Trang

Chủ Nhật, 21 tháng 4, 2013

22-04-2013 : THỨ HAI TUẦN IV MÙA PHỤC SINH


Thứ Hai sau Chúa Nhật IV Phục Sinh
Thị Kiến của Phê-rô



Bài Ðọc I: Cv 11, 1-18
"Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn ăn năn sám hối để được sống".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, các tông đồ và anh em ở Giuđêa nghe tin rằng cả dân ngoại cũng đã đón nhận lời Thiên Chúa. Khi Phêrô lên Giêrusalem, các người đã chịu cắt bì trách móc người rằng: "Tại sao ngài vào nhà những kẻ không chịu cắt bì và ăn uống với họ?" Phêrô trình bày cho họ sự việc từ đầu đến cuối theo thứ tự sau đây: "Tôi đang ở tại thành Gióp-pê, lúc cầu nguyện, trong một thị kiến, tôi thấy một vật gì giống chiếc khăn lớn túm bốn góc, từ trời thả xuống sát bên tôi. Tôi chăm chú nhìn và thấy những con vật bốn chân, những mãnh thú, rắn rết và chim trời. Tôi nghe tiếng phán bảo tôi: "Phêrô, hãy chỗi dậy giết mà ăn". Tôi thưa: "Lạy Chúa, không được, vì con không khi nào bỏ vào miệng con những đồ dơ nhớp hay bẩn thỉu". Tiếng từ trời nói lần thứ hai: "Vật gì Thiên Chúa cho là sạch, ngươi đừng nói là dơ nhớp". Ba lần xảy ra như thế, và mọi sự lại được kéo lên trời.
"Và ngay lúc đó, ba người từ Cêsarêa được sai đến nhà tôi ở. Thánh Thần truyền dạy tôi đừng ngần ngại đi với họ. Sáu anh em cùng đi với tôi, và chúng tôi vào nhà một người. Anh thuật lại cho chúng tôi biết: anh đã thấy thiên thần hiện ra thế nào; thiên thần đứng trong nhà anh và nói với anh rằng: "Hãy sai người đến Gióp-pê tìm Simon có tên là Phêrô; người sẽ dạy ngươi những lời có sức làm cho ngươi và cả nhà ngươi được cứu độ". Lúc tôi bắt đầu nói, Thánh Thần ngự xuống trên họ như ngự trên chúng ta lúc ban đầu. Bấy giờ tôi nhớ lại lời Chúa phán: "Gioan đã rửa bằng nước, còn các con, các con sẽ được rửa bằng Thánh Thần". Vậy, nếu Thiên Chúa ban cho họ cũng một ơn như đã ban cho chúng ta, là những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà có thể ngăn cản Thiên Chúa?"
Nghe những lời ấy, họ thinh lặng và ca tụng Thiên Chúa rằng: "Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn ăn năn sám hối để được sống".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 41, 2. 3; 42, 3. 4
Ðáp: Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống (Tv 41, 3a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời ôi. - Ðáp.
2) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống; ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời! - Ðáp.
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài. - Ðáp.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ mừng vui. Với cây cầm thụ, con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con. - Ðáp.

Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúng con biết rằng Ðức Kitô đã thật sự sống lại từ cõi chết: Lạy Vua chiến thắng, xin thương xót chúng con. - Alleluia.

Phúc Âm: Ga 10, 1-10
"Ta là cửa chuồng chiên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ".
Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào".
Ðó là lời Chúa.


Suy niệm : Ta Là Cửa Ðoàn Chiên
Anh chị em thân mến!
Phần lớn vùng đất Giuđêa nằm trên độ cao, nhiều gồ ghề và sỏi đá, thuận tiện cho việc chăn nuôi hơn là trồng trọt. Bởi thế, người dân vùng này nói riêng và toàn thể vùng Palestina nói chung thường sống bằng nghề chăn nuôi. Họ nuôi nhiều cừu để lấy lông chiên hơn là ăn thịt. Thế nên, mối liên lạc giữa đàn chiên và người chăn thật mật thiết. Chiên hiểu chủ và chủ biết từng con chiên một.
Hình ảnh người chăn chiên là một diễn tả quen thuộc của lòng nhân từ, yêu thương. Trong Kinh Thánh các tác giả Cựu Ước đặc biệt là Thánh Vịnh thường hay so sánh mối quan hệ giữa Giavê Thiên Chúa và dân Israel như người chăn và đàn chiên. Israel và đàn chiên Giavê chăm sóc trong đồng cỏ của Ngài.
Qua tân Ước, hình ảnh người chăn và đàn chiên cũng được nhiều lần nói đến, đặc biệt là người chăn chiên được Chúa Giêsu tự đồng hóa mình với người chăn chiên nhân lành. Nỗi lòng của người chăn chiên cũng là nỗi lòng của Ngài. Một trong những diễn tả ấy được thánh sử Gioan ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay.
Anh chị em thân mến!
Thấy người Do Thái không lãnh hội được ý nghĩa là người chăn chiên, Chúa Giêsu nói rõ cho họ biết: "Ta là cửa chuồng chiên". Qua đó, chính Chúa Giêsu mạc khải cho họ biết con đường đi tới Chúa Cha như là cửa mà đàn chiên ra vào và được hưởng sự an toàn, được sống dồi dào. Còn những kẻ đến trước mà vào là kẻ trộm cướp nên chiên đã không nghe tiếng họ. Những người đến trước ở đây không phải là các ngôn sứ, nhưng là những người dựa vào sự khôn ngoan thông thái thế gian. Chính họ là những người Thiên Chúa dấu không cho biết những điều thuôc về ơn cứu độ. Trong thực tế, mặc dù bị áp đặt, nhưng người mù được Chúa Giêsu chữa lành không nghe lời người Pharisiêu và chỉ tin vào Chúa Giêsu. Vì họ là kẻ trộm đã giết hại chiên và phá hủy, còn Chúa Giêsu đến để chiên được sống và sống dồi dào.
Chúa Giêsu đã tóm tắt vai trò của Ngài, Ðấng chăn chiên với đàn chiên là hình ảnh cửa đàn chiên: "Ta là cửa, ai qua Ta mà vào thì sẽ được cứu độ". Ðây là hình ảnh quen thuộc của vùng Trung Ðông đối với các mục tử chăn chiên. Người mục tử nhân lành biết lo liệu cho đàn chiên của mình vào ban đêm và ban ngày, sẽ dẫn chiên tới đồng cỏ xanh tươi với dòng suối mát như tác giả Thánh Vịnh 22 vẫn hát lên "trong đồng cỏ xanh tươi Người cho tôi nằm nghỉ, Người cho tôi dòng nước trong lành".
Chúa Giêsu là cửa để qua đó từng con chiên vào và được nghỉ qua đêm an toàn. Chính nơi cửa, người mục tử sẽ cầm gậy để kiểm từng con chiên, không để một con nào bị lạc mất. Chúa Giêsu là cửa, qua đó các con chiên được dẫn đi ăn mỗi buổi sáng, để các chiên nghe và nhận biết tiếng gọi của chủ chăn. Chủ chăn gọi đàn chiên và dẫn chúng đi, người chăn chiên đi trước và chiên theo sau, vì chiên biết tiếng chủ chiên của mình. Hình ảnh cửa chuồng chiên và hình ảnh vị chủ chăn cho chúng ta thấy Ngài là Ðấng chăn chiên, là Ðấng Cứu Ðộ cho những ai nghe tiếng Ngài.
(Veritas Asia)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần IV PS

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người phải vâng theo Kế Hoạch của Thiên Chúa.

Có hai giai đọan trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: Trong giai đoạn thứ nhất, Ngài chọn dân Do-thái để chuẩn bị cho Đấng Thiên Sai tới; sau đó, đến giai đọan thứ hai, Tin Mừng Cứu Độ được loan báo cho tất cả mọi người. Nhiều người Do-thái chỉ dừng lại ở giai đọan thứ nhất. Họ tin chỉ có họ mới là con Thiên Chúa và xứng đáng được hưởng ơn Cứu Độ; Dân Ngoại không phải là con Thiên Chúa, họ xứng đáng để chịu hình phạt và bị hư mất.

Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh tình thương Thiên Chúa và Kế Hoạch Cứu Độ dành cho mọi người. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ mô tả sự xung đột giữa các môn đệ về việc giao tiếp và chấp nhận Dân Ngoại vào đạo thánh Chúa. Phêrô phải dùng thị kiến chiếc lưới từ trời và kinh nghiệm mục vụ để thuyết phục họ: Trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, Dân Ngoại cũng được lãnh nhận Thánh Thần và ơn sám hối để được sự sống đời đời. Loài người chúng ta không thể ngăn cản Kế Hoạch của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là Mục Tử Tốt Lành đến để qui tụ tất cả các chiên và cho chúng được sống dồi dào.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Ơn Cứu Độ được Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người.

1.1/ Xung đột xảy ra giữa người Do-thái và ông Phêrô: Theo truyền thống Do-thái, họ sống cách biệt với các dân tộc khác, và không bao giờ vào nhà của Dân Ngoại. Các người Do-thái chỉ trích Phêrô đã giao tiếp với Dân Ngoại, vào nhà những kẻ không cắt bì, và ăn uống với họ. Bấy giờ ông Phêrô trình bày cho họ biết thị kiến mà ông đã chứng kiến, ông nói: Tôi đang cầu nguyện tại thành Joppa, trong lúc xuất thần, tôi thấy thị kiến này: Có một vật gì sà xuống, trông như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, từ trời thả xuống đến tận chỗ tôi. Nhìn chăm chú và xem xét kỹ, tôi thấy các giống vật bốn chân sống trên đất, các thú rừng, rắn rết và chim trời. Và tôi nghe có tiếng phán bảo tôi: "Phêrô, đứng dậy, làm thịt mà ăn!” Tôi đáp: "Lạy Chúa, không thể được, vì những gì ô uế và không thanh sạch không bao giờ lọt vào miệng con!” Có tiếng từ trời phán lần thứ hai: "Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch, thì ngươi chớ gọi là ô uế! Việc ấy xảy ra đến ba lần, rồi tất cả lại được kéo lên trời.”

Thị kiến này đòi Phêrô phải xét lại truyền thống Do-thái của mình: Vì tất cả những gì Thiên Chúa dựng nên đều tốt lành và thanh sạch, ông không thể giữ thái độ khinh thường Dân Ngoại, coi họ là dân không cắt bì, nô lệ, hay không thanh sạch.

1.2/ Thiên Chúa cũng ban cho các Dân Ngoại ơn sám hối để được sự sống!

(1) Tin Mừng được rao truyền cho Dân Ngoại: Phêrô tiếp tục kể: "Ngay lúc đó, có ba người đến nhà chúng tôi ở: họ được sai từ Caesarea đến gặp tôi. Thần Khí bảo tôi đi với họ, đừng ngần ngại gì. Có sáu anh em đây cùng đi với tôi. Chúng tôi đã vào nhà ông Cornelius. Ông này thuật lại cho chúng tôi nghe việc ông đã thấy thiên sứ đứng trong nhà ông và bảo: "Hãy sai người đi Joppa mời ông Simon, cũng gọi là Phêrô. Ông ấy sẽ nói với ông những lời nhờ đó ông và cả nhà ông sẽ được cứu độ.” Cornelius là viên Đại Đội Trưởng Roma, tuy là Dân Ngoại, nhưng ông đối xử rất tốt với người Do-thái. Nhân cơ hội đó, Phêrô đã rao giảng Tin Mừng về Đức Kitô cho tất cả những người trong gia đình Cornelius. Điều đáng chú ý là Thiên Chúa hoạt động trong biến cố này: Ngài gởi thiên sứ tới báo tin cho Cornelius, đồng thời dùng Thần Khí tác động trên Phêrô, để thúc đẩy ông cùng đi với 3 sứ giả của Cornelius.

(2) Không ai có thể ngăn cản Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: Tôi vừa mới bắt đầu nói, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên họ, như đã ngự xuống trên chúng ta lúc ban đầu. Tôi sực nhớ lại lời Chúa nói rằng: "Ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì sẽ được rửa trong Thánh Thần. Vậy, nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa?" Phêrô nhắc lại biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông-đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần; và nhờ biến cố này, Phêrô nhận ra Thiên Chúa ban Thánh Thần cho tất cả mọi người, chứ không riêng gì những người Do-thái. Sau đó, Phêrô làm Phép Rửa cho tất cả gia đình ông Cornelius.

Nghe Phêrô trình bày đầu đuôi, người Do-thái mới hiểu ra. Họ tôn vinh Thiên Chúa và nói: "Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho các Dân Ngoại ơn sám hối để được sự sống!"

2/ Phúc Âm: Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.

2.1/ Chúa Giêsu là Cửa chuồng chiên: Trong các làng mạc của Do-thái, họ có chỗ chung để nhốt tất cả các chiên trong làng ban đêm. Chỗ nhốt này chỉ có một cửa duy nhất có khóa, và chìa khóa chỉ người giữ cửa mới có. Người giữ cửa biết tất cả các người chăn chiên, và chỉ mở cửa cho những người này. Tuy nhiên, cũng có những người chăn chiên không vào làng, nhưng giữ chiên ngoài cánh đồng như tại Bethlehem. Trong trường hợp này, người chăn chiên sẽ tìm những hang đá mà chỉ có một ngõ ra vào. Đêm đến, họ sẽ lùa chiên vào trong hang đá, và họ sẽ nằm ngủ ngay cửa ra vào. Trong trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến cả hai trường hợp:

(1) "Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra.”

(2) "Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là Cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.”

2.2/ Liên hệ giữa mục tử và chiên: Có một sự liên hệ mật thiết giữa mục tử và đàn chiên. Người mục tử biết tất cả các chiên của mình và thói quen của từng con một; nhiều mục tử còn đặt tên riêng cho mỗi con như “vằn” nếu con nào có những vằn quanh như sóng trên người, “trắng,” “đen,” “khoang”... Đồng thời, các con chiên cũng biết đánh hơi, hay nhận ra chủ của chúng nhờ tiếng gọi đặc biệt, hay tiếng chuông, tiếng kèn, tiếng sáo mà người mục tử đeo trên mình. Đó là lý do tại sao Chúa nói: “Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ."

Chúa cũng đề cập đến sự khác biệt giữa Mục Tử và trộm cướp: “Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” Người chăn chiên thật phải chịu trách nhiệm về đàn chiên của mình với chủ; nếu chiên bị ăn thịt, anh phải có bằng chứng rõ ràng để trình cho chủ. Người chăn chiên đích thực phải chăm sóc bằng cách tìm những đồng cỏ xanh và nước trong lành cho chiên ăn uống. Anh phải bảo vệ chiên khỏi mọi nguy hiểm như: chó sói, sư tử, kẻ trộm, kẻ cướp... Qua hình ảnh thân thương này, Chúa Giêsu muốn ví Ngài như Mục Tử Tốt Lành và các tín hữu được ví như đàn chiên. Ngài đến để cho chúng ta được sống, và sống dồi dào.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Tất cả mọi người đều có thể nhận được ơn Cứu Độ trong Kế Hoạch của Thiên Chúa, và Tin Mừng cần được loan báo cho mọi dân tộc.

- Để được hưởng ơn Cứu Độ, chúng ta cần biết lắng nghe và tin tưởng vào Đức Kitô, Người Mục Tử Tốt Lành mà Thiên Chúa gởi tới con người.

- Người mục tử tốt lành là người phải vào qua Cửa là Đức Kitô: họ phải nhân danh Đức Kitô giảng dạy, chữa lành; và bắt chước Đức Kitô để săn sóc và bảo vệ đòan chiên của mình.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP


HẠT GIỐNG NẨY MẦM  TUẦN 4 PHỤC SINH
Ga 10,1-10

A. Hạt giống...
Sang đơn vị nói về Mục tử tốt lành. Bài giáo lý thứ 3 : sống dưới sự dẫn dắt của Chúa Giêsu là Mục tử tốt lành.
Đoạn Tin Mừng hôm nay trình bày Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên :
- "Ai không qua cửa chuồng chiên mà vào thì là quân trộm cướp" : Chúa Giêsu ám chỉ những người biệt phái và luật sĩ. Họ không được Thiên Chúa ủy nhiệm, họ chỉ dành quyền lãnh đạo tôn giáo, không phải để mưu cầu lợi ích cho dân, mà để tìm vinh dự và quyền lợi riêng.
- "Ta là cửa chuồng chiên" : Chúa Giêsu là mục tử đích thực của dân. Ngài đi vào đường hoàng, được người canh gác mở cửa cho, gọi tên từng con chiên, chiên quen tiếng nên đi theo, Ngài dẫn chúng đi ăn...

B.... nẩy mầm.
1. Chúa chúng ta không phải là một Thiên Chúa cao vời xa cách, mà là một Thiên Chúa rất gần gũi yêu thương, như một mục tử sống sát với đàn chiên, hiểu biết, yêu thương, chăm sóc từng con chiên một... Giả như tôi có là một con chiên yếu đau, què quặt, Chúa đã biết và vẫn thương tôi, hơn nữa còn chăm sóc tôi đặc biệt hơn những chiên khác. Vì thế tôi nên phó thác sống theo sự dẫn dắt của Ngài.
2. Từ lâu, tôi vẫn cứ ấm ức không hiểu tại sao khi minh họa chân dung mình trong dụ ngôn Mục tử tốt lành, Chúa Giêsu lúc thì ví mình như Mục tử, lúc lại ví mình như cửa chuồng chiên. Gần đây, một cuốn sách đã giải tỏa cho tôi thắc mắc đó. Sách viết : một du khách đến Palestin, gặp được một mục tử đang làm việc tại một trại cừu. Người đó chỉ cho du khách thấy cảnh vật biến ảo của cánh rừng. Thấy thế, du khách hỏi : "Đó là trại cừu, kia là bấy cừu, đây là lối vào. Vậy còn cửa đâu ?" Người mục tử hỏi lại : "Cửa hả ? Chính tôi là cửa. Ban đem tôi nằm giữa lối đi này. Không một con cừu nào bước ra hay một con sói nào bước vào mà không phải qua xác tôi." Thế đó, đức Giêsu đâu có lẫn lộn khi trình bày chân dung mình : Ngài vừa là mục tử vừa là cửa vào. (Góp nhặt) 
3. "Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh."
"Tôi xin chọn Người làm gia nghiệp tôi mãi mãi. Trọn đời tôi trót cả đời tôi, trọn tuổi xuân, dâng cả tình yêu luôn với ước mơ... " Đối với tôi, đó không chỉ là một bài hát, là những nốt nhạc, những là tâm nguyện, là cuộc đời của một chàng trai đã dám từ bỏ tất cả : tương lai rực rỡ, một người yêu tuyệt vời và cả những cuộc vui cùng bè bạn, để bước theo tiếng Chúa gọi.
Đã bao lần tôi muốn quyết định... những rồi lại thôi. Muốn đặt bước chân mình lên bước chân Người, định đưa tay tôi ra để Người nắm lấy và dẵn tôi đi, nhưng lại hèn nhát rụt tay lại.
Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con, và xin cho con biết đón nhận thánh ý Người.  (Epphata)
4. (những mầm khác)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI - Gp.Cần Thơ

22/04/13 THỨ HAI TUẦN 4 PS
Ga 10,1-10

MỤC TỬ VÀ CHIÊN
“Ta đến để chúng được sống và sống dồi dào.” (Ga 10,10)
Suy niệm: Chúa Giêsu dùng những hình ảnh giản dị nhưng ấn tượng để chỉ mối tương quan thắm thiết giữa mục tử và chiên: chiên nhận ra tiếng chủ và chỉ đi theo chủ; chủ biết tên và yêu thương từng con chiên, đi trước dẫn đường, đưa chiên tới đồng cỏ xanh, suối nước ngọt, miệt mài đi tìm chiên lạc, liều thân bảo vệ chiên khỏi kẻ thù... Tóm lại là để chiên “được sống và sống dồi dào” (c. 10). Rồi Chúa kết luận: Tôi chính là người Mục Tử nhân lành (c. 11). Thật vậy, qua việc rao giảng Tin Mừng cho người khốn khổ, chữa lành bệnh tật, tha thứ tội lỗi, lập các bí tích và trên hết, hiến thân chịu chết để dẫn đưa con người tới nguồn sống thật là Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã chứng tỏ Ngài là Mục Tử nhân lành.
Mời Bạn: Chúa vẫn tiếp tục thể hiện vai trò Mục Tử trong Hội Thánh, qua các thừa tác viên của Ngài. Mời bạn xét lại thái độ, tâm tình, ứng xử của bạn đối với các mục tử: mối tương quan giữa bạn và các mục tử có tốt đẹp không? Phần các mục tử cũng phải luôn xem xét thái độ của mình đối với đoàn chiên được giao phó có giống như Chúa Giêsu là Mục Tử tốt lành không.
Sống Lời Chúa: Đến với Chúa bằng lời cầu nguyện, tham dự bí tích Thánh Thể, suy niệm Lời Chúa; và tiếp tục cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục, để Hội Thánh có được những “mục tử như lòng Chúa ước mong” (Gr 3,15).
Cầu nguyện: Hát hay đọc Thánh Vịnh 22: “Chúa là Mục Tử, Người dẫn lối chỉ đường cho con đi. Đi trong tay Chúa nào con thiếu chi, con sợ chi? Cỏ tươi rờn đồng xanh, con no thỏa không bao giờ thiếu nữa, suối nước trường sinh con nghỉ uống no đầy...”

Tôi là cửa cho chiên
Cửa chuồng chiên nhằm để chiên đi vào và tìm được sự an toàn. Cửa cũng nhằm để chiên đi ra và tìm được đồng cỏ nuôi sống. Chỉ ai qua Cửa Giêsu mà vào mới được cứu độ.

Suy nim:
Chúng ta vẫn ở trong mùa Phục sinh, mùa của sự sống tươi mới. Đức Giêsu là người mục tử chăn chiên. Khác với kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy, Ngài đến để chiên có sự sống, và có một cách dồi dào (c. 10). Hãy nhìn những nét đặc trưng của người mục tử đích thực. Anh đi vào ràn chiên hay chuồng chiên bằng cửa, đường đường chính chính, chứ không lén lút trèo qua tường rào (cc. 1-2). Người giữ cửa quen anh và mở cửa cho anh. Chiên cũng quen anh và quen tiếng của anh. Tiếng của anh là dấu hiệu quan trọng để chiên nhận ra và phân biệt anh với người lạ hay kẻ trộm (cc. 3-5). Chiên nghe tiếng của anh (c. 3). nhưng không nghe tiếng người khác (c. 8).Anh trìu mến gọi tên từng con, vì anh biết rõ chiên của mình. Khi dẫn chúng ra ngoài chuồng, anh đi trước dẫn đường, chúng yên tâm theo sau chứ không chạy trốn, vì chúng biết mình đang đi theo ai và sẽ được dẫn đến đâu. Rõ ràng có sự hiểu nhau, gần gũi giữa chiên và mục tử.
Nhưng Đức Giêsu không chỉ là Mục tử chăn chiên. Ngài còn tự nhận mình là Cửa cho chiên ra vào (c. 7. 9). Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Khi Ngài đưa ta đến với Cha, Ngài nhận mình là Cửa. Khi Ngài săn sóc ta, Ngài nhận mình là Mục Tử.” Cửa chuồng chiên nhằm để chiên đi vào và tìm được sự an toàn. Cửa cũng nhằm để chiên đi ra và tìm được đồng cỏ nuôi sống. Chỉ ai qua Cửa Giêsu mà vào mới được cứu độ. Ai ra vào Cửa Giêsu mới tìm thấy đồng cỏ xanh tươi (c. 9). Cửa Giêsu cũng giúp phân biệt mục tử giả và thật. Mục tử giả sẽ không dám đến với chiên qua Cửa Giêsu. Mong sao cho Giáo Hội có nhiều mục tử gần gũi với chiên, biết gọi tên từng con chiên và đem lại cho chiên hạnh phúc. Và mong sao chiên có khả năng nhận ra tiếng nói của người mục tử.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa nhận mình là Tấm Bánh, vì Chúa muốn nuôi tâm linh chúng con.
Chúa nhận mình là Cây Nho, vì Chúa muốn trao cho chúng con dòng nhựa sống. Chúa nhận mình là Mục tử nhân lành, vì Chúa muốn dẫn chúng con đến nơi đồng cỏ. Chúa nhận mình là Cửa,vì Chúa mở cho chúng con sự phong phú của Nước Trời. Chúa nhận mình là Con Đường, vì Chúa là Đấng duy nhất dẫn chúng con đến với Chúa Cha. Chúa nhận mình là Ánh sáng, vì Chúa có khả năng khuất phục bóng tối trong thế gian này. Chúa nhận mình là Sự Thật, vì Chúa vén mở cho chúng con khuôn mặt của Thiên Chúa. Chúa nhận mình là Sự Sống và là Sự Sống Lại, vì Chúa không để cho chúng con bị cái chết chôn vùi.
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa vì mọi điều Chúa định nghĩa về mình đều hướng đến hạnh phúc cho chúng con, và đều cho chúng con sự sống thâm sâu của Chúa. Xin cho chúng con chấp nhận Chúa là Anpha và Ômêga, là Khởi Nguyên và là Tận Cùng của cuộc đời mỗi người chúng con. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


SUY NIỆM Ga 10,1–10
Nghe bài Tin Mừng, có lẽ ta thoáng nghĩ rằng Đức Giêsu đang ‘lo ra’ khi giảng bài này, bằng chứng là lập luận của Ngài không thống nhất: khi thì Ngài ví mình là mục tử, khi thì Ngài tự nhận mình là cửa chuồng chiên. Vậy, Ngài muốn ví mình là mục tử hay cửa chuồng chiên?
Thưa, mục tử và cửa chuồng chiên chỉ là một, nếu ta hiểu được trường hợp này: Ngoài những chuồng chiên cố định với những cánh cửa chắc chắn, còn có những chuồng chiên ngoài sườn đồi trong hoàn cảnh di động: chiên được tập hợp lại tại những khoảng đất trống. Trong hoàn cảnh này, người chăn chiên nằm ngay chỗ chiên ra vào. Anh ta là mục tử nhưng cũng chính là cửa chuồng chiên.
Dường như ngày nay, sự xấu đang lan tràn khắp nơi, đang uốn cong nhiều lương tâm ngay chính. Dường như ngày nay, con người dễ bị nghiêng chiều theo sự dữ, dễ đồng thuận với sự ác và dị ứng với điều tốt. Thế nên, trong phạm vi, mỗi người đều được mời gọi trở nên mục tử, trở nên cánh cửa vững chắc bảo vệ những người mà mình có trách nhiệm: chồng mình, vợ mình, con cái, bạn hữu, học trò  mình…
Mong sao, tôi luôn là một mục tử, là một cánh cửa vững chắc để bảo vệ gia đình tôi, anh em tôi khỏi mọi sự dữ, sự xấu đang mênh mông trên mặt đất này.
Mong sao, bằng lời cầu nguyện, bằng ý thức trách nhiệm, bằng gương lành… tôi làm cho anh em tôi ‘được sống và sống dồi dào’
                                                                                  Lm. AN NAM

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

22 THÁNG TƯ

Phải Chăng Chúng Ta Tự Hài Lòng Với Một Tình Yêu Giả Hiệu?

Sau lời nói trao ban Thánh Thần cho các Tông Đồ, Đức Kitô nói về việc tha tội. Người phán: “Anh em tha tội cho ai thì tội người ấy được tha; anh em cầm buộc ai thì người ấy bị cầm buộc” (Ga 20,22-23). Sở dĩ Đức Kitô nói điều đó bởi vì sự tha thứ tội lỗi giả định việc nhận biết và xưng thú tội. Và cả hai việc này đều liên quan với cố gắng sống trong sự thật và trong tình yêu.

Sự nhận biết và xưng thú tội lỗi đích thực sẽ đem lại sức mạnh của sự thật và tình yêu cho đời sống chúng ta. Nó làm cho chúng ta trở nên những con người mới và nó biến đổi thế giới.

Điều ngược lại sẽ xảy ra khi chúng ta lấp liếm sự thật và đánh lận tình yêu. Bấy giờ, chúng ta đã bôi xóa lằn ranh giữa sự thiện và sự ác. Chẳng hạn, chúng ta dán nhãn “nhân bản” cho điều thực sự là tội lỗi!

Đáng buồn, những ví dụ như vậy đang diễn ra nhan nhãn. Trong thời đại của chúng ta, sự khủng bố bị tố cáo là một tội ác và là một xúc phạm thô bạo đến những quyền căn bản của con người. Hành vi ngộ sát cũng bị tố cáo là vô nhân đạo tại các nước văn minh. Nhưng việc tước đoạt sự sống của những con người chưa được sinh ra thì lại được gọi là “nhân bản” và được cho là một “bằng chứng của tiến bộ”. Người ta gọi đó là tự do. Thế nhưng, sự tự do đích thực luôn bao hàm sự tôn trọng phẩm giá của nhân vị con người!
Anh chị em thân mến! Nói lên những điều này, tôi không nhằm tố cáo bất cứ ai. Tôi muốn san sẻ nỗi đau của mình đối với sự sống của các em bé chưa được sinh ra, đối với phẩm giá của nhân vị con người.

Chúng ta đừng tự lừa dối chính mình! Tất cả chúng ta phải nhìn thẳng vào tội lỗi và phải dứt khoát với tội lỗi. Chỉ có sự thật mới giải phóng chúng ta (cf. Ga 8,32). Chỉ có sự thật mới có sức mạnh biến đổi thế giới, mới có thể đem lại tiến bộ đích thực, đem lại tính “nhân bản” Kitô giáo đích thực. Xin đừng nói rằng những đòi hỏi của sự thật, của lương tâm và của phẩm giá con người chỉ là một sự lựa chọn “chính trị”. Không! Đó là những đòi hỏi khẩn thiết để có thể làm người đích thực. Xin đừng xem thường nữa những điều mang tầm quyết định đến sự sống còn của con người, những điều cốt yếu làm nên nhân tính.


- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 22-4
Cv 11, 1-18; Ga 10, 1-10.


LỜI SUY NIỆM: Vậy Đức Giêsu nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào…Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,7-10)

Chúa Giêsu dùng dụ ngôn về người chăn chiên, đây là một hình ảnh rất quen thuộc với người Do-Thái. Nhưng Chúa Giêsu nhấn mạnh về vai trò người chăn chiên lành: có trách nhiệm chăn dắt, nuôi sống và bảo vệ cho đoàn chiên được lớn mạnh và an toàn, dù phải hy sinh đến tính mạng của mình. Đồng thời lên án những người chăn chiên thuê, họ chỉ là những người làm công để lãnh lương, họ vô trách nhiệm trong việc chăm sóc và bảo vệ đoàn chiên, họ không dám hy sinh mà đôi khi còn giết hại chiên vì thú vui trong chốc lát. Ước gì hôm nay dân Chúa có nhiều mục tử sống theo gương Chúa Giêsu, để đoàn chiên được sống trong an lành và thánh thiện. Chúng ta phải cùng nhau cầu nguyện một cách liên lỉ. Chúa sẽ nhậm lời chúng ta.

Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân

Ngày 22/4 - Chân Phước Giles ở Assisi
(1190 -- 1262)


Chân Phước Giles, một trong các môn đệ của Thánh Phanxicô, là người đơn giản và siêng năng cầu nguyện.
Vào ngày 23 tháng Tư, 1208, một người tá điền tên Giles đã phân phát tài sản cho người nghèo và đi theo Thánh Phanxicô. Trong phần giới thiệu ông Giles, Thánh Phanxicô nói: "Ðây là một người anh em tốt lành mà Thiên Chúa đã gửi đến cho chúng ta! Hãy ngồi vào bàn và ăn mừng."
Trong thời gian đầu sau khi là một tu sĩ dòng Phanxicô, Thầy Giles tháp tùng Thánh Phanxicô trong nhiều công tác truyền giáo ở chung quanh Assisi, cũng như hành hương đến Rôma, Ðất Thánh và đền nổi tiếng của Thánh Giacôbê ở Compostela, Tây Ban Nha. Vào năm 1219, ngài đến Tunis để rao giảng cho người Hồi Giáo, nhưng người Kitô Giáo ở đây, sợ rằng ngài sẽ gây khó khăn cho họ, nên đã đưa ngài lên thuyền trở về Ý. Sau đó, Thầy Giles làm việc lao động trong vài năm. Vào năm 1234, ngài di chuyển đến Monte Rapido gần Perugia để theo đuổi đời sống chiêm niệm. Thầy sống ở đây cho đến khi từ trần.
Thầy Giles luôn luôn làm việc để có miếng ăn hàng ngày ngay cả khi ngài là khách. Có lần khi đang ở nhà một vị hồng y, và buổi sáng hôm ấy trời mưa tầm tã. Vị hồng y vui mừng nghĩ rằng Thầy Giles sẽ không thể nào làm việc lao động được, và thầy sẽ phải nhận lòng bác ái của đức hồng y. Tuy nhiên, người tu sĩ khéo léo này đã đi vào bếp để lau chùi, quét dọn và giúp người đầu bếp chuẩn bị bữa ăn tối!
Khi Thánh Bonaventura đến Perugia, Thầy Giles hỏi ngài rằng, một người ngu dốt có thể yêu mến Thiên Chúa nhiều như một học giả không. Thánh Bonaventura, lúc ấy là một thần học gia nổi tiếng xuất thân từ Ðại Học Balê và là bề trên tổng quyền, trả lời: "Một bà già tầm thường có thể yêu mến Thiên Chúa nhiều hơn là một bậc thầy về thần học." Ngay lập tức, Thầy Giles chạy đi gặp một bà già và nói, "Bà ơi, dù bà đơn sơ và không có học thức, nhưng nếu bà yêu mến Thiên Chúa thì bà có thể cao trọng hơn cả Bonaventura."
Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô IX, trước đây là Hồng Y Hugolinô và là một người ái mộ Thánh Phanxicô, đã có lần đưa Thầy Giles đến Viterbo để ngài có thể tận mắt chứng kiến sự thánh thiện của thầy. Cả hai bắt đầu nói chuyện về thiên đàng, và Thầy Giles đã hai lần rơi vào tình trạng ngất trí trong một thời gian khá lâu. Một lần khác, đức giáo hoàng yêu cầu thầy khuyên bảo về nhiệm vụ của một giáo hoàng. Thầy nói với đức giáo hoàng là ngài phải có hai đôi mắt trong linh hồn: một đôi để chiêm ngắm những sự trên trời, và một đôi để nhìn đến những sự dưới đất. Như đức giáo hoàng và Thánh Bonaventura đồng ý, Thầy Giles là một bậc thầy về đời sống tâm linh. Tập "Lời Vàng của Thầy Giles" đã ghi lại những lời nói đáng nhớ của thầy.
Là một trong những môn đệ tiên khởi của Thánh Phanxicô, Thầy Giles khước từ mọi dễ dãi về kỷ luật trong Quy Luật Thánh Phanxicô. Thầy được phong chân phước năm 1777.

Lời Bàn

Chúng ta được dựng nên với một mục đích. Chân Phước Giles biết rằng mục đích của đời sống chúng ta là sống với Thiên Chúa, và ngài đã vui vẻ chuẩn bị cho đời sống ấy.

Lời Trích

"Chim chóc trên trời, muông thú dưới đất và cá dưới biển đều thoả mãn khi chúng có đủ thức ăn. Nhưng con người thì không thỏa mãn với những sự trần thế và luôn luôn khao khát những điều khác, do đó hiển nhiên là con người được tạo dựng không chỉ cho chính mình mà còn cho tha nhân. Vì thân xác được tạo dựng là cho linh hồn, và thế giới này được tạo dựng là cho thế giới khác" (Lời Vàng).



22 Tháng Tư

Món Quà Của Con Cáo

Một câu chuyện giả tưởng thuật lại như sau:
Khi Chúa giáng sinh, các thú vật đều tới mừngChúa. Mỗi con đều dâng Chúa chút quà: Chị bò cái dâng sữa. Cậu khỉ biếu Chúa mấy trái nho.
Chú sóc nâu bé nhỏ tình nguyện ở lại làm đồ chơi cho Chúa.
Chúa Hài Ðồng vui vẻ nhận tất cả. Ðang lúc các thú vật quây quần bên Chúa thì chàng cáo xuất hiện. Các thú vật đều ghét cáo, vì hắn ta gian manh quỷ quyệt... Chúng chặn không cho cáo đến gần Chúa và tự hỏi: Không biết cáo định âm mưu gì.
Cáo nói: Tôi đến dâng lễ vật cho Chúa. Nhưng chẳng thấy cáo mang theo lễ vật nào. Chúa ra hiệu cho cáo vào. Quỳ bên Chúa Hài Ðồng chàng cáo thì thầm dâng lên Chúa long quỷ quyệt của mình.
Thú vật đều bỡ ngỡ: Dâng gì kì cục vậy! Trái lai cáo ta vui cười hớn hở, còn Chúa đặt hai tay trên đầu cáo tỏ dấu ưng thuận chúc lành. Xưa nay cáo sung sướng nhờ sự quỷ quyệt của mình, bây giờ dâng cho Chúa rồi, nó sẽ phải kiếm ăn cực nhọc với tấm lòng lương thiện. Chàng cáo đã dâng nhiều hơn hết mọi con vật.

Hẳn chúng ta cong nhớ câu chuyện "Người phụ nữ ngoại tình" trong tin Mừng: Một khi đã phạm tội, bà bị những người xung quanh kết án có thể gọi là "chung thân". hình như bà bị xã hội khắc vào má hai chữ "ngoại tình" không thể nào tẩy xóa được. Giống như chú cáo trong câu chuyện trên: Ðã gian manh quỷ quyệt thì mọi thú đều không thể tưởng tượng cáo có thể thay đổi.
Nhưng với sự xuất hiện và hoạt động của Chúa Giêsu, mọi đổi thay đều có thể xảy ra. Con cáo có thể bỏ tính mánh mum xảo trá để làm ăn lương thiện. Qua bao thế hệ, câu nói của Chúa Giêsu: "Tôi cũng thế, tôi không kết tội chị. Vậy chị hãy ra về và từ nay đừng phạm tội nữa" đã giúp đổi đen thành trắng nhiều cuộc đời.
Chúng ta hãy tập đừng vội xét đoán và nhất là đừng bao giờ kết án ai. Trái lại hãy cho nhau những cơ hội mới để mọi người có thể canh tân cuộc sống.
Tiếp đến, hãy tận tình giúo đỡ những người đang gặp khó khăn, những kẻ đang vấp ngã: Hãy giơ cánh tay thân thiện kéo họ ra khỏi những vũng bùn nhơ, thay vì đi nói xấu hay xét đoán và kết án họ.


(Lẽ Sống)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét