01/04/2020
Thứ tư tuần 5 Mùa
Chay
BÀI ĐỌC I: Đn 3, 14-20.
91-92. 95
“Người đã sai thiên thần của
Người đến giải thoát các tôi tớ Người”.
Trích sách Tiên tri
Đaniel.
Trong những ngày ấy, vua Nabucôđônôsor nói rằng: “Hỡi Sidrach, Misach và
Abđênagô, có phải các ngươi không chịu thờ các thần của ta và lạy tượng vàng ta
đã dựng không? Vậy nếu các ngươi đã sẵn sàng, thì lúc nghe tiếng kèn, tiếng huyền
cầm, tiếng còi, quyển sáo và các thứ nhạc khí, các ngươi phải sấp mình thờ lạy
tượng ta đúc. Nhưng nếu các ngươi không chịu sấp mình thờ lạy, lập tức các
ngươi sẽ bị ném vào lò lửa cháy bừng. Và coi Chúa nào sẽ cứu thoát các ngươi khỏi
tay ta”. Sidrach, Misach và Abđênagô trả lời với vua Nabucôđônôsor rằng: “Tâu lạy
vua, chúng tôi không cần trả lời cùng vua về việc này, vì đây Thiên Chúa chúng
tôi thờ có thể cứu thoát chúng tôi khỏi lò lửa cháy bừng, và khỏi tay đức vua;
nhược bằng Thiên Chúa chúng tôi không muốn thì, tâu lạy vua, vua nên biết rằng
chúng tôi không thờ các thần của vua và không lạy tượng vàng của vua dựng lên”.
Bấy giờ vua Nabucôđônôsor thịnh nộ, mặt biến sắc, nhìn thẳng vào Sidrach,
Misach và Abđênagô, ông ra lệnh đốt lò nóng hơn thường gấp bảy lần, và truyền lệnh
các tráng sĩ trong cơ binh trói chân Sidrach, Misach và Abđênagô, và ném vào lò
lửa cháy bừng.
Bấy giờ vua Nabucôđônôsor bỡ ngỡ, vội vã đứng lên và nói với các triều thần
rằng: “Chớ thì ta không ném ba người bị trói vào lò lửa sao?” Các ông trả lời với
vua rằng: “Tâu lạy vua, thật có”. Vua nói: “Đây ta thấy có bốn người không bị
trói đi lại giữa lò lửa mà không hề hấn gì; dáng điệu người thứ tư giống như
Con Thiên Chúa”. Vua Nabucôđônôsor nói tiếp: “Chúc tụng Chúa của Sidrach,
Misach và Abđênagô, Đấng đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ
tin cậy Người, không chịu vâng phục mệnh lệnh của nhà vua và thà hy sinh thân
xác, chớ không phục luỵ thờ lạy Chúa nào khác ngoài Thiên Chúa của họ”. Đó là lời
Chúa.
ĐÁP CA: Đn 3, 52. 53.
54. 55. 56
Đáp: Chúa đáng ca
ngợi và tôn vinh muôn đời (c. 52b).
Xướng: 1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng,
đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang
Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. – Đáp.
2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và
tôn vinh muôn đời. – Đáp.
3) Chúc tụng Chúa ngự lên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh
muôn đời. – Đáp.
4) Chúc tụng Chúa, Đấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh,
đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. – Đáp.
5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. –
Đáp.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC
ÂM: Ga 11, 25a và 26
Chúa phán: “Ta là sự
sống lại và là sự sống; ai tin Ta, sẽ không chết đời đời”.
PHÚC ÂM: Ga 8, 31-42
“Nếu Chúa Con giải thoát các
ngươi, thì các ngươi thực sự được tự do”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người Do-thái đã tin nơi Ngài rằng: “Nếu
các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết
sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi”. Họ thưa lại Người: “Chúng tôi là con
cháu Abraham, và chưa bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại nói ‘Các ngươi sẽ
được tự do’?”. Chúa Giêsu trả lời rằng: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi:
Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ không ở mãi trong nhà; người
con mới ở vĩnh viễn trong nhà. Vậy nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các
ngươi sẽ được tự do thực sự. Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các
ngươi lại tìm giết Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những
điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy
nơi cha các ngươi”. Họ đáp lại: “Cha chúng tôi chính là Abraham!” Chúa Giêsu
nói: “Nếu thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của
Abraham! Nhưng các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự
thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Điều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm
việc của cha các ngươi!” Họ lại nói: “Chúng tôi không phải là những đứa con
hoang! Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!” Chúa Giêsu nói: “Nếu Thiên Chúa
là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta
không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến”. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Ðức Tin Chân
Chính
Trong bài Tin Mừng vừa đọc lại trên đây, số thính giả nghe Chúa Giêsu nói
được thu gọn lại trong vòng những kẻ đã tin Người, và Chúa Giêsu đã khởi đi từ
lòng tin này để mời gọi họ tiến xa hơn nữa bằng cách ở lại trong Lời của Người,
nghĩa là bằng cách sống những gì Người truyền dạy để trở thành môn đệ của Người,
và một khi trở thành môn đệ của Người, họ sẽ bước đi trong sự thật và được sự
thật giải phóng khỏi vòng mê muội của tội lỗi. Tuy đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng
những thính giả này vẫn chưa thay đổi được lối suy nghĩ chỉ dựa trên đời sống
trần tục của họ. Khi nghe Chúa Giêsu nói đến việc giải phóng, họ nghĩ ngay tới
tình trạng của những người nô lệ phải làm tôi mọi cho chủ, mà họ thì đang làm
chủ chính mình, họ có làm tôi mọi cho ai đâu mà cần được giải phóng. Xét về mặt
trần thế thì họ suy nghĩ rất đúng, nhưng Chúa Giêsu đâu muốn đề cập đến tình trạng
nô lệ hay tự do về mặt xã hội. Người muốn nói với họ về sự tự do đích thực của
những người thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tội lỗi.
Sứ mạng Chúa Cha trao phó cho Người là xóa bỏ quyền thống trị của sự dữ
trên mặt đất này và mang lại cho loài người cuộc sống tự do, xứng với danh hiệu
con cái Thiên Chúa. Họ xưng mình là con cái ông Abraham, là dòng dõi của một
dân tộc được giải phóng khỏi ách nô lệ ngoại bang. Thế nhưng, cuộc sống của họ
đang bị ràng buộc bởi vô số xiềng xích của ma quỉ, họ tự do bên ngoài, còn bên
trong thì vẫn nô lệ cho sự dữ, cho tội lỗi. Sự thừa kế dòng dõi ông Abraham
không đương nhiên biến họ thành những con người lương thiện công chính. Muốn trở
nên công chính, họ cần phải làm một cuộc đổi đời, phải tẩy trừ cái ác ra khỏi
lòng mình và cương quyết tiến lên trên đường trọn lành, có như thế, họ mới thực
sự trở nên con cái ông Abraham và là những con người tự do đích thực.
Phần chúng ta đây, chúng ta là những người mang danh hiệu Kitô, là những
người tự nhận mình là con cái Thiên Chúa. Tuy nhiên, danh xưng không làm nên thực
chất, cái áo không làm nên thầy tu, chỉ có danh nghĩa bên ngoài và thậm chí
ngay cả những việc đạo đức bên ngoài mà thôi, thì vẫn chưa làm nên một đời sống
đức tin đích thực. Ðức tin chân chính được thể hiện qua những việc làm công
chính. Người ta thường nói "xem quả biết cây", chúng ta đã suy nghĩ,
nói năng, hành động như thế nào trong cuộc sống hàng ngày.
Lạy Chúa, nhiều lúc con cảm thấy yên tâm vì mình là người có đạo. Con có
đạo như có một cuốn sách hay có một cái máy truyền hình, khi nào con cần hoặc
khi nào con thích thì con mở ra xem, khi nào không cần thì con để yên ở đó,
nhưng Chúa đâu muốn những người chỉ có đạo mà không sống đạo.
Lạy Chúa, xin giúp con can đảm lựa chọn đứng vào hàng ngũ con cái Thiên
Chúa, một sự lựa chọn dứt khoát dẫn tới việc dấn thân quyết liệt cho điều mình
lựa chọn. Xin cho con đừng chỉ hài lòng với danh xưng là người có đạo mà thôi,
nhưng phải là một người sống đạo thực sự.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần V MC
Bài đọc: Dan 3:14-20, 91-92, 95; Jn 8:31-42.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Sự thật giải phóng con người.
Con người thường không muốn người khác vạch ra những điều sai trái của
mình, nhất là đối với những người có quyền thế. Nhưng dù sự thật mất lòng nhưng
có sức mạnh giải phóng con người. Nhiều người tưởng mình đang sở hữu sự thật,
nhưng thực ra họ đang làm nô lệ cho sự giả trá. Các Bài Đọc hôm nay đặt trọng
tâm vào việc con người phải tìm ra sự thật, vì sự thật sẽ giải phóng con người.
Trong Bài Đọc I, Vua Nebuchadnezzar nghĩ các thần do tay mình dựng nên là
thần thật nên bắt ba trẻ Do-thái phải sụp lạy chúng khi nhạc khí xướng lên; nếu
không sẽ quăng chúng vào lò lửa đang cháy. Ba trẻ Do-thái từ chối vì họ nhất
quyết chỉ thờ lạy một mình Thiên Chúa mà thôi. Khi chính mắt nhìn thấy uy quyền
của Thiên Chúa từ lò lửa, chính vua Nebuchadnezzar đã khiêm nhường thú nhận: chỉ
có Thiên Chúa của ba trẻ Do-thái thờ là Thiên Chúa thật. Trong Phúc Âm, Chúa
Giêsu muốn chỉ cho người Do-thái thấy họ thực sự không phải là con cái của
Abraham, vì họ không làm những gì tổ-phụ Abraham đã làm: tin Thiên Chúa và đón
tiếp các ngôn sứ Ngài gởi tới. Họ không tin những gì Ngài nói và đang tìm cách
giết Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ba trẻ Do-thái làm chứng cho
sự thật.
1.1/ Ba trẻ Do-thái từ chối không thờ thần nào khác ngòai Thiên Chúa: Vua
Nebuchadnezzar đe dọa ba trẻ: Này Shadrach, Meshach, và Abednego, nếu các ngươi
không phụng sự các thần của ta và không chịu thờ lạy pho tượng vàng ta đã dựng
nên, tức khắc các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa đang cháy phừng phực, để xem có
Thiên Chúa nào cứu được các ngươi khỏi tay ta chăng?”
Ba trẻ Do-thái can đảm nói với Vua: “Chúng tôi không cần trả lời ngài về
chuyện này. Nếu Thiên Chúa chúng tôi thờ có sức cứu chúng tôi thì tâu đức vua,
Người sẽ cứu chúng tôi khỏi lò lửa đang cháy phừng phực và khỏi tay ngài. Còn nếu
Người không cứu, thì xin đức vua biết cho rằng chúng tôi cũng không phụng sự
các thần của ngài, và cũng không thờ lạy pho tượng vàng ngài đã dựng đâu!” Vua
tức giận, lên tiếng truyền đốt lò lửa mạnh hơn mọi khi gấp bảy lần. Rồi vua ra
lệnh cho những người lực lưỡng nhất trong quân đội của vua trói ba trẻ và quăng
họ vào lò lửa đang cháy phừng phực.
1.2/ Vua Nebuchadnezzar nhận ra Thiên Chúa của Shadrach, Meshach, và
Abednego.
(1) Vua nhận thấy sự khác lạ xảy ra trong lò lửa: Vua Nebuchadnezzar ngạc
nhiên đứng bật dậy và cất tiếng nói với các quan cố vấn: “Chẳng phải chúng ta
đã quăng ba người bị trói vào lửa sao?” Họ đáp rằng: “Tâu đức vua, đúng thế!”
Vua nói: “Nhưng ta thấy có bốn người đang tự do đi lại trong lò lửa mà không hề
hấn gì, và dáng vẻ người thứ tư giống như con của thần minh.”
(2) Vua tin vào Thiên Chúa của ba trẻ: Khi nhận ra Thiên Chúa đã gởi
thiên thần đến cởi trói cho ba trẻ để họ đi lại trong lò lửa mà không hề hấn
gì, Vua Nebuchadnezzar cất tiếng nói: “Chúc tụng Thiên Chúa của Shadrach,
Meshach, và Abednego, Người đã sai thiên sứ đến giải thoát các tôi tớ của Người
là những kẻ đã tin tưởng vào Người. Họ đã cưỡng lại lời vua, hy sinh tính mạng
để khỏi phụng sự và thờ lạy một thần nào khác ngoài Thiên Chúa của họ.”
2/ Phúc Âm: Sự thật sẽ giải phóng các
ông.
2.1/ Chúa Giêsu là sự thật của Thiên Chúa.
(1) Sự thật giải phóng: Đức Giêsu nói với những người Do-thái đã tin Người:
“Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ
biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông.” Để trở thành môn đệ của Chúa
Giêsu, họ phải tin những lời Ngài nói là sự thật; và những lời này sẽ giải
phóng họ khỏi những gì sai trái. Lúc đó họ sẽ có tự do đích thực, vì họ đã biết
sự thật. Vì thế, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa: ở lại trong lời Chúa Giêsu,
trở thành môn đệ, sự thật, và tự do đích thực.
Những người Do-thái không hiểu lời Chúa Giêsu nói, nhưng tự ái vì Ngài ám
chỉ họ làm nô lệ. Họ đáp: “Chúng tôi là giòng dõi ông Abraham. Chúng tôi không
hề làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao ông lại nói: các ông sẽ được tự do?” Thực
sự, người Do-thái đã từng làm nô lệ cho Ai-cập, Assyria, Babylon, và Rome;
nhưng ý họ muốn nói: họ thuộc giòng dõi Abraham, dân của Thiên Chúa.
(2) Chúa Giêsu giải phóng con người khỏi tội: Điều Chúa Giêsu muốn nói là
họ đang làm nô lệ cho tội: hễ ai phạm tội là làm nô lệ cho tội. Có một sự khác
biệt giữa con cái và nô lệ: con cái được ở trong nhà luôn mãi, nô lệ không được
như vậy vì có thể bị bán và tống cổ bất cứ lúc nào. Chúa Giêsu muốn cảnh cáo
người Do-thái: các ông phải coi chừng, các ông hãnh diện mình là con cái của
Abraham; nhưng nếu các ông phạm tội, các ông trở thành nô lệ, và có thể bị tống
cổ ra ngòai.
Nếu họ tin vào Chúa Giêsu, họ sẽ được giải phóng khỏi tội, và họ mới thực
sự được tự do; nhưng người Do-thái chẳng những không tin vào lời Chúa Giêsu, lại
còn tìm cách giết Ngài. Chúa Giêsu phân biệt Cha của Ngài và cha của người
Do-thái. Họ hãnh diện tuyên xưng: Cha chúng tôi là Abraham.
2.2/ Tổ-phụ Abraham tin vào Thiên Chúa: Chúa Giêsu không tin lời họ nói;
vì nếu họ là con cháu Abraham, họ có cùng Cha với Ngài vì Abraham tin vào Thiên
Chúa. Ngài muốn nói với họ, đức tin không phải chỉ tuyên xưng ngòai miệng,
nhưng phải chứng tỏ bằng việc làm: “Giả như các ông là con cái ông Abraham, hẳn
các ông phải làm những việc ông Abraham đã làm. Thế mà bây giờ các ông lại tìm
giết tôi, người đã nói cho các ông sự thật mà tôi đã nghe biết từ Thiên Chúa.
Điều đó, ông Abraham đã không làm. Còn các ông, các ông làm những việc cha các
ông làm.”
Abraham đón tiếp các sứ giả của Thiên Chúa (Gen 18:1-8), chứ không tìm
cách giết họ như người Do-thái đang tìm cách giết Chúa Giêsu. Nếu các ông tìm
cách giết người được Thiên Chúa sai đến, các ông không phải là con cái Thiên
Chúa, cũng chẳng phải là con cái của tổ-phụ Abraham.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
– Chúng ta phải học cho biết sự thật bằng bất cứ cách nào, vì chỉ có sự
thật mới giải phóng và cho chúng ta sự tự do đích thực.
– Bao lâu chúng ta còn phạm tội là làm nô lệ cho tội. Chỉ có Đức Kitô mới
có thể giải phóng chúng ta khỏi làm nô lệ cho tội. Chúng ta phải tin và làm những
gì Ngài dạy.
– Đức tin không chỉ là những gì chúng ta hãnh diện tuyên xưng ngòai miệng,
nhưng phải biểu tỏ bằng việc làm. Chúng ta không được cứu bằng chỉ tuyên xưng
ngòai miệng, nhưng phải thực hành những gì Chúa dạy và phải can đảm làm chứng
cho Ngài bằng hành động.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
01/04/2020 – THỨ TƯ ĐẦU THÁNG TUẦN 5 MC
Ga 8,31-42
SỰ THẬT ĐEM LẠI TỰ DO
“Nếu các ông ở lại
trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và
sự thật sẽ giải phóng các ông.” (Ga 8,31)
Suy niệm: Người Do Thái thời Chúa
Giê-su khao khát mong chờ Đấng Mê-si-a mà các ngôn sứ loan báo. Nhưng Đấng
Mê-si-a đối với họ phải là người khôi phục vương quyền Đa-vít bằng quyền lực và
sức mạnh quân đội để thống trị các dân nước. Thế nhưng quan niệm đó lại không
nói lên sự thật về Đức Giê-su, Đấng Mê-si-a đích thực hiến mạng sống làm giá
chuộc muôn người (x. Mc 10,45). Họ đã không chấp nhận sự thật về một Đấng Cứu
Thế chịu khổ nhục như thế, và do đó không thể tin nhận Đức Giê-su là chính Con
Thiên Chúa, sẽ giải phóng họ khỏi ách nô lệ của tội lỗi, giải thoát họ khỏi sự
chết muôn đời và thừa hưởng sự sống vĩnh cửu nhờ giá máu của Ngài.
Mời Bạn: Con người ai cũng quý tự
do. Và người ta nhiều cách để được tự do như mình mong muốn. Nhưng tự do cao
quý nhất là được giải thoát khỏi tội lỗi để đạt được sự sống đời đời, tự do ấy
chỉ có thể có được nhờ tin vào Đức Giê-su Ki-tô Đấng đã chịu chết và sống lại.
Đức tin là một hồng ân mà Thiên Chúa thương ban cho bạn cách vô điều kiện, nhờ
đó, bạn được thừa hưởng sự sống đời đời. Bạn đã sống và loan truyền niềm tin về
Đức Giê-su, Đấng cứu độ duy nhất của trần gian như thế nào?
Sống Lời Chúa: Bạn làm một cử chỉ dù nhỏ
bé và kín đáo để diễn tả niềm tin của mình mỗi khi làm bất cứ công việc gì, và
luôn sẵn sàng để giới thiệu Đức Ki-tô Cứu Thế cho anh chị em lương dân mỗi khi
Chúa mời gọi bạn làm điều đó.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, người nhận biết
Thánh Danh sẽ một niềm tin cậy, vì Chúa chẳng bỏ rơi những ai kiếm tìm Ngài.
(Tv 9,11)
(5 Phút Lời Chúa)
SUY NIỆM : Sự thật sẽ
giải phóng các ông
Suy niệm :
Những dân tộc bị đô hộ nhiều năm mới hiểu được giá trị của giải phóng.
Những ai bị cầm tù, bị áp bức mới hiểu được giá trị của tự do.
Những ai đã từng bị vướng vào ma túy, cờ bạc, rượu chè,
mới hiểu nỗi sướng vui của người thoát khỏi vòng nô lệ của chúng.
Chế độ nô lệ đã cáo chung, nhưng lại thấy xuất hiện nhiều dạng nô lệ mới.
Con người trở nên nô lệ cho chính những sản phẩm tinh tế của mình,
và nhất là không thể giải phóng mình khỏi cái tôi ích kỷ.
Tự do mãi mãi là khát vọng của con người.
Con người vẫn chờ một Đấng Giải Phóng để mình được thật sự tự do.
Những người Do thái đang tranh luận gay gắt với Đức Giêsu.
Họ hãnh diện vì mình thuộc dòng dõi ông Abraham,
nên cho mình là người tự do, chưa hề làm nô lệ cho ai bao giờ (c. 33).
Đức Giêsu lại nhìn tự do theo một chiều hướng khác.
Ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội, người ấy không có tự do (c. 34).
Tự do không bắt nguồn từ việc mình thuộc dòng dõi ông Abraham.
Tự do đến từ việc tin vào lời sự thật của Đức Giêsu.
“Nếu các ông ở lại trong lời của tôi…các ông sẽ biết sự thật
và sự thật sẽ cho các ông được tự do” (c. 32).
Tự do đến từ chính con người của Ngài:
“Nếu Người Con có cho các ông tự do, các ông mới thực sự tự do” (c.36).
Những người Do thái cố chấp, chỉ tìm cách giết Đức Giêsu (cc. 37, 40).
Họ không muốn nhận lời sự thật mà Ngài nghe được từ Thiên Chúa (c. 40).
Khi từ chối sự thật, họ đã trở nên nô lệ cho sự dối trá và sát nhân.
Đức Giêsu là Đấng Giải Phóng, Đấng cho người ta được tự do thực sự.
Con người bị trói buộc bởi nhiều mối dây, bởi những tính toán ích kỷ hẹp
hòi
mà tự sức mình không sao thoát ra được.
Hãy đến với Giêsu, mở ra với Giêsu, ta sẽ thấy mình được thanh thoát như
Ngài.
“Giả như các ông là con cái ông Abraham,
hẳn các ông phải làm điều ông Abraham đã làm” (c. 39).
Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi,
vì tôi đã phát xuất từ Thiên Chúa…” (c. 42).
Như thế những kẻ chống đối Đức Giêsu
thật ra chẳng phải là con cái thật sự của ông Abraham hay con cái Thiên
Chúa.
Họ sống trong ảo tưởng về mình khi họ cương quyết loại trừ Đức Giêsu.
Trước khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, người dự tòng đã tuyên xưng
từ bỏ tội lỗi, để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa,
từ bỏ những quyến rũ bất chính, để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi.
Mùa Chay là thời gian để chúng ta trở lại điều mình đã tuyên xưng,
để được sống đúng với ơn gọi Kitô hữu mình đã lãnh nhận.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
1 THÁNG TƯ
Thiên Chúa Của Tình
Yêu Vô Hạn
Bao nhiêu người trên thế giới, bao nhiêu dân tộc, bao nhiêu truyền thống,
bao nhiêu nền văn hóa, bao nhiêu tôn giáo đã bảo vệ và tiếp tục bảo vệ hình ảnh
của chính mình nghĩ ra về Thiên Chúa?
Thiên Chúa là hữu thể vô cùng hoàn hảo, là hữu thể tối cao và khôn dò;
Ngài là Chủ Tể tuyệt đối của mọi sự. Dường như chuyện Ngài trở thành con người
là điều không thể được; cũng dường như không thể được, chuyện Ngài hầu hạ và rửa
chân cho các tông đồ, hoặc chuyện Ngài có thể chết trên thập giá. Nhưng, đó là
cái nhìn của con người.
Cái nhìn của Thiên Chúa thì hoàn toàn khác. Nói một cách thật đơn giản:
Thiên Chúa là tình yêu. Vì Ngài là tình yêu, Ngài đã tạo thành con người theo
hình ảnh Ngài và giống như Ngài. Vì Ngài là tình yêu, Ngài đã thiết lập giao ước
với con người. Vì Ngài là tình yêu, Ngài đã trở thành con người. Thiên Chúa đã
yêu thương thế giới đến nỗi đã trao ban chính Con Một Ngài, để cho con người có
thể đạt được sự sống đời đời (Ga 3,16). Vì Ngài là tình yêu, Thiên Chúa đã chấp
nhận con đường thập giá để thứ tha tội lỗi nhân trần và để thiết lập giao ước mới
– giao ước vĩnh cửu – trong máu Ngài. Vì Ngài là tình yêu, Ngài đã thiết lập Bí
Tích Thánh Thể.
Tình yêu không nhắm gì khác ngoài sự tốt lành mà nó khao khát muốn làm.
Vì sự tốt lành này mà Đấng Toàn Năng sẵn lòng trở nên yếu đuối như một con người,
chấp nhận số phận chết như một con người. Ngài sẵn lòng trở nên yếu đuối và bị
nhai nuốt đi như tấm bánh: “Này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì anh em. Anh em hãy
làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19).
Con người có thể chấp nhận một Thiên Chúa chịu đóng đanh hay không? Con
người có thể chấp nhận một Thiên Chúa hiến tế hay không? Đó là câu hỏi được đặt
ra ngay chính trung tâm của Tam Nhật Thánh.
Hỏi – tức là đã trả lời. Vâng, con người có thể chấp nhận hay từ chối vị
Thiên Chúa của tình yêu vô hạn ấy. Thật vậy, con người có thể quay lưng chống lại
Thiên Chúa hay thậm chí phủ nhận sự hiện hữu của Ngài. Nhưng còn Thiên Chúa,
Ngài “không thể phủ nhận chính Ngài” (2Tm 2,13). Ngài không thể thôi là chính
Ngài! Ngài không thể thôi là tình yêu!
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 01/4
Đn 3,
14-20.24-25.28; Ga 8, 31-42.
Lời Suy Niệm: “Giả như các ông là con cái ông Ápraham, hẳn các ông phải làm những việc
ông Ápraham đã làm. Thế mà bây giờ các ông lại tìm giết tôi, là người đã nói
cho các ông sự thật mà tôi đã nghe biết từ Thiên Chúa. Điều đó, ông Ápraham đã
không làm.”
Thiên Chúa đã ban cho con người có
lý trí, sự khôn ngoan và sự tự do. Nhưng con người đã không biết sử dụng đúng,
để hướng về Thiên Chúa, phụng thờ Ngài và tạ ơn Ngài; họ chỉ muốn thực hiện những
gì họ suy nghĩ theo bản tính con người với sự hạn hẹp của mình, nên họ đã
không nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai.
Lạy Chúa Giêsu, trong thời đại của
chúng con vẫn còn nhiều người không nhận biết Chúa, mà lại thờ ngẫu tượng. Xin
cho công cuộc truyền bá đức tin ngày càng được mở rộng, với sự hăng say và nhiệt
thành của hết mọi thành phần Dân Chúa.
Mạnh Phương
01 Tháng Tư
Tu Ðâu Cho Bằng Tu Nhà Thờ Cha Kính Mẹ Mới Là Ðạo Con
Dương Phủ sinh ra trong một gia đình nghèo. Nhưng ông để hết tâm
phụng dưỡng song thân.
Một hôm, ông nghe nói bên đất Thục có ông Vô Tế đại sĩ. Dương Phủ bèn xin
từ biệt song thân để đến thụ giáo bậc hiền triết.
Ði được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng. vị lão tăng khuyên Dương Phủ:
“Gặp được bậc Vô Tế chẳng bằng gặp được Phật”.
Dương Phủ hỏi vặn lại: “Phật ở đâu?”. Vị lão tăng giải thích: “Nhà ngươi
cứ quay trở về, gặp người nào mặc cái áo sắc như thế này, đi đôi dép kiểu như
thế này thì chính là Phật đấy”.
Dương Phủ nghe lời quay về nhà. Ði dọc đường, ông chẳng gặp ai như thế cả.
Về đến nhà thì đã khuya, Dương Phủ gõ cửa gọi mẹ. Người mẹ mừng rỡ, khoác chăn,
đi dép ra mở cửa. Bấy giờ, Dương phủ mới chợt nhận ra nơi mẹ mình hình dáng của
Ðức Phật mà vị lão tăng đã mô tả.
Từ đấy, Dương Phủ mới nhận ra rằng cha mẹ trong nhà chính là Phật.
Từ đấy, Dương Phủ mới nhận ra rằng cha mẹ trong nhà chính là Phật.
Thứ nhất thì tu tại gia
Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa.
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là đạo con.
Ðể yêu thương con người một cách trọn vẹn, Chúa đã trở thành một con người.
Chúa có cha, có mẹ. Chúa sinh ra trong một gia đình… Con người không chỉ được cứu
rỗi một cách lẻ loi, nhưng trong một gia đình. Con người cần có một gia đình để
sinh ra, để lớn lên và thành toàn… Tại Nagiaréth, Chúa đã lớn lên trong ân sủng
và dáng vóc. Chúa đã vâng phục Thánh Giuse và Mẹ Maria. Chúa đã học đọc, học viết
và ngâm nga từng câu kinh thánh với Mẹ Maria. Chúa cũng học cách sử dụng từng dụng
cụ trong xưởng mộc của Thánh Giuse.
Trong ba năm sống đời công khai, ngôn ngữ vàcách suy nghĩ của Chúa phản
ánh phần nào sự giáo dục mà Chúa đã thụ hưởng nơi cha mẹ.
Xin Chúa thánh hóa tất cả mọi gia đình Việt Nam. Xin Chúa ban cho bậc cha
mẹ ý thức được trách nhiệm giáo dục của họ. Xin Chúa ban cho con cái lòng hiếu
thảo để biết vâng phục, kính yêu và phụng dưỡng cha mẹ, nhất là trong lúc tuổi
già của các ngài… Và xin cho mọi gia đình Việt Nam luôn biết tranh đấu để bảo vệ
sự hiệp nhất trong gia đình và biến gia đình thành Giáo Hội nhỏ của Chúa.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina: Gioan 8:31-42
Wednesday 1 April,
2020
Lectio Divina
Thứ Tư Tuần V Mùa
Chay
1. Lời nguyện
mở đầu
Lạy Chúa, là Thiên
Chúa chúng con,
Chúa gọi chúng con để
trở thành người tự do.
Xin hãy giúp chúng con
luôn luôn thưa với Chúa
Một lời đáp trả của tự
do.
Được tự do bởi lời giải
thoát và cái chết của Đức Kitô,
Nguyện xin cho chúng
con không bao giờ
Tự trói buộc mình vào
những sợi dây xích của chính mình nữa,
Dây trói của tội ích kỷ
và những quyến luyến sai lạc.
Chúng con cầu xin nhờ
Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
2. Phúc Âm –
Gioan 8:31-42
Khi ấy, Chúa Giêsu nói
với những người Do Thái đã tin nơi Ngài rằng: “Nếu các ngươi cứ ở trong lời
Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải
thoát các ngươi”. Họ thưa lại Người: “Chúng tôi là con cháu
Abraham, và chưa bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại nói ‘Các ngươi
sẽ được tự do’?”
Chúa Giêsu trả lời rằng:
“Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho
tội. Mà tên nô lệ không ở mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn trong
nhà. Vậy nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do
thực sự. Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm
giết Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những
điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi
đã thấy nơi cha các ngươi”. Họ đáp lại: “Cha chúng tôi chính là
Abraham!”
Chúa Giêsu nói:
“Nếu thực sự các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của
Abraham! Nhưng các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi
biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Điều đó Abraham đã không
làm! Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!” Họ lại nói:
“Chúng tôi không phải là những đứa con hoang! Chúng tôi chỉ có một Cha là
Thiên Chúa!”
Chúa Giêsu nói:
“Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa
mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến”.
3. Suy Niệm
– Bài suy niệm về chương 8 của Tin Mừng Gioan tiếp tục
ngày hôm nay. Trong hình thức của các vòng tròn đồng tâm, thánh sử Gioan
đào sâu vào mầu nhiệm Thiên Chúa bao quanh con người của Chúa Giêsu. Nó
có vẻ giống như là một lời lặp đi lặp lại, bởi vì ông luôn nói về cùng một điểm.
Thực ra, nó là một điểm, nhưng mỗi lần ở một mức độ sâu sắc hơn. Bài Tin
Mừng hôm nay nói về chủ đề mối quan hệ của Chúa Giêsu với Abraham, Tổ Phụ của
Dân Thiên Chúa. Gioan cố gắng giúp các cộng đoàn hiểu được cách Chúa
Giêsu đặt mình trong toàn bộ lịch sử Dân Thiên Chúa. Ông giúp cho họ cảm
nhận được sự khác biệt hiện diện giữa Chúa Giêsu và người Do Thái, và cũng như
sự khác biệt giữa người Do Thái và những người khác, tất cả chúng ta đều là con
cái của Abraham.
– Ga 8:31-32: Sự tự do phát xuất từ lòng trung
thành với lời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu khẳng định với người Do
Thái: “Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của
Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi”. Để trở
thành môn đệ của Chúa Giêsu thì cũng giống như mở lòng mình ra với Thiên
Chúa. Lời Chúa Giêsu chính là lời của Thiên Chúa. Chúng thông tri sự
thật, bởi vì chúng làm cho mọi việc được biết như chúng đang ở dưới mắt của
Thiên Chúa và không phải như dưới mắt của người Biệt Phái. Sau đó, trong
Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu sẽ dạy điều tương tự cho các môn đệ.
– Ga 8:33-38: Là con cái của Abraham thì có
nghĩa gì. Người Do Thái phản ứng ngay lập tức: “Chúng tôi là con
cháu Abraham, và chưa bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại nói ‘Các
ngươi sẽ được tự do’?” Chúa Giêsu lặp lại và xác nhận sự khác biệt giữa
người con và người nô lệ mà nói rằng: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các
ngươi: Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ không ở
mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn trong nhà. Vậy nếu Chúa Con giải
thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do thực sự.” Chúa Giêsu là người
con và ở mãi trong nhà Chúa Cha. Kẻ nô lệ thì không ở trong nhà Chúa Cha.
Sống ở ngoài nhà, ngoài nhà của Thiên Chúa có nghĩa là sống trong tội lỗi.
Nếu họ chấp nhận lời của Chúa Giêsu thì họ có thể trở thành con cái và được tự
do thực sự. Họ sẽ không còn là nô lệ nữa. Và Chúa Giêsu nói tiếp:
“Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta:
vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi.” Sự khác biệt thì rất rõ
ràng ngay tức thì: “Ta nói những điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn
các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi”. Chúa
Giêsu không cho họ quyền nói rằng họ là con cái của Abraham, bởi vì các hành động
của họ khẳng định điều trái ngược.
– Ga 8:39-41a: Con cái Abraham thì
làm công việc của Abraham. Họ quả quyết xác định rằng: “Cha chúng
tôi chính là Abraham!” như thể họ muốn trưng ra cho Chúa Giêsu thấy một tài liệu
về căn tính của họ. Chúa Giêsu lặp lại: “Nếu thực sự các ngươi là
con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham! Nhưng các
ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự
Thiên Chúa. Điều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của
cha các ngươi!” Giữa những lời này, Người ngụ ý rằng họ là con cái của
Satan (Ga 8:44). Người hàm ý rằng họ là những đứa con hoang.
– Ga 8:41b-42: “Nếu Thiên Chúa là
Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta
không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến”. Chúa Giêsu lặp đi
lặp lại cùng một sự thật nhưng dùng nhiều chữ khác nhau: “Bất cứ ai đến từ
Thiên Chúa thì lắng nghe lời của Thiên Chúa”. Nguồn gốc của lời khẳng định
này là từ tiên tri Giêrêmia, người đã nói rằng: “Ở trong chúng, Ta sẽ ghi
vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là
Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn phải
dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: ‘Hãy học cho biết ĐỨC CHÚA’, vì hết
thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta – Sấm ngôn của ĐỨC CHÚA – Ta
sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa” (Gr
31:33-34). Nhưng họ sẽ không mở lòng mình ra để trải qua kinh nghiệm mới
này về Thiên Chúa, và bởi vì điều này, họ sẽ không nhận ra Chúa Giêsu là Đấng
đã được Chúa Cha sai đến.
4. Một vài
câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
– Sự tự do là việc quy phục hoàn toàn trước Chúa
Cha. Loại tự do này có hiện hữu trong bạn không? Bạn có biết ai như
thế không?
– Kinh nghiệm sâu sắc nào trong tôi đã hướng dẫn tôi
nhận ra Đức Giêsu là Đấng đã được Thiên Chúa sai đến?
5. Lời nguyện
kết
Lạy CHÚA, chúc tụng
Ngài là Thiên Chúa tổ tiên chúng con,
xin dâng lời ca tụng
tôn vinh muôn đời.
Chúc tụng danh thánh
Ngài vinh hiển, xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời.
Chúc tụng Chúa trong
thánh điện vinh quang, xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời.
Chúa tụng Chúa trên
ngôi báu cửu trùng, xin dâng lời ca tung suy tôn muôn đời.
(Đn 3:52-54)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét