêu thương Thiên Chúa và tha nhân, chúng ta cần phải trung thành với
ơn gọi của mình; nhất là trong những lúc đương đầu với thử thách và đau khổ của
cuộc đời.
– Khi Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên trọn lành, Ngài ban ơn thánh đủ
để chúng ta có thể làm chuyện đó. Chúng ta không làm được là tại chúng ta không
sống bằng sức mạnh của Thiên Chúa, vì quá lơ là với Thiên Chúa và với các
Bí-tích Đức Kitô đã thiết lập.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
16/08/2019 – THỨ SÁU TUẦN 19 TN
Th. Tê-pha-nô Hung-ga-ri
Mt 19,3-12
BẬC SỐNG NÀO CŨNG CAO ĐẸP
Chúa Giê-su nói: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người
không được phân ly.”… Các môn đệ thưa Người: “Nếu làm chồng mà phải như thế với
vợ thì thà đừng lấy vợ còn hơn.” Chúa Giê-su nói: “Không phải cũng hiểu được
câu nói ấy. Chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu được mà thôi.” (Mt 19,10-11)
Suy niệm: Bậc sống hôn nhân Ki-tô giáo đòi buộc một vợ một chồng
chung thuỷ với nhau suốt đời quả là một lý tưởng tuyệt đẹp, lý tưởng đến nỗi
nhiều người sợ rằng đó là điều không tưởng. Ngay cả một số môn đệ còn nghĩ rằng
như thế thì “đi tu” còn có lý hơn! Chúa Giê-su cho biết đời tu cũng có những
nét đẹp hấp dẫn nhưng không phải là dễ hơn hay khó hơn, mà vì “chỉ những ai được
Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu được” mà thôi. Quả vậy, trong khi bậc sống hôn
nhân diễn tả tình yêu chung thuỷ của Đức Ki-tô với Hội Thánh, thì bậc sống tu
trì – tức là sống độc thân vì Nước Trời – lại diễn tả ngay ở đời này cuộc sống
thanh thoát như các thiên thần ở đời sau.
Mời Bạn: Cần tránh thái độ “đứng núi này trông núi nọ”. Hãy
nhớ rằng cả hai bậc sống đều cao đẹp và không cuộc sống nào cao đẹp lại chấp nhận
một lối sống dễ dãi buông thả. Vấn đề của mỗi người không phải là bậc sống nào
cao hơn mà là Chúa chọn gọi mình vào bậc sống nào.
Chia sẻ: Những
giá trị chân thật của cả hai bậc sống ngày nay đều đang bị đe doạ. Hãy sống trọn
vẹn bậc sống của mình để những giá trị đó được toả sáng.
Sống Lời Chúa: Bạn đã chọn lựa bậc sống (độc thân thánh hiến/kết
hôn) ư? Bạn hãy trung thành. Nếu chưa, bạn hãy suy nghĩ, cầu nguyện để chọn bậc
sống đúng ơn gọi của bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết chọn
lựa đúng và trung thành với bậc sống Chúa muốn kêu gọi con.
(5 Phút Lời Chúa)
Một xương một thịt (16.8.2019 –
Thứ Sáu Tuần 19 TN)
Suy niệm:
“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phép phân ly.”
Lời của Đức Giêsu đã vang vọng qua hai mươi thế kỷ,
và vẫn thường được chọn để in trên thiệp cưới.
Phải chăng người ta ngầm nhắc nhau rằng
ly dị là từ không nên có trong từ điển của các đôi vợ chồng.
Tiếc thay số vụ ly hôn nơi các Kitô hữu đã gia tăng đáng kể.
Sống với nhau đến đầu bạc răng long trở thành một giấc mơ.
Trong xã hội Do thái giáo thời Đức Giêsu,
người phụ nữ không được bình đẳng với nam giới.
Người vợ là một thứ tài sản của người chồng,
nên chỉ người chồng mới có quyền ly dị vợ, có khi chỉ vì một lý do cỏn
con.
Trước câu hỏi: “Chồng có được phép ly dị vợ vì bất cứ lý do nào không?”
Đức Giêsu đã kiên quyết nói không (c. 6).
Ngài bênh vực các bà vợ bị áp chế.
Họ không phải là một món hàng bỏ đi khi không cần hay không ưng.
Lập trường của Ngài đi ngược với nền văn hóa và tôn giáo thời đó.
Điều này khiến chính các môn đệ bị sốc (c. 10).
Hóa ra các ông vẫn cho mình có quyền bỏ vợ khi họ muốn.
Người Pharisêu trích sách Đệ Nhị Luật (24, 1)
để biện minh cho việc được phép ly dị đúng theo Luật Môsê (c. 7).
Còn Đức Giêsu lại trích sách Sáng Thế (2, 24)
để nhấn mạnh cho sự hiệp nhất vĩnh viễn giữa đôi vợ chồng.
“Cả hai thành một xương một thịt” không chỉ về mặt thân xác,
mà còn trở nên một lòng, một ý, một ước mơ, một hành động.
Ngài khẳng định điều này đã có từ thuở ban đầu (cc. 4. 8)
và nằm trong ý định nguyên thủy của Thiên Chúa.
Việc Môsê cho phép ly dị chỉ là một nhượng bộ tạm thời (c. 8).
Đức Giêsu đến để hoàn chỉnh Luật Môsê
và khai mở ý muốn trọn vẹn của Thiên Chúa về hôn nhân.
Hôn nhân không phải chỉ là chuyện của hai người yêu nhau và lấy nhau.
Trong Lễ Cưới có sự hiện diện của Thiên Chúa là Đấng phối hợp.
Ngài tiếp tục bảo vệ tình yêu, cả khi hai người cùng muốn chia tay.
Hôn nhân không phải là một bản hợp đồng
mà hai bên được phép xé bỏ khi muốn.
Chung thủy mãi mãi là chuyện khó đối với con người thời nay.
Khi thịnh vượng, lúc gian nan, khi mạnh khỏe, lúc đau yếu,
khi buồn chán và thất vọng về nhau, khi yếu đuối và vấp ngã,
khi đổ vỡ quá lớn tưởng như không sao hàn gắn được,
khi đời sống vợ chồng thành như hỏa ngục trần gian…
khi ấy người ta cần Thiên Chúa để tiếp tục yêu thương và kính trọng nhau.
Xin bớt một chút ích kỷ tự ái, thêm một chút khiêm hạ yêu thương,
bớt một chút tự do đam mê, thêm một chút hy sinh tha thứ…
để gìn giữ tình nghĩa vợ chồng như quà tặng mong manh của trời cao.
Cầu nguyện:
Lạy Cha nhân ái, từ trời
cao,
xin Cha nhìn xuống
những gia đình sống trên mặt
đất
trong những khu ổ chuột tồi
tàn
hay biệt thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến
những gia đình thiếu vắng
tình yêu
hay thiếu những điều kiện vật
chất tối thiểu,
những gia đình buồn bã vì vắng
tiếng cười trẻ thơ
hay vất vả âu lo vì đàn con
nheo nhóc.
Xin Cha nâng đỡ những gia
đình đã thành hỏa ngục
vì chứa đầy dối trá, ích kỷ,
dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những
trẻ em trên thế giới,
những trẻ em cần sự chăm sóc
và tình thương
những trẻ em bị lạm dụng,
bóc lột, buôn bán,
những trẻ em lạc lõng bơ vơ,
không được đến trường,
những trẻ em bị đánh cắp tuổi
thơ và trở nên hư hỏng.
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ
từng gia đình là hình ảnh của
thánh Gia Thất,
từng trẻ em là hình ảnh của
Con Cha thuở ấu thơ.
Xin Cha sai Thánh Thần Tình
Yêu
đem đến hạnh phúc cho mỗi
gia đình;
nhưng xin cũng nhắc cho
chúng con nhớ
hạnh phúc luôn ở trong tầm
tay
của từng người chúng con.
Amen.
Lm.
Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
16 THÁNG TÁM
Cám Dỗ Tự Mãn
Nhìn con người trong thế giới hôm nay, ta thấy dường như hoàn toàn phi lý
việc nghĩ rằng con người làm chủ tuyệt đối trên trái đất này, hoặc nghĩ rằng
vai trò làm chủ ấy sẽ được triển khai với sự giúp đỡ của sự quan phòng thần
linh. Thật là một ảo tưởng hão huyền và nguy hiểm việc người ta tự xây dựng cuộc
sống mình và biến thế giới này thành một vương quốc chỉ phục vụ cho hạnh phúc của
riêng mình và chỉ dựa vào sức mạnh của riêng mình mà thôi. Đây là một cám dỗ lớn
mà con người hiện đại đang lún vào. Người ta quên rằng các qui luật tự nhiên đặt
điều kiện ngay cả trên nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp của chúng ta
(MV 26-27).
Nhưng thật dễ ngã vào cám dỗ tự mãn khi chúng ta từng bước chứng tỏ quyền
làm chủ của mình trên các sức mạnh của thiên nhiên. Chúng ta có thể tự mãn đến
mức quên Thiên Chúa và thậm chí thoán đoạt vai trò chính đáng của Ngài. Trong
thời đại chúng ta, sự táo tợn như thế xâm lăng vào trong lãnh vực khoa học, nơi
mà có những lúc xảy ra những hình thức khác nhau của sự lạm dụng về mặt sinh học,
di truyền học và tâm lý học. Hãy coi chừng. Nếu khoa học không qui phục qui luật
luân lý của Nước Thiên Chúa, nó có thể dẫn đến sự thống trị tàn nhẫn của con
người trên con người với những hậu quả vô cùng bi thảm.
Công Đồng nhìn nhận sự cao cả của con người hiện đại, nhưng Công Đồng
cũng nhận ra những giới hạn của con người trong việc dàn xếp sự tự trị chính
đáng của mọi vật thụ tạo (MV 36). Các Nghị Phụ Công Đồng nhắc chúng ta nhớ đến
chân lý về sự quan phòng của Thiên Chúa, sự quan phòng nhằm giúp con người
trong công cuộc xây dựng thế giới và phục vụ lẫn nhau. Trong mối quan hệ này với
Thiên Chúa Cha, Đấng Sáng Tạo và Quan Phòng, con người có thể không ngừng khám
phá lại căn nguồn ơn cứu độ của mình. Chúng ta hãy đến với Cha và đừng mù quáng
cậy dựa vào sức mạnh và sáng kiến của riêng mình.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 16/8
Thánh Têphanô
Hungary
Gs 24, 1-13; Mt 19,
3-12.
LỜI SUY NIỆM: “Thưa Thầy có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?”
Theo Luật của Môsê
có cho phép người đàn ông được phép rẫy vợ mình, bằng cách trao cho nàng một tờ
giấy ly dị. Nhưng trong các Rápbi lại có nhiều quan niệm trong vấn đề này, họ
chưa đồng nhất với nhau, nên trong số họ, có người đã mong muốn lôi kéo được
Chúa Giêsu về phía quan niệm của mình. Họ đã đặt vấn đề về ly dị với Người. Qua
sự việc này Chúa Giêsu đã cho họ một giáo lý về hôn nhân. Hôn nhân là ý định của
Thiên Chúa ngay từ đầu, và dầu qua mọi biến cố tội lỗi trong lịch sử của loài
người, có khi Thiên Chúa đã giáng phạt; nhưng với điều này Ngài không xóa bỏ,
nhưng được ban ơn và chúc phúc: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp loài người không
được phân ly.”
Lạy Chúa Giêsu.
Hôn nhân Công Giáo, một vợ một chồng, bất khả phân ly, là nền móng vững chắc
xây dựng gia đình và xã hội hạnh phúc lành mạnh. Xin cho moi gia đình trong xã
hội loài người luôn tôn trọng, xây dựng và bảo vệ Luật hôn nhân một vợ một chồng.
Để đem lại hạnh phúc cho con người và thăng tiến xã hội.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 16-08
Thánh STÊPHANÔ,
Người Hungary (977
– 1038)
Người Hung, gốc từ Á Châu, đã tiến vào lập cư trên bờ sông Danuble. Họ sống
bằng chiến tranh cướp bóc, và dữ tợn như thú hoang. Vào đầu thiên niên kỷ này,
Geysa, con cháu dòng Attila cai trị họ.
Hầu tước Geysa cưới Sarolta, một thiếu nữ công giáo và dưới ảnh hưởng của
nàng, ông đã trở lại đạo công giáo. Nữ hầu tước rất nhiệt thành với đạo. Tương
truyền rằng thánh Têphanô đã báo cho bà biết rằng người con bà trông đợi sẽ được
Thiên Chúa chúc phúc và sẽ tiêu diệt ngẫu tượng trong xứ.
Vì lòng sùng kính thánh tử đạo, bà thêm tên Têphanô vào sau tên Vaik của
con trẻ. Mười năm sau, Geysa xin thánh Ađalbert rửa tội cho con trẻ và mời các
nhà truyền giáo đến. Têphanô được trao cho các nhà thông thái và thánh thiện
giáo dục. 15 tuổi Ngài đã chia sẻ với cha trách nhiệm trị nước và 22 tuổi Ngài
kế nghiệp cha sau khi ông qua đời.
Lên cầm quyền chính, thánh Têphanô tìm thỏa hiệp với các lân bang và hiến
thân cải hóa toàn dân. Nhưng các lãnh Chúa theo ngẫu tượng bất mãn vì việc
phóng thích nô lệ đã coi dân Hungari là dân phản loạn. Têphanô chuẩn bị chiến
tranh bằng lời cầu nguyện và sám hối cùng thi hành việc bố thí. Trên kỳ hiệu dẫn
đầu binh đội, Ngài trưng hình thánh giá Martinô và Grêriô. Thắng trận Ngài cho
xây tại chỗ là Vesprem một tu viện kính thánh Martinô.
Để chinh phục các thần dân cứng cỏi Ngài chạy đến các tu sĩ Cluny. Từ các
tu viện, chính các tu sĩ mở mang văn hóa cho xứ sở do các trường học cạnh tu viện.
Thánh Têphanô còn đề ra một chương trình ngoạn mục, Ngài sai sứ giả sang triều
yết Đức giáo hoàng Sylvester III, xin nhận Hungari vào số các quốc gia Kitô
giáo và phong vương cho Ngài. Đức giáo hoàng gởi cho Ngài một triều thiên và một
thánh giá vàng, ban cho Ngài đặc ân dành cho các tông đồ. Thánh Têphanô được
công nhận là vua và tông đồ. Thánh Astrik đã phong vương cho vua năm 1001.
Một thời gian sau Ngài đã hoàn thành được 10 giáo phận với một tòa tổng
giám mục tại Esztergem. Rất có lòng tôn sùng Đức Mẹ, Ngài xây một thánh đường
nguy nga kính Mẹ tại Székes-Féhéwaz.
Lòng bác ái của thánh Têphanô còn vượt ra ngoài biên giới Hungari. Ngài
thiết lập nhiều nhà thương và tu viện ở Roma, Constantinople và Giêrusalem,
cũng như các nhà cho khách hành hương Hungary. Trong lãnh thổ mình,
Ngài ra các sắc luật chống lại tội ác và lộng ngôn. Rất nghiêm khắc với
những người lỗi luật Chúa, Ngài lại rất nhân hậu đối với những bất công Ngài
lãnh chịu. Ngài ân cần săn sóc các người nghèo khổ, để hiểu rõ thực trạng, Ngài
hay tàng hình đi tìm kiếm họ. Một lần bọn ăn xin xô tới hành hạ Ngài và cướp của.
Tiếng đồn vang xa. Các lãnh chúa cười nhạo Ngài, nhưng Ngài càng hiến thân cho
người cùng khốn nhiều hơn nữa. Người ta nói rằng: Ngài được ơn chữa bệnh và nói
tiên tri. Đêm kia có tiếng bên trong giục Ngài sai người tới tin cho dân vùng
biên giới rút lui khỏi làng mạc của họ để khỏi bị tấn công. Sự việc xảy tới, vì
được báo trước kịp thời, dân chúng được cứu thoát.
Conrad, tấn vương Germany muốn xâm chiếm Hungary với một đội quân hùng hậu.
Têphanô truyền cho binh lính ăn chay cầu nguyện. Binh đoàn của Conrad bị lạc giữa
rừng cây, đầm lầy sông lạch, không thể tiếp tế được mà phải lui binh. Têphanô
toàn thắng mà không phải chiến đấu. Thánh vương ao ước thanh bình, đã phải chiến
đấu nhiều để bảo vệ thần dân. Ngài chiến đấu ở Balan, cùng Balkan. Dầu chiến thắng
Ngài không ngừng cầu nguyện cho dân khỏi thảm hoạ chiến tranh. Thắng được hoàng
tử Transyvania, Ngài thả tự do cho ông và chỉ đòi điều kiện là ông cho phép các
nhà truyền giáo đến xứ ông. Sự Thánh thiện của Têphanô đã khuất phục được tất cả
thủ địch lẫn những người thán phục Ngài.
Các thử thách lớn lao hoàn tất việc thánh hóa nhà vua. Ngài đã lập gia
đình với nữ công tước Gisèle, con gái vua Henry II, bá tước miền Bavière. Hoàng
hậu Gisèle là người đạo đức đã giúp vua Têphanô rất nhiều. Nhưng chẳng may con
cái họ đều qua đời lúc tuổi còn xanh. Còn một mình hoàng tử Emeric sẽ kế nghiệp
cha nhưng lại tử nạn trong một tai nạn lúc đi săn. Thánh Têphanô vượt cùng mọi
đau đớn bằng cách nhiệt tâm với bổn phận. Ngài đã chịu bệnh trong một thời gian
dài, lại còn bị ghen tương ám hại. Theo một tường thuật, các lãnh Chúa giận dữ
và sự công thẳng của Ngài đã tìm cách sát hại Ngài. Kẻ sát nhân lận dao trong
áo lẻn vào phòng Ngài. Nhưng khi vừa thấy Ngài hắn bỗng hối hận và tự thú ý định
tội ác của mình. Vua chỉ nói: hãy giải hòa với Chúa và đừng sợ bị tôi trả thù.
Ngày lễ Mông Triệu 15 tháng 8, thánh Têphanô qua đời và được mai táng
trong đền thờ Đức Bà ở Székes-Féhéwaz.
(daminhvn.net)
16 Tháng Tám
Anh Ấy Chưa Bao Giờ Trưởng Thành
Ngày 16/8 kỷ niệm ngày qua đời của Elvis Presley, ca sĩ được xem như là
thần tượng của nhạc Rock tại Hoa Kỳ trong thập niên 70.
Xuất thân từ một gia đình nghèo, lại mang tính nhút nhát, Elvis thường trở
thành trò cười cho bạn bè trong lớp. Nhưng luôn ôm ấp trong mình giấc mơ trở
thành ca sĩ, Elvis đã thắng được tính nhút nhát của mình để trở thành một ngôi
sao sáng chói trong nền âm nhạc Mỹ quốc…
Danh vọng và tiền bạc đến quá nhanh khiến Elvis không kịp chuẩn bị cho
mình một triết lý sống vững chắc. Anh mua cho người mẹ một ngôi biệt thự lộng lẫy
xa hoa. Cá nhân anh thì lại vung vãi tiền bạc trong không biết bao nhiêu thú
vui phù phiếm. Cuộc hôn nhân đầu tiên đã đổ vỡ, chỉ để lại cho anh cay đắng buồn
phiền…
Sự ái mộ của dân chúng dường như không đủ để lấp đầy khoảng trống vắng
quá lớn trong tâm hồn anh. Ma túy và các thứ thuốc an thần cũng không đủ hiệu lực
để xoa dịu bao nỗi khắc khoải trong anh…
Buổi sáng ngày 16/8/1977, sau một đêm thức trắng để đọc sách, Elvis đã được
tìm thấy trong phòng tắm của anh, mặt úp xuống sàn nhà, sau một cơn chống trả
mãnh liệt với tử thần… Anh đã tắt thở ngay sau khi được trở vào bệnh viện.
Priscilla, người vợ đầu tiên của Elvis đã thốt lên như sau: “Cái chết của
Elvis khiến tôi nghĩ nhiều về chính cái chết của tôi… Tôi chợt nhận ra rằng tôi
cần phải chia sẻ với người khác nhiều hơn. Khi trở thành một ngôi sao trong nền
âm nhạc, Elvis còn quá trẻ để có thể biết cách sử dụng tiền tài, danh vọng đang
đến với anh. Anh chỉ là một nạn nhân. Anh bị hủy diệt bởi chính những người ái
mộ anh. Anh cũng là nạn nhân của chính hình ảnh mà anh đã tự tạo ra. Anh chưa
bao giờ sống như một người thực sự, anh chưa bao giờ trưởng thành, anh chưa bao
giờ ra khỏi cái vỏ ốc ấm áp của anh để cảm nghiệm được thế giới bên ngoài”.
Bảo rằng tiền bạc, danh vọng không làm cho con người hạnh phúc có lẽ cũng
bằng thừa. Biết bao nhiêu người đã đi tìm hạnh phúc trong của cải chóng qua ở đời
này, rốt cục, họ chỉ gặp thất vọng, chán nản ê chề… Thánh Augustinô đã được coi
như là một hiện thân của một cuộc tìm kiếm không ngừng. Tìm kiếm hạnh phúc
trong hiểu biết, tìm kiếm hạnh phúc trong khoái lạc v.v…, tất cả chỉ để lại
trong tâm hồn ngài nỗi trống vắng ê chề. Cuối cùng ngài đã tìm ra chân lý: “Lạy
Chúa, Chúa dựng nên con cho chính Chúa, tâm hồn con chỉ ngơi nghỉ khi được yên
nghỉ trong Chúa…”.
Phải, chỉ có Chúa mới có thể lấp đầy nỗi khao khát hạnh phúc trong lòng
người… Người Kitô chúng ta luôn được mời gọi để tìm kiếm Chúa trong những cái
chóng qua ở đời này. Giá trị cao cả nhất để chúng ta đeo đuổi không phải là tiền
của, danh vọng, nhưng chính là Chúa và những giá trị của Nước Trời.
(Lẽ Sống)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét