Trang

Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2014

Phúc Trình của THĐ Đặc Biệt về Gia Đình (29-62)

Phúc Trình của THĐ Đặc Biệt về Gia Đình

Phần III

Đối diện với tình thế: các viễn ảnh mục vụ

Công bố Tin Mừng Gia Đình trong các bối cảnh khác nhau ngày nay
29. Cuộc thảo luận tại THĐ đã cho phép đạt được thoả thuận về một số trong các nhu cầu mục vụ cấp thiết hơn cần được đề cập tới tại các Giáo Hội đặc thù, trong hiệp thông cum Petro et sub Petro (cùng với Phêrô và dưới quyền Phêrô). Việc công bố Tin Mừng Gia Đình là điều khẩn trương cần thiết trong công trình phúc âm hóa. Giáo Hội phải thi hành việc này bằng một tình dịu dàng của người mẹ và bằng một sự minh bạch của người thầy (xem Eph 4: 15), luôn trung thành với lòng từ bi được tỏ bày trong việc kenosis (tự hủy) của Chúa Kitô. Sư thật đã trở thành xác phàm trong cảnh yếu đuối nhân bản, không phải để kết án nó mà để cứu vớt nó (xem Ga 3: 16, 17).

30. Việc phúc âm hóa là trách nhiệm chung của mọi dân Chúa, mỗi người theo thừa tác và đặc sủng của mình. Không có chứng từ hân hoan của những người kết hôn và của các gia đình, thì việc công bố này, cho dù được thực hiện đúng đắn ra sao, vẫn có nguy cơ bị hiểu lầm hoặc mất hút trong cái loạn ngầu ngôn từ vốn là đặc điểm của xã hội ngày nay (xem Novo Millennio Ineunte, 50). Trong nhiều dịp khác nhau, các nghị phụ THĐ đã nhấn mạnh rằng các gia đình Công Giáo, do chính ơn thánh của Bí Tích Hôn Nhân, được mời gọi trở thành các tác nhân tích cực trong mọi hoạt động mục vụ nhân danh gia đình.

31. Tính tối thượng của ơn thánh cần được nhấn mạnh và sau đó, các khả thể do Chúa Thánh Thần ban phát trong bí tích này. Đây là vấn đề giúp người ta cảm nghiệm được rằng Tin Mừng Gia Đình là một niềm vui “tràn ngập cõi lòng và đời sống” vì trong Chúa Kitô, chúng ta “được giải phóng khỏi tội lỗi, buồn đau, trống rỗng nội tâm, và cô đơn” (Evangelii Gaudium, 1). Nhớ tới Dụ Ngôn Người Gieo Gống (xem Mt 13; 3), nhiệm vụ của ta là hợp tác vào việc gieo; phần còn lại là của Chúa; ta cũng không nên quên rằng khi giảng dạy về gia đình, Giáo Hội là dấu chỉ mâu thuẫn. 

32. Bởi thế, công việc này kêu gọi mọi người trong Giáo Hội phải hồi tâm truyền giáo, nghĩa là, không dừng lại ở việc công bố một sứ điệp được coi chỉ có tính lý thuyết, mà không có bất cứ liên hệ nào với những vấn đề thực của người ta. Ta phải liên tục nhớ rằng cuộc khủng hoảng đức tin đã dẫn tới cuộc khủng hoảng hôn nhân và gia đình và, do đó, việc lưu truyền đức tin từ cha mẹ xuống con cái thường bị gián đoạn. Nếu ta chịu đương đầu với tình thế bằng một đức tin mạnh mẽ, thì việc áp đặt một số viễn ảnh văn hóa làm suy yếu gia đình sẽ chẳng quan trọng gì nữa. 

33. Hồi tâm cũng cần phải có trong ngôn ngữ ta sử dụng, làm thế nào để nó tự chứng tỏ được ý nghĩa hữu hiệu của nó. Việc công bố cần phải tạo ra một trải nghiệm trong đó Tin Mừng Gia Đình đáp ứng được các hoài mong sâu xa nhất của người ta: đáp ứng phẩm giá mỗi người và hoàn toàn thoả mãn việc hỗ tương, việc hiệp thông và sinh hoa kết trái. Việc này không chỉ hệ ở việc đưa ra một số luật lệ mà phải kết hợp các giá trị nào đáp ứng được các nhu cầu của những người thấy mình sống trong các quốc gia bị thế tục hóa nhiều nhất. 

34. Lời Chúa là nguồn sống và nguồn linh đạo cho gia đình. Mọi công trình mục vụ nhân danh gia đình phải giúp người ta được lên khuôn trong nội tâm và được đào tạo trở thành chi thể của Giáo Hội tiểu gia qua thói quen đọc Sách Thánh bằng thái độ cầu nguyện của Giáo Hội. Lời Chúa không những là tin vui trong đời sống tư riêng của người ta, mà còn là tiêu chuẩn để phán đoán và là ánh sáng để biện phân các thách đố đa dạng mà các vợ chồng và các gia đình gặp phải. 

35. Đồng thời, nhiều nghị phụ THĐ nhấn mạnh tới cách tiếp cận mục vụ tích cực hơn đối với sự phong phú của nhiều kinh nghiệm tôn giáo đa dạng, mà không coi thường các khó khăn nội tại. Trong các thực tại tôn giáo khác nhau và trong tính đa dạng lớn lao của văn hóa vốn là đặc điểm của các quốc gia, các khả thể tích cực nên được đánh giá đầu tiên, rồi trên căn bản này, ta mới đánh giá các giới hạn và các thiếu sót của chúng.

36. Hôn nhân Kitô Giáo là một ơn gọi cần được đảm nhận sau khi chuẩn bị thích đáng cho cuộc hành trình đức tin bằng một diễn trình biện phân thỏa đáng và không nên coi đây chỉ là một truyền thống văn hóa hay một đòi hỏi có tính xã hội hay luật lệ. Bởi thế, việc đào tạo cần phải đồng hành với cá nhân và cặp [đính hôn] sao cho kinh nghiệm đời thực của cộng đồng Giáo Hội phải song hành với việc giảng dạy nội dung đức tin. 

37. Các nghị phụ THĐ nhiều lần kêu gọi phải có cuộc canh tân thấu đáo trong thực hành mục vụ của Giáo Hội dưới ánh sáng Tin Mừng Gia Đình thay vì chỉ nhấn mạnh tới các cá nhân như hiện nay. Vì lý do này, các nghị phụ THĐ nhiều lần nhấn mạnh tới việc canh tân cách huấn luyện các linh mục và các nhân viên mục vụ khác bằng cách cho các gia đình tham dự nhiều hơn vào diễn trình này. 

38. Các ngài cũng nhấn mạnh không kém sự kiện này: phúc âm hóa cần phải lên án cách rõ rệt các nhân tố văn hóa, xã hội, chính trị và kinh tế, như dành nhiều quan trọng quá đáng cho luận lý thị trường là thứ ngăn cản cuộc sống gia đình chân chính và dẫn tới kỳ thị, nghèo đói, loại trừ và bạo lực. Thành thử, cần phải khai triển việc đối thoại và hợp tác với các thực thể xã hội cũng như cần phải khuyến khích các Kitô hữu giáo dân đang can dự vào các lãnh vực văn hóa và chính trị xã hội. 

Hướng dẫn các cặp đính hôn chuẩn bị cuộc hôn nhân của họ

39. Thực tại xã hội phức tạp và các thay đổi đang ảnh hưởng tới gia đình ngày nay đòi cộng đồng Kitô hữu phải cố gắng nhiều hơn để chuẩn bị cho những ai sắp sửa kết hôn. Tầm quan trọng của các nhân đức phải được kể đến, trong đó, đức trong sạch (chastity) thực là vô giá đối với việc lớn mạnh chân chính của tình yêu giữa hai người. Về phương diện này, các nghị phụ THĐ cùng nhau nhấn mạnh tới việc toàn bộ cộng đồng phải can dự một cách sâu rộng hơn bằng cách đề cao chính chứng tá của các gia đình và bao gồm việc chuẩn bị hôn nhân trong các khóa Khai Tâm Kitô Giáo cũng như nhấn mạnh tới mối nối kết giữa bí ích hôn nhân và các bí tích khác. Các ngài cũng cảm thấy cần có các chương trình chuyên biệt trong việc chuẩn bị hôn nhân, những chương trình có thể giúp người học học được kinh nghiệm tham dự thực sự vào đời sống Giáo Hội cũng như thấu đáo bàn tới các khía cạnh khác nhau của cuộc sống gia đình. 

Đồng hành với các cặp kết hôn trong các năm đầu hôn nhân của họ

40. Các năm đầu kết hôn là thời kỳ quan yếu và nhậy cảm trong đó, các cặp vợ chồng ý thức rõ hơn các thách đố và ý nghĩa của cuộc sống lứa đôi. Do đó, việc đồng hành mục vụ cần đi quá bên kia việc cử hành Bí Tích (Familiaris Consortio, Phần III). Về phương diện này, các vợ chồng nhiều kinh nghiệm có tầm quan trọng lớn lao trong bất cứ sinh hoạt mục vụ nào. Giáo xứ là nơi lý tưởng để những vợ chồng nhiều kinh nghiệm này có thể phục vụ các vợ chồng non trẻ hơn. Vợ chồng nào cũng cần được khích lệ trong việc cởi mở chào đón hồng phúc con cái. Cũng cần nhấn mạnh tới tầm quan trọng của linh đạo gia đình và việc cầu nguyện nhằm khuyến khích các vợ chồng gặp gỡ thường xuyên để cổ vũ sự lớn mạnh trong đời sống thiêng liêng và trong tình liên đới qua các đòi hỏi cụ thể của cuộc sống. Các việc phụng vụ có ý nghĩa, các thực hành đạo đức và Thánh Thể cử hành cho toàn bộ các gia đình đã được các nghị phụ nhắc tới như là các nhân tố quan yếu đối với việc phát huy công trình phúc âm hóa nhờ gia đình. 

Chăm sóc mục vụ cho các cặp kết hôn dân sự hay sống chung với nhau

41. Dù liên tục công bố và cổ vũ hôn nhân Kitô Giáo, THĐ vẫn khuyến khích việc biện phân mục vụ đối với các tình huống của rất nhiều người không còn sống thực tại này nữa. Đi vào đối thoại mục vụ với những người này là điều cần có để phân biệt được các yếu tố nào trong đời sống họ có thể dẫn họ tới chỗ cởi mở hơn đối với Tin Mừng Gia Đình trong sự viên mãn của nó. Các mục tử phải nhận diện được các yếu tố nào có thể cổ xúy việc phúc âm hóa và sự lớn mạnh về nhân bản và tâm linh. Một yếu tố mới trong sinh hoạt mục vụ ngày nay là mẫn cảm đối với các yếu tố tích cực của các cuộc hôn nhân theo dân luật và các cuộc sống chung, tuy có nhiều dị biệt hiển nhiên. Dù trình bày sứ điệp Kitô Giáo một cách rõ ràng, Giáo Hội vẫn cần chỉ rõ các yếu tố xây dựng trong các tình huống này, các tình huống chưa hay không còn tương hợp với sứ điệp vừa nói nữa. 

42. Các nghị phụ THĐ cũng nhận định rằng tại nhiều quốc gia “đang có sự gia tăng con số những người sống chung với nhau ad experimentum (để thử nghiệm), trong những cuộc kết hợp không được cả giáo luật lẫn dân luật nhìn nhận” (Instrumentum Laboris, 81). Tại một số quốc gia, điều này đặc biệt xẩy ra trong các cuộc hôn nhân truyền thống, do sự sắp xếp giữa hai gia đình và thường được cử hành qua nhiều giai đoạn khác nhau. Nhiều quốc gia khác đang chứng kiến sự gia tăng liên tục con số những người, sau khi sống chung với nhau một thời gian dài, yêu cầu được cử hành cuộc hôn nhân của họ trong Giáo Hội. Chỉ đơn giản sống chung với nhau thường là một lựa chọn dựa trên thái độ tổng quát muốn chống đối bất cứ điều gì có tính định chế hay dứt khoát; nhưng nó cũng đã được chọn trong khi chờ đợi có nhiều an toàn hơn cho cuộc sống (công ăn việc làm và thu nhập ổn định). Sau cùng, tại một số quốc gia, các cuộc hôn nhân trên thực tế (de facto) hiện rất nhiều, không phải vì họ bác bỏ các giá trị Kitô Giáo liên quan tới gia đình và hôn nhân mà chủ yếu chỉ vì việc cử hành hôn nhân là điếu quá mắc mỏ. Thành thử, cảnh nghèo về vật chất thường dẫn người ta tới các cuộc kết hợp trên thực tế.

43. Tất cả các tình huống trên đòi một giải đáp xây dựng, tìm cách biến chúng thành những cơ hội có thể dẫn tới một cuộc hôn nhân thực sự và một gia đình phù hợp với Tin Mừng. Các cặp này cần được chăm sóc và hướng dẫn một cách kiên nhẫn và kín đáo. Biết điều này, nhưng chứng tá của các gia đình Kitô hữu chân chính vẫn là điều đặc biệt lôi cuốn và quan trọng như là các tác nhân trong công trình phúc âm hóa của gia đình. 

Chăm sóc các gia đình tan vỡ (những người ly thân, ly dị, ly dị và tái hôn và các gia đình có cha mẹ đơn lẻ)

44. Các cặp vợ chồng có vấn đề trong mối liên hệ của họ nên có khả năng trông cậy vào sự giúp đỡ và hướng dẫn của Giáo Hội. Công trình mục vụ có tính bác ái và thương xót nên tìm cách giúp đỡ họ tìm lại được và phục hồi được các mối liên hệ của họ. Kinh nghiệm cho thấy với sự trợ giúp thích đáng cũng như các hành vi hòa giải nhờ ơn thánh, một phần trăm rất lớn các cuộc hôn nhân có vấn đề đã tìm được giải pháp thỏa đáng. Biết cách tha thứ và cảm nhận được sự tha thứ là kinh nghiệm căn bản của đời sống gia đình. Sự tha thứ giữa vợ chồng với nhau cho phép họ trải nghiệm được một tình yêu mãi mãi không bao giờ qua đi (xem 1 Cor 13:8). Đôi khi, điều này khá khó khăn, nhưng những ai từng tiếp nhận sự tha thứ của Thiên Chúa đều được ban cho sức mạnh để có thể cung hiến sự tha thứ chân chính vốn tái tạo con người. 

45. Sự cần thiết của các chọn lựa can đảm về mục vụ đã trở nên rất hiển nhiên tại THĐ. Bằng cách mạnh mẽ tái xác nhận lòng trung thành của các vị đối với Tin Mừng Gia Đình và bằng cách nhìn nhận rằng ly thân và ly dị luôn là những vết thương gây đau đớn sâu xa cho vợ chồng và con cái họ, các nghị phụ THĐ thấy nhu cầu khẩn thiết phải khởi diễn một diễn trình mục vụ mới đặt căn bản trên thực tại yếu đuối hiện thời trong gia đình, vì thường biết rằng các cặp vợ chồng “lâm” vào các tình huống đau đớn này hơn là tự ý chọn lựa chúng. Do đó, phải xem xét các giải pháp bằng nhiều cách khác nhau, như Thánh GH Gioan Phaolô II vốn gợi ý (xem Familiaris Consortio, 84).

46. Trên hết, mọi gia đình phải được đối xử với lòng kính trọng và thương yêu và được đồng hành trên đường lữ hành của họ như Chúa Kitô đã đồng hành cùng các môn đệ trên đường Emmau. Một cách đặc biệt, lời lẽ của Đức Phanxicô có thể áp dụng vào các tình huống này: “Giáo Hội sẽ phải dẫn khởi mọi người, linh mục, tu sĩ và giáo dân, vào ‘nghệ thuật đồng hành’ này, một nghệ thuật dạy ta biết bỏ dép ra trước khi bước vào lãnh địa thánh thiêng của người khác (xem Ex 3: 5). Nhịp độ đồng hành này phải vững chãi đều đặn và có tính trấn an, phản ảnh sự gần gũi và cảm thương, là thứ, cùng một lúc, vừa chữa lành vừa giải phóng và khích lệ sự lớn mạnh trong cuộc sống Kitô hữu” (Evangelii Gaudium, 169).

47. Đối với việc hướng dẫn những người ly thân, ly dị hay bị bỏ rơi, điều không thể thiếu là phải đặc biệt biện phân. Chủ yếu phải tỏ lòng kính trọng đối với sự đau khổ của những người phải ly thân, ly dị hay bị bỏ rơi một cách bất công, hay những người phải chịu sự đối xử tàn tệ của chồng hay của vợ, đến làm cuộc sống của họ hoàn toàn bị gián đoạn. Tha thứ một bất công như thế không phải là điều dễ dàng, nhưng ơn thánh vẫn giúp cho hành trình này thành có thể. Như thế, hoạt động mục vụ cần qui hướng vào việc hòa giải hay trung gian giải quyết các dị biệt, một việc có thể diễn ra tại “các trung tâm lắng nghe nhau” được chuyên biệt thiết lập tại các giáo phận. Cùng một lúc, các nghị phụ THĐ cũng nhấn mạnh tới sự cần thiết phải bàn, một cách trung thành và xây dựng, tới các hậu quả của ly thân hay ly dị đối với con cái, dù trong trường hợp nào cũng vẫn là các nạn nhân vô tội của tình huống. Không được biến con cái thành “đối tượng” để tranh chấp. Thay vào đó, phải tìm đủ mọi cách thích đáng để bảo đảm việc chúng có thể vượt qua được cơn chấn thương tan vỡ gia đình này và lớn lên một cách thanh thản bao nhiêu có thể. Trong bất cứ trường hợp nào, Giáo Hội cũng luôn có nhiệm vụ phải chỉ rõ sự bất công rất thường liên hệ với việc ly dị. Cần phải đặc biệt lưu ý tới việc hướng dẫn các gia đình có cha mẹ đơn lẻ. Phụ nữ trong tình huống này cần được trợ giúp đặc biệt để họ chu toàn trách nhiệm cung cấp mái ấm và dưỡng dục con cái. 

48. Một số lớn các nghị phụ THĐ nhấn mạnh tới sự cần thiết phải làm sao cho thủ tục trong các vụ án tuyên bố vô hiệu dễ nằm trong tầm tay và đỡ mất thì giờ hơn. Trong số nhiều điều, các ngài đề nghị miễn chuẩn đòi hỏi phải có án đệ nhị cấp (second instance) mới tuyên án; khả thể thiết lập thủ tục hành chánh dưới quyền tài phán của giám mục giáo phận; và một diễn trình đơn giản hơn dùng cho những trường hợp trong đó tính vô hiệu đã hiển nhiên rõ ràng. Tuy nhiên, một số nghị phụ THĐ chống lại đề nghị này, vì các ngài thấy rằng nó không bảo đảm đưa ra được một phán quyết đáng tin. Dù trong trường hợp nào, các nghị phụ THĐ cũng nhấn mạnh tới đặc điểm hàng đầu của việc phải bảo đảm sự thật về tính thành sự của dây hôn phối. Trong số các đề nghị khác, vai trò mà đức tin đóng nơi những người kết hôn có thể được xem xét khi phải quả quyết tính thành sự của Bí Tích Hôn Nhân, trong khi vẫn chủ trương rằng cuộc hôn nhân giữa hai Kitô hữu đã rửa tội luôn luôn là một bí tích. 

49. Trong việc đơn giản hóa thủ tục phán quyết các vụ án về hôn nhân, nhiều nghị phụ THĐ yêu cầu phải chuẩn bị đủ con số nhân viên, cả giáo sĩ lẫn giáo dân, hoàn toàn chăm chú vào công việc, điều này đòi vị giám mục giáo phận nhiều trách nhiệm hơn; ngài có thể chỉ định trong giáo phận mình các cố vấn được huấn luyện cách đặc biệt nhằm đưa ra các ý kiến miễn phí cho các bên liên hệ về tính thành sự hôn nhân. Việc làm này có thể diễn ra tại một văn phòng hay bởi những người có chuyên môn (xem Dignitas Connubii, 113, 1).

50. Những người ly dị mà không tái hôn, những người thường làm chứng cho lời thề hứa trung thành với cuộc hôn nhân của mình, phải được khuyến khích để tìm được của nuôi trong Thánh Thể mà họ cần đến để nâng đỡ họ trong trạng thái sống hiện thời. Cộng đồng và các mục tử địa phương phải đồng hành với những người này một cách ân cần, nhất là khi họ có con cái hay khi gặp khó khăn tài chánh trầm trọng. 

51. Cũng thế, những ai ly dị và tái hôn cũng đòi được biện phân cẩn thận và được đồng hành với lòng kính trọng lớn lao. Ngôn từ và tác phong có thể khiến họ cảm thấy trở thành đối tượng của kỳ thị cần được xa tránh, trong khi phải khuyến khích họ tham dự vào đời sống cộng đồng. Sự chăm sóc của cộng đồng Kitô hữu đối với những người này không nên bị coi như làm suy yếu đức tin và chứng từ của mình đối với tính bất khả tiêu của hôn nhân, nhưng, chính nhờ cách này, cộng đồng được coi là đang nói lên lòng bác ái của mình. 

52. Các nghị phụ THĐ cũng xem xét khả thể cho người ly dị và tái hôn được phép lãnh nhận các Bí Tích Thống Hối và Thánh Thể. Một số nghị phụ THĐ nhấn mạnh tới việc phải duy trì các qui định hiện nay, vì mối liên hệ tạo lập giữa việc tham dự Thánh Thể và việc hiệp thông với Giáo Hội cũng như giáo huấn về đặc điểm bất khả tiêu của hôn nhân. Các nghị phụ khác biểu lộ một phương thức có tính cá thể hóa nhiều hơn, cho phép lãnh các bí tích trên trong một số tình huống và dưới những điều kiện được xác định rõ, chủ yếu là trong các tình huống không thể đảo ngược được và các tình huống liên quan tới bổn phận luân lý đối với con cái là những người có thể phải chịu các đau khổ bất công. Việc lãnh nhận các bí tích này có thể diễn ra nếu trước đó đã thực hành việc thống hối, thể thức do giám mục giáo phận định đoạt. Đề tài này cần được khảo sát thấu đáo, luôn lưu ý tới việc phân biệt giữa tình huống tội lỗi khách quan và những hoàn cảnh giảm khinh, vì xét rằng “việc có thể bị quy trách và chịu trách nhiệm đối với một hành động có thể giảm đi hay thậm chí bị tiêu hủy do thiếu hiểu biết, sơ suất, do áp lực, sợ hãi, do thói quen, do tâm lý bất ổn, do các nhân tố tâm lý hay xã hội” (Sách GL của GHCG, 1735).

53. Một số nghị phụ THĐ chủ trương rằng các người ly dị và tái hôn hay những người sống chung với nhau có thể hữu hiệu chạy tới với việc rước lễ thiêng liêng. Các vị khác đặt câu hỏi: như thế, tại sao họ lại không thể rước lễ “cách bí tích”. Kết cục, các nghị phụ THĐ yêu cầu rằng một cuộc nghiên cứu thêm về thần học đối với vấn đề này có thể chỉ rõ được các điểm chuyên biệt của cả hai hình thức và sự liên kết của chúng với nền thần học về gia đình. 

54. Các vấn đề liên quan tới các cuộc hôn nhân hỗn hợp thường được nêu ra trong tham luận của các nghị phụ THĐ. Các dị biệt trong các qui định về hôn nhân trong các Giáo Hội Đông Phương tạo ra nhiều vấn nạn nghiêm trọng trong một số trường hợp, đòi phải xem xét tới nơi tới chốn trong công trình đại kết. Cũng tương tự như thế, sự đóng góp của cuộc đối thoại với các tôn giáo khác cũng là điều quan trọng đối với các cuộc hôn nhân liên tôn. 

Chú tâm mục vụ đối với những người có xu hướng đồng tính luyến ái

55. Một số gia đình có các thành viên có xu hướng đồng tính. Về phương diện này, các nghị phụ THĐ tự hỏi sự chú tâm mục vụ nào có thể thích đáng đối với họ mà vẫn phù hợp với giáo huấn Giáo Hội: “Tuyệt đối không hề có một cơ sở nào để coi các cuộc kết hợp đồng tính là tương tự hay thậm chí có thể xa xa so sánh cách nào đó với kế hoạch của Thiên Chúa dành cho hôn nhân và gia đình”. Tuy thế, những người nam nữ có xu hướng đồng tính cần được tiếp nhận với lòng kính trọng và mẫn cảm. “Mọi dấu hiệu kỳ thị bất công đối với họ cần được xa tránh” (Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Các Xem Xét Liên Quan Tới Các Đề Nghị Nhìn Nhận Hợp Lệ Các Cuộc Kết Hợp Giữa Những Người Đồng Tính, 4) 

56. Gây áp lực về phương diện này đối với các Mục Tử của Giáo Hội là điều hoàn toàn không thể chấp nhận được: điều này cũng như thế đối với các tổ chức quốc tế chuyên liên kết việc viện trợ tài chánh của họ cho các quốc gia nghèo với việc thông qua các đạo luật nhằm thiết lập ra các “cuộc hôn nhân” giữa những người cùng một giới tính. 

Việc truyền sinh và các thách đố trong việc suy giảm sinh xuất

57. Ngày nay, việc truyền bá não trạng muốn giảm thiểu việc sinh sản con người cho phù hợp với kế hoạch của cá nhân hay của các cặp vợ chồng là điều dễ quan sát thấy. Đôi khi, các nhân tố kinh tế quả là nặng nề, góp phần vào việc giảm thiểu sinh xuất đáng kể, môt việc suy giảm làm suy yếu cơ cấu xã hội, do đó, phá hoại liên hệ giữa các thế hệ và làm cho viễn tượng tương lai trở nên không chắc chắn. 
Việc cởi mở chào đón sự sống là một đòi hỏi vốn nội tại ngay trong tình yêu vợ chồng. Về phương diện này, Giáo Hội hỗ trợ mọi gia đình biết chấp nhận, dưỡng dục và âu yếm đùm bọc các đứa con khuyết tật nhiều cách của mình. 

58. Việc mục vụ trong lãnh vực này cần khởi đầu bằng cách lắng nghe người ta và nhìn nhận vẻ đẹp và sự thật của việc cởi mở vô điều kiện đối với sự sống, một điều cần thiết nếu muốn sống trọn vẹn cuộc sống nhân bản. Điều này được dùng làm căn bản cho một giáo huấn thích đáng liên quan tới các phương pháp tự nhiên để sinh sản có trách nhiệm, là các phương pháp giúp vợ chồng sống mối liên hệ yêu đương của họ cách hoà điệu và có ý thức trong mọi khía cạnh của nó, cùng với trách nhiệm sinh ra sự sống mới. Về phương diện này, ta nên trở lại với sứ điệp của Chân Phúc GH Phaolô VI trong thông điệp Humanae Vitae, một sứ điệp vốn nhấn mạnh tới việc phải kính trọng phẩm giá con người khi lượng định các phương pháp điều hòa sinh đẻ về phương diện luân lý. Việc nhận con nuôi, nhận trẻ mồ côi và trẻ bị bỏ rơi và coi chúng như con của mình là một hình thức đặc biệt của việc tông đồ gia đình (xem Apostolicam Actuositatem, III, 11), và vẫn thường được Huấn Quyền kêu gọi và khuyến khích (xem Familiaris Consortio, III, II; Evangelium Vitae, IV, 93). Quyết định nhận con nuôi hay nhận nuôi nấng trẻ em nói lên tính hoa trái đặc thù của đời sống vợ chồng, chứ không hẳn chỉ trong trường hợp hiếm muộn. Quyết định như thế chứng tỏ một dấu hiệu mạnh mẽ của tình yêu gia đình, một cơ hội để làm chứng cho đức tin của mình và phục hồi phẩm giá làm con cho những người bị tước mất phẩm giá này. 

59. Cảm giới tính cần được trợ giúp, cả trong hôn nhân, như cách thế để trưởng thành trong cố gắng không ngừng thâm hậu hóa việc chấp nhận người khác và không ngừng hiến mình mỗi lúc một trọn vẹn hơn. Việc này cần đến các chương trình huấn luyện nhằm nuôi dưỡng cuộc sống lứa đôi và tầm quan trọng của giáo dân nhằm cung cấp việc đồng hành, một việc đòi một cuộc sống làm chứng tá. Gương sáng của một tình yêu trung thành và sâu sắc chắc chắn là một trợ giúp lớn lao; một tình yêu được biểu lộ qua dịu dàng và kính trọng; một tình yêu có khả năng lớn lên với thời gian; và là một tình yêu tạo ra được một cảm nghiệm huyền nhiệm siêu việt, ngay trong tác động cởi mở đón chào việc sinh sản sự sống mới.

Dưỡng dục và vai trò gia đình trong việc phúc âm hóa

60. Một trong các thách đố nền tảng mà các gia đình ngày nay đang phải đối diện chắc chắn là thách đố dưỡng dục con cái; thách đố này càng trở nên khó khăn và phức tạp hơn bởi thực tại văn hóa và ảnh hưởng lớn lao của truyền thông ngày nay. Do đó, phải ân cần đối với nhu cầu và hoài mong của các gia đình có khả năng làm chứng bằng đời sống hàng ngày của họ rằng gia đình là nơi để nẩy nở trong việc cụ thể và thiết yếu lưu truyền các nhân đức giúp đem lại khuôn hình cho cuộc sống ta. Như thế, cha mẹ phải được tự do chọn lối giáo dục cho con cái mình, theo các xác tín riêng của họ. 

61. Về phương diện này, Giáo Hội có thể đóng một vai trò giá trị trong việc hỗ trợ các gia đình, bắt đầu với việc Khai Tâm Kitô Giáo, bằng cách trở thành các cộng đoàn chào đón. Hơn bao giờ hết, ngày nay, các cộng đoàn này phải trợ giúp các cha mẹ trong việc dưỡng dục con cái cả trong các tình huống phức tạp lẫn cuộc sống hàng ngày, đồng hành với chúng, đồng hành với các thiếu niên và người trẻ trong diễn trình phát triển của chúng qua các chương trình mục vụ được bản vị hóa, có khả năng dẫn khởi để chúng hiểu được ý nghĩa trọn vẹn của sự sống và khuyến khích chúng biết quyết định và lãnh trách nhiệm, biết sống trong ánh sáng Tin Mừng. Trong sự dịu dàng, trong lòng từ bi và mẫn cãm mẫu thân của ngài, Đức Maria có khả năng nuôi dưỡng nhân loại đói khát và chính sự sống. Bởi đó, các gia đình và các Kitô hữu nên cậy nhờ sự cầu bầu của ngài. Việc mục vụ và việc sùng kính Đức Mẹ là một khởi điểm thích đáng để ta công bố Tin Mừng Gia Đình.


Kết luận

62. Các suy nghĩ đề ra trên đây, vốn là hoa trái của công trình THĐ diễn ra trong tự do hoàn toàn và trong tinh thần lắng nghe nhau, có mục đích nêu ra các vấn đề và cho thấy các quan điểm cần được khai triển và minh xác sau này qua việc suy nghĩ tại các Giáo Hội địa phương trong năm trước khi khai mạc Phiên Họp Toàn Thể Thường Lệ Thứ XIV của THĐ Giám Mục dự tính vào Tháng Mười, năm 2015, để bàn về Ơn Gọi và Sứ Mệnh của Gia Đình trong Giáo Hội và trong Thế Giới Hiện Thời. Chúng không phải là các quyết định đã đưa ra và cũng không phải là những đề tài dễ dàng. Tuy nhiên, trong cuộc hành trình hợp đoàn của các giám mục và với sự can dự của toàn thể Dân Chúa, Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn ta tìm ra đường tiến tới sự thật và thương xót đối với mọi người. Đó là ước nguyện của Đức GH Phanxicô ngay từ đầu công việc của chúng tôi, khi ngài mời gọi chúng tôi phải can đảm trong đức tin và phải khiêm nhường ôm lấy sự thật trong đức ái. 

Số phiếu cho từng số của Bản Tường Trình Của THD
Tổng số hiện diện: 183
(không có số chỉ phiếu trắng) 

Đồng ý Không đồng ý
1. 175 1
2. 179 0
3. 178 1
4. 180 2
5. 177 3
6. 175 5
7. 170 9
8. 179 1
9. 171 8
10. 174 8
11. 173 6
12. 176 3
13. 174 7
14. 164 18
15. 167 13
16. 171 8
17. 174 6
18. 175 5
19. 176 5
20. 178 3
21. 181 1
22. 160 22
23. 169 10
24. 170 11
25. 140 39
26. 166 14
27. 147 34
28. 152 27
29. 176 7
30. 178 2
31. 175 4
32. 176 5
33. 175 7
34. 180 1
35. 164 17
36. 177 1
37. 175 2
38. 178 1
39. 176 4
40. 179 1
41. 125 54
42. 143 37
43. 162 14
44. 171 7
45. 165 15
46. 171 8
47. 164 12
48. 143 35
49. 154 23
50. 169 8
51. 155 19
52. 104 74
53. 112 64
54. 145 29
55. 118 62
56. 159 21
57. 169 5
58. 167 9
59. 172 5
60. 174 4
61. 178 1
62. 169 8

Vũ Văn An11/2/2014(vietcatholic)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét