18/01/2015
Chúa Nhật II Thường Niên
Năm B
(phần I)
BÀI ĐỌC I: 1 Sm 3, 3b-10. 19
"Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe".
Trích sách Samuel quyển thứ nhất.
Ngày ấy, Samuel ngủ trong đền thờ Chúa, nơi đặt Hòm Bia Thiên
Chúa. Chúa đã gọi Samuel; cậu trả lời: "Này con đây", rồi chạy đến
Hêli và nói: "Này con đây, vì thầy gọi con". Hêli trả lời: "Ta
đâu có gọi, hãy trở về ngủ đi". Samuel đi ngủ lại. Nhưng Chúa gọi Samuel lần
nữa, và Samuel chỗi dậy, chạy đến Hêli và nói: "Này con đây, vì thầy gọi
con".
Hêli trả lời: "Này con, Ta đâu có gọi, hãy trở về ngủ
đi". Samuel chưa nhận ra Chúa, và lời Chúa chưa được mạc khải cho cậu.
Chúa lại gọi Samuel lần thứ ba. Cậu chỗi dậy, chạy đến Hêli và nói: "Này
con đây, vì thầy gọi con". Hêli biết Chúa đã gọi Samuel, nên nói với
Samuel: "Hãy đi ngủ, và nếu Người còn gọi con, thì con nói rằng: 'Lạy
Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe'". Samuel trở về chỗ mình và
ngủ lại. Chúa đến gần và gọi Samuel như những lần trước: "Samuel,
Samuel!" Và Samuel thưa: "Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang
nghe".
Phần Samuel ngày càng lớn lên. Chúa hằng ở cùng cậu, và cậu
không để rơi mất lời nào của Chúa. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 39, 2 và 4ab. 7-8a. 8b-9. 10
Đáp: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa (c. 8a và 9a).
1) Con đã cậy trông, con đã cậy trông ở Chúa, Ngài đã nghiêng
mình về bên con, Ngài đã đặt trong miệng con một bài ca mới, bài ca mừng Thiên
Chúa chúng ta. - Đáp.
2) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở rộng
tai con. Chúa không đòi hỏi lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa:
"Này con xin đến". - Đáp.
3) Như trong quyển vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng
thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Đáp.
4) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong Đại Hội, thực con
đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 6, 13c-15a, 17-20
"Thân xác anh em là chi thể của Chúa Kitô".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu
Cô-rintô.
Anh em thân mến, thân xác không phải vì dâm dật, mà vì Chúa, và
Chúa vì thân xác. Thiên Chúa đã cho Chúa sống lại, cũng sẽ dùng quyền năng Người
cho ta sống lại.
Anh em không biết thân xác anh em là chi thể của Chúa Kitô sao?
Nhưng ai kết hợp với Chúa thì nên một thần trí. Vậy hãy xa lánh dâm dật. Mọi tội
lỗi người ta phạm đều ngoài thân xác, nhưng kẻ tà dâm thì phạm tội trong thân
xác mình. Anh em không biết thân xác anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần, Đấng ngự
trong anh em mà anh em đã nhận lãnh nơi Thiên Chúa, vì anh em không còn thuộc về
chính mình nữa sao? Vì anh em đã được mua chuộc bằng một giá rất lớn. Vậy anh
em hãy tôn vinh Chúa trong thân xác anh em. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Mt 11, 23
Alleluia, alleluia! - Lạy Cha là Chúa trời đất, Chúa đáng chúc tụng,
vì đã mạc khải cho các trẻ nhỏ biết những mầu nhiệm nước trời. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 1, 35-42
"Họ xem chỗ Người ở, và ở lại với Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông
nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa". Hai
môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại, thấy họ
đi theo Mình, thì nói với họ: "Các ngươi tìm gì?" Họ thưa với Người:
"Rabbi, nghĩa là: thưa Thầy, Thầy ở đâu?" Người đáp: "Hãy đến mà
xem". Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó
độ chừng giờ thứ mười.
Anrê, em ông Simon Phêrô, (là) một trong hai người đã nghe Gioan
nói và đã đi theo Chúa Giêsu. Ông gặp Simon anh mình trước hết và nói với anh:
"Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô". Và ông dẫn anh
mình tới Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhìn Simon và nói: "Ngươi là Simon, con
ông Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Đá". Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
SUY NIỆM : Bảo Toàn Ơn Gọi
Bài đọc I kể truyện Chúa gọi Samuel. Và bài Tin Mừng nói đến việc
Chúa Yêsu chọn những tông đồ đầu tiên. Như vậy đủ để chúng ta có thể gọi Chúa
nhật này là ngày ơn gọi, hay ngày thiên triệu. Và trong chiều hướng ấy chúng ta
sẽ thấy bài thư Phaolô rất ý nghĩa.
Tuy cả ba đều nói về ơn gọi, nhưng mỗi bài Kinh Thánh hôm nay lại
nhìn vấn đề một cách khác. Và chúng ta sẽ được một giáo huấn phong phú về ơn gọi,
sau khi tìm hiểu quan điểm của ba bài đọc.
1. Ơn Gọi Trong Cựu Ước
Bài sách Samuel không đơn giản đâu. Thoạt nghe, chúng ta cảm tưởng
như đây là một câu truyện. Tác giả kể rất khéo. Lời văn lưu loát. Bố cục hấp dẫn.
Nhưng phân tích, người ta sẽ thấy đây không phải là một áng văn chương, nhưng
là một bài thần học. Nó được viết vào khoảng thế kỷ thứ 9 hay thứ 8 trước Thiên
Chúa giáng sinh; và như vậy cũng phải sau thời Samuel tới một, hai thế kỷ.
Nghĩa là người ta đã thấy Samuel sống và đã có giờ để suy nghĩ về ý nghĩa cuộc
đời của ông ở trong Dân Chúa. Một hai trăm năm suy nghĩ như vậy tự nhiên dễ thần
tượng hóa nhân vật mà người ta ngưỡng mộ. Và nhất là được viết vào khoảng thế kỷ
9 hoặc 8, tức là vào thời đại các tiên tri, câu truyện kể hôm nay đã phải chịu ảnh
hưởng rất nhiều của phong trào tiên tri ở trong dân Dothái. Chúng ta có thể nói
được rằng: sống ở thời các tiên tri, người ta đã lấy giáo lý của các tiên tri về
ơn gọi để viết lại cuộc đời của Samuel mà người ta coi như là một trong những
tiên tri đầu tiên.
Chứ thật ra, Samuel là người thế nào? Ðọc lại các câu truyện viết
về cuộc đời của ông có lẽ chúng ta được phép hình dung ông là một tư tế, một thẩm
phán và cuối cùng một bậc tiên tri.
Thật vậy, ngay bài Thánh Kinh hôm nay cũng muốn giới thiệu ông ở
trong truyền thống và hàng ngũ các thầy tư tế Êli. Sách thánh viết: bấy giờ
Samuel lo việc phụng sự Yavê dưới sự trông nom của Êli. Và chúng ta có thể hình
dung Samuel bấy giờ là cậu bé vận áo trúc bâu (2,18), ở với thầy Êli là một tư
tế già nua, trông coi một đền thờ nhỏ ở Silô. Nói rõ rệt hơn, Samuel bấy giờ là
một chú bé giúp lễ, nhưng đồng thời cũng sống trong nhà Cha sở, bởi vì mẹ cậu
đã hứa dâng con lo việc nhà Chúa trước khi sinh cậu ra. Và lớn lên, Samuel cũng
đã trở thành một tư tế theo kiểu thầy Êli. Người ta đã thấy ông chủ sự nhiều buổi
dâng lễ cho Thiên Chúa (7,9; 9,13; 11,15; 13,8-15). Và đặc biệt chúng ta còn nhớ
truyện ông đến nhà Yessê, Cha của Ðavít (16)� Thấy ông tới, các kỳ mục trong thành Bêlem đã ra đón và hỏi
ông: "Ngài đến, phải chăng là bình an?". Ông nói: "Bình an! Tôi
đến để tế lễ cho Yavê. Các người hãy thanh tẩy mình đi và sẽ đến dự lễ với
tôi". Do đó rõ ràng ông là một tư tế.
Nhưng đồng thời ông cũng là một thẩm phán ở thời Dothái chưa có
vua. Chính ông đã hướng dẫn dân chống lại quân Philitin. Và khi Kinh Thánh viết
ông đã phân xử mọi việc cho dân không những ở Micpa (7,6) mà còn trong suốt cả
đời ông (7,15). Ngay việc thiết lập chế độ quân chủ ở nước Dothái cũng phải đi
qua ông. Ông xức dầu phong vương cho Saolê, nhưng dân vẫn sợ uy tín của vị thẩm
phán mà họ biết chắc vẫn là "người của Thiên Chúa".
Từ ngữ này dần dần đã có một ý nghĩa rõ rệt. Nó chỉ các tiên
tri, những người được Thiên Chúa thông đạt các ý định của Người để đến với dân.
Dân tin họ hơn hết. Và vì thế dần dần vai trò tư tế và hoàng đế phải nhường bước
cho các nhà tiên tri về mặt uy tín.
Ðối với Samuel cũng vậy, dần dần người ta không còn để ý nhiều đến
sứ mệnh tư tế và thẩm phán của ông nữa; và người ta chỉ còn nhớ ông là tiên
tri. Bài tường thuật của ông nằm trong chiều hướng đó. Nói đúng hơn, người ta
đã lấy quan niệm về ơn gọi tiên tri để thuật lại việc ông được Chúa chọn để làm
việc cho Người. Và quan niệm đó rất sâu sắc.
Trước hết, chính Chúa đi bước trước. Người chiếu cố kẻ Người chọn.
Samuel bấy giờ chưa biết Chúa. Lời Chúa chưa mạc khải ra cho cậu. Nghe tiếng
Chúa gọi mà cậu vẫn tưởng là thầy Êli gọi mình. Thân phận cậu lúc bấy giờ có ra
gì: Một đứa bé ở giúp việc thầy tư tế. Cái thân phận hèn mọn ấy nói lên một
khía cạnh thứ hai trong ơn gọi: Chúa là Ðấng Cao cả thường tuyển chọn những khí
cụ tầm thường để làm việc cho Người. Ðó đã là một nét nghịch thường. Nhưng còn
lạ lùng hơn nữa: các khí cụ tầm thường kia lại được Ðấng Cao cả dùng để làm nhiều
việc kỳ diệu. Sứ mệnh của Samuel không lớn lao sao! Cậu được trao phó sứ điệp
trọng đại khiến khi nghe biết Êli phải cúi đầu vâng mệnh. Còn toàn dân thì tin
rằng: Lời Chúa bây giờ ở với Samuel. Mà Lời Chúa đối với dân là tất cả kế hoạch
mầu nhiệm, lớn lao mà Chúa thi hành cho toàn dân cũng như cho tương lai của các
dân tộc. Nhất là khi Lời Chúa lại được mạc khải nơi đền thờ và cho những người
đang phục vụ bàn thờ. Nó sẽ ghê gớm cho kẻ tội lỗi nhưng chắc chắn sẽ ban bình
an và an ủi cho những người lành thánh. Cụ thể, nó sẽ hạ kẻ cường quyền và nâng
những người phận nhỏ lên. Bởi vì từ khi trao phó công việc trông coi vũ trụ cho
loài người, Thiên Chúa chỉ can thiệp vào lịch sử để cứu vớt, tức là tiêu diệt sự
dữ đã hoành hành quá mức và giải phóng con người khỏi lầm than.
Mọi ơn gọi đích thực trong Cựu Ước đều được mô tả như trên. Và để
làm nổi tính cách siêu nhiên của những ơn gọi này, Cựu Ước còn có thói quen
hình dung những kẻ được chọn là con của gia đình son sẻ nhưng đạo đức. Họ là tặng
vật của Thiên Chúa nhân ái và toàn năng, chứ không phải là con cái của loài người.
Trường hợp của Samuel là một thí dụ. Chính vì muộn màng, son sẻ mà mẹ ông đã
khóc lóc cầu xin và đã khấn hứa nếu hạ sinh được đứa con nào bà sẽ dâng nó để
lo việc nhà Chúa. Như vậy bà đã thụ thai, và Samuel trở thành người của Chúa.
Người ta đã suy nghĩ nhiều về cuộc đời của ông. Và tác giả bài
Kinh Thánh hôm nay đã đúc kết lại tâm tư của nhiều thế hệ dân Chúa. Tác giả thấy
ơn gọi Samuel là hình ảnh của chính ơn gọi dân Chúa nói chung và mỗi người nói
riêng. Chúa đã không kêu gọi mọi người từ thân phận hèn mọn sao? Người thật đã
tỏ ra rộng lượng và nhân ái� Người trao sứ mệnh cao cả cho hết thảy miễn là ai ai cũng phải
bắt chước Samuel "không để rơi xuống đất một lời nài Người đã phán"
(3,19). Bài học của Cựu Ước thật rất thâm trầm.
2. Ơn Gọi Trong Tân Ước
Thánh Yoan trong bài Tin Mừng hôm nay cũng muốn nói về ơn gọi.
Câu truyện người kể có vẻ như đã được quay phim tại chỗ, khi sự việc xảy ra.
Nhưng chỉ cần thấy rằng không bao giờ Tin Mừng Yoan còn kể lại việc Chúa chọn
Tông đồ ở một đoạn nào khác nữa, cũng đủ để chúng ta chắc chắn ở đây Yoan đã muốn
làm một cuộc tổng hợp. Người muốn thu gọn một lần Chúa chọn môn đồ vào chỗ này
để nói một lần cho xong, trước khi Chúa Yêsu bắt đầu đi hoạt động truyền giáo.
Và như vậy, trong đoạn Tin Mừng này, Yoan cũng muốn trình bày quan niệm của người
về ơn gọi.
Ơn gọi vẫn còn là hành vi chiếu cố của Chúa. Nó do Người khởi xướng.
Nó từ trời đến với con người và vì thế người ta có lý khi dùng danh từ
"thiên triệu". Tuy nhiên, ngày xưa tiếng Chúa thường nói trong sấm chớp
và thị kiến hoặc mộng mị; còn ngày nay Ngôi Lời đã làm người và đã ở giữa chúng
ta. Vì thế, tiếng gọi đã đi qua con người.
Những môn đệ đầu tiên đã nghe lời Yoan giới thiệu. Ðó không phải
là lời thường, nhưng là lời của một chứng nhân, của một người có đức tin sâu sắc.
Yoan trỏ vào Ðức Yêsu và nói với môn đệ: "Này là Chiên của Thiên
Chúa". Chắc chắn họ đã không nhận ra ngay mọi sự phong phú trong lời giới
thiệu này. Phải đợi khi Ðức Yêsu chịu chết như người đau khổ và như chiên vượt
qua bị sát tế, người ta mới hiểu được nội dung của lời Yoan. Các môn đệ bấy giờ
chưa hiểu được như vậy. Nhưng bây giờ, muốn theo Chúa, chúng ta phải hiểu như
thế. Và bây giờ ai muốn theo Chúa phải vác thập giá của mình và phải đi qua con
đường hẹp mà Ðức Kitô đã đi.
Tuy nhiên, được lời giới thiệu khác thường của Yoan và nghĩ rằng
Yoan muốn nói Ðức Yêsu là "Ðấng phải đến", hai môn đệ đã đi theo Người.
Họ đi theo vì đã nghe và đã tin vào một lời chứng. Mọi ơn gọi đều khởi sự từ
khi nghe được tiếng gọi. Và mọi ơn gọi trong Tân Ước chỉ hình thành khi có lòng
tin vào lời chứng. Nhưng nghe và tin vẫn chưa đủ. Người ta phải có hành động diễn
tả niềm tin để chứng tỏ sự dứt khoát và quyết liệt. Thế nên, bài Tin Mừng đã
nói: họ đã đến và đã thấy nơi Ngài ngụ và họ đã ngụ lại với Ngài. Yoan đã cân
nhắc mọi từ ngữ ông dùng. Ông dùng các động từ "thấy" và "ngụ",
là những từ ngữ rất đặc biệt và phong phú trong tác phẩm của ông. Ðối với ông,
"thấy" là khám phá ra, là biết một cách sâu xa thân mật; và "ngụ"
là kết hợp, là "ở với", là khắng khít. Theo Yoan, ơn gọi là tin, là
biết, là mến Chúa Yêsu, là mật thiết kết hợp với Ngài, là ở (hay ngụ) lại nơi
Ngài và Ngài ở hoặc ngụ lại nơi ta. Không phải tạm thời, nhưng bền vững, mãi
mãi vì sách Yoan viết: họ đã ngụ lại với Ngài suốt ngày hôm ấy.
Tiếp theo, họ đã ra đi để nối dài ơn gọi của họ. Anrê đã gặp em
mình trước hết. Ông nói lên niềm tin cua mình vào Ðức Kitô. Nhưng ông để cho em
tiếp xúc với Người. Và chính nhờ việc tiếp xúc này, người em cũng như anh mình
trước đây đã được niềm tin vào Chúa Yêsu. Mấu chốt của ơn gọi, theo Yoan như vậy
là việc gặp gỡ, khám phá ra Ðức Kitô và ngụ lại với Người.
Do đó, quan niệm của Yoan về ơn gọi thâm thúy hơn quan niệm của
bài sách Samuel. Nhưng chúng ta không thể bảo là hai quan niệm đó khác nhau.
Trước kia, Samuel đã nghe Lời Chúa và không để một lời nào rơi xuống đất; ngày
nay Lời Chúa đã hiện thân làm người. Ai nghe tiếng gọi cũng phải gắn bó với Người
và không được sống tách khỏi Người.
Thế mà có những kẻ được gọi mà lại muốn tách khỏi Chúa. Ðó là điều
mà thánh Phaolô muốn cảnh cáo người ta trong thư gửi người Côrintô.
3. Hãy Bảo Toàn Ơn Gọi
Côrintô là một đô thị hỗn tạp. Nằm trên trục giao thông, nó là
nơi tấp nập để trao đổi hàng hóa, tư tưởng và cả thân xác nữa� Cuộc sống phóng túng, sắc
dục được coi như là tự do và tự nhiên. Ðó không phải là một nhu cầu sao? Nếu
nhu cầu ăn uống là tự nhiên thì vì sao lại cấm nhu cầu sinh lý? Phaolô phản đối
lý luận này. Không thể coi nhu cầu sinh lý như nhu cầu ăn uống. Ăn uống là để
nuôi thân xác. Nhưng thân xác để làm gì?
Người có đức tin không thể quên xác thịt sẽ sống lại. Ðó là nét
độc đáo của Kitô giáo. Người tín hữu đã tin Ðức Kitô phục sinh thì không thể
quên rằng thân xác đã có định mệnh mới là sự sống đời sau. Và niềm tin này
không cho phép người ta làm ô uế xác thịt.
Hơn nữa hiện nay thân xác của họ cũng đã có một ơn gọi khác rồi.
Là Kitô hữu, họ đã gắn bó với Chúa Kitô và trở nên chi thể của Người. Làm sao họ
còn có thể giựt thân xác lại và đem ném cho phường đĩ điếm? Kẻ làm như vậy rõ
ràng là kẻ bất trung, bất tín.
Nó còn xúc phạm đến Thiên Chúa nữa, vì thân mình của họ sau ngày
lãnh nhận ơn gọi Kitô hữu, và trở thành đền thờ của Thánh Thần. Thế nên ai ý thức
ơn gọi của mình chỉ còn cách hãy "tôn vinh Thiên Chúa nơi thân thể của
mình".
Ðiều này cho chúng ta thấy quan niệm của thánh Phaolô về ơn gọi
thật là sâu sắc. Không cần nói đến ơn gọi linh mục hay tông đồ; ngay thiên triệu
làm Kitô hữu cũng đã hiến dâng cả thân xác con người cho Thiên Chúa. Người ta
phải hoàn toàn sống cho Người và gắn bó với Người. Không những tâm hồn người ta
mà phải quy về Chúa, mà cả thân xác cũng đã thuộc về Ðấng kêu gọi họ.
Ðó là lý tưởng; nhưng đồng thời cũng là đòi hỏi. Khó khăn thật bởi
vì bản tính loài người yếu đuối. Nhưng chúng ta quên rồi ư: Chúa đã gọi Samuel
hồi còn bé mọn và Người vẫn chọn những khí cụ tầm thường. Sức mạnh của Chúa sẽ
thi thố nhiều việc kỳ diệu nơi bản tính mỏng dòn khi người ta lắng nghe lời
Chúa mà không để lời nào rơi xuống đất như Samuel. Và nhất là người ta phải bắt
chước các môn đệ đầu tiên của Ðức Yêsu: có lòng tin đi đến với Người, xem thấy
Người và ở lại với Người.
Sự gắn bó mật thiết kết hiệp với Người sẽ khiến chúng ta biết tận
hiến tất cả đời sống, tâm hồn và thân xác để lo việc Chúa là thánh hóa trần
gian này. Khi ấy, Thánh Thần sẽ mạnh mẽ ở nơi chúng ta và chúng ta sẽ là người
của Chúa. Tất cả vì thế tùy thuộc ở việc chúng ta hiệp nhất với Chúa, mà thánh
lễ đây là cơ hội tốt đẹp nhất. Chúng ta hãy dâng lễ sốt sắng để mật thiết hơn với
Chúa hầu có khả năng sống ơn gọi Kitô hữu hiệu nghiệm hơn.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật II Thường
Niên, Năm B
Bài đọc: I Sam 3:3-10, 19; I
Cor 6:13-15, 17-20; Jn 1:35-42.
CHỦ ĐỀ: Nhận ra thánh ý Thiên
Chúa
Thiên Chúa có thể mặc khải trực tiếp cho một người hay qua trung
gian của người khác.Để nhận ra ý định của Thiên Chúa, nhiều khi con người cần cả
ba: Thiên Chúa, người trung gian, và chính đương sự. Các Bài Đọc hôm nay cho
chúng ta thấy những trường hợp con người có thể nhận ra ý định của Thiên Chúa.
Trong Bài đọc I, Thiên Chúa gọi con trẻ Samuel 3 lần giữa đêm tối
trong Đền Thờ, và Samuel đã nhận ra tiếng của Thiên Chúa qua sự giúp đỡ của Thầy
Cả Eli. Trong Bài Đọc II, qua sự dạy dỗ của Thánh Phaolô, chúng ta nhận ra phẩm
giá của thân xác và phải biết quí trọng nó, vì thân xác chúng ta là một phần
chi thể của Đức Kitô, và là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy
Giả chỉ đường cho hai môn đệ thân tín của mình theo Chúa Giêsu. Anrê, sau khi
đã gặp được Chúa, dẫn em mình là Phêrô đến gặp Chúa Giêsu.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Con trẻ Samuel được Thầy Cả Êli hướng dẫn để nhận ra tiếng gọi của
Thiên Chúa.
Cuộc đời con trẻ Samuel đặc biệt từ khi chưa ra đời. Mẹ của Samuel
là Bà Hanna, Bà son sẻ và chịu sự khinh bỉ của người đời vì không có con một thời
gian lâu dài. Bà khấn hứa với Thiên Chúa: nếu Ngài ban cho Bà một đứa con, Bà sẽ
dâng con trẻ lại cho Thiên Chúa để nó phục vụ trong Đền Thờ luôn. Thiên Chúa đã
nhận lời cầu xin của Bà và cho Bà có con trai. Tên Bà đặt cho con trẻ, Samuel,
có nghĩa là “quà tặng của Thiên Chúa.” Giữ lời đã hứa với Thiên Chúa, khi con
trẻ dứt sữa, Bà mang con và lễ vật hy sinh đến dâng cho Thầy Cả Êli trong Đền
Thờ Thiên Chúa tại Shiloh. Sau khi từ giã mẹ, con trẻ Samuel ở luôn trong Đền
Thờ từ ngày đó, cho đến khi xảy ra biến cố “Chúa gọi Samuel” hôm nay.
(1) Thiên Chúa gọi Samuel ba lần: Trình thuật kể: “Đèn của Thiên Chúa chưa tắt
và Samuel đang ngủ trong đền thờ Đức Chúa, nơi có đặt Hòm Bia Thiên Chúa. Đức
Chúa gọi Samuel. Cậu thưa: "Dạ, con đây!" Rồi chạy lại với ông Êli và
thưa: "Dạ, con đây, thầy gọi con." Ông bảo: "Thầy không gọi con
đâu. Con về ngủ đi." Cậu bèn đi ngủ. Đức Chúa lại gọi Samuel lần nữa.
Samuel dậy, đến với ông Êli và thưa: "Dạ, con đây, thầy gọi con." Ông
bảo: "Thầy không gọi con đâu, con ạ. Con về ngủ đi." Bấy giờ Samuel
chưa biết Đức Chúa, và lời Đức Chúa chưa được mặc khải cho cậu. Đức Chúa lại gọi
Samuel lần thứ ba. Cậu dậy, đến với ông Êli và thưa: "Dạ, con đây, thầy gọi
con." Thiên Chúa gọi con người nhiều lần, nhưng con người có biết lắng
nghe để nhận ra tiếng Chúa gọi hay không là chuyện khác. Sự ồn ào của thế gian
và sự mải mê chạy theo những tiếng gọi khác là những lý do ngăn cản không cho
con người nhận ra tiếng Chúa gọi.
(2) Thầy Cả Êli giúp Samuel nhận ra và đáp lại tiếng Chúa: Bấy giờ ông Êli hiểu là
Đức Chúa gọi cậu bé. Ông Êli nói với Samuel: "Con về ngủ đi, và hễ có ai gọi
con thì con thưa: "Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng
nghe."
(3) Samuel đáp trả tiếng Chúa gọi: Được sự hướng dẫn của Thầy,
nên khi nghe Thiên Chúa gọi lần thứ ba, Samuel mau mắn thưa: "Xin Ngài
phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe." Kể từ khi nhận ra tiếng Chúa, Samuel
tiếp tục đàm đạo với Chúa nhiều lần. Samuel lớn lên, Đức Chúa ở với ông và Người
không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu.
Mấy điều chúng ta có thể học nơi con trẻ Samuel: (1) Đền Thờ là
nơi dễ nhận ra tiếng Thiên Chúa gọi, vì là nơi tĩnh mịch và xa cách những ồn ào
của thế gian. Samuel phục vụ nơi Thánh Điện và ngủ trong Đền Thờ tại Shiloh;
(2) Mỗi lần nghe tiếng gọi là mỗi lần mau mắn đáp trả, dù chưa nhận ra là tiếng
của Thiên Chúa. Mỗi biến cố quan trọng xảy ra trong cuộc đời mỗi người là Thiên
Chúa đang muốn nói gì với cá nhân đó. Để nhận ra, đương sự cần có thời giờ suy
nghĩ và cầu nguyện; (3) Bàn hỏi với vị linh hướng và theo sự chỉ bảo của ngài.
Samuel chạy đến với Thầy mình, để xin sự hướng dẫn, và Samuel thực hành những
gì Thầy dạy.
2/ Bài đọc II: Thân xác con người quan trọng và cần thiết để làm việc cho Thiên
Chúa.
Chúng ta biết hầu hết các Thư viết bởi Phaolô là để trả lời cho
những vấn nạn đang xảy ra trong những cộng đòan do Ngài thiết lập. Vấn nạn hôm
nay là việc gian dâm, mà có một số người trong cộng đòan Côrintô không cho là tội.
Theo một số các triết gia Hy-Lạp, thân xác là ngục tù giam hãm linh hồn. Vì thế,
có 2 lối sống là hệ quả của quan niệm này: (1) khổ chế: hành hạ thân xác bằng
ăn chay nghiệm nhặt và đánh đập thân xác để chế ngự nó; và (2) buông thả: vì
thân xác không quan trọng trong việc giải thóat con người, nên cứ việc tự do hưởng
thụ khóai lạc. Thánh Phaolô phải đương đầu với lối sống thứ hai này; ngài
khuyên các tín hữu Corintô phải tránh xa tội gian dâm vì 2 phẩm giá của thân
xác.
2.1/ Thân xác anh em là một phần thân thể của Đức Kitô: Thần học về thân thể Đức
Kitô là một trong những chủ đề chính của Thư Phaolô. Theo thần học này, các
Kitô hữu là những chi thể của thân thể Đức Kitô; vì thế, tất cả các tín hữu đều
có bổn phận phải bảo vệ thân thể cho nguyên vẹn, vì một chi thể đau là tòan
thân đều cảm thấy đau lây. Dựa vào nguyên lý này, Phaolô kết luận, thân xác con
người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa. Ngài hướng dẫn họ:
- Thân xác con người sẽ bị hủy diệt: “Thức ăn dành cho bụng, và
bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ huỷ diệt cả cái này lẫn cái kia. Nhưng
thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ
thân xác.”
- Thân xác con người sẽ được Thiên Chúa cho sống lại: “Thiên
Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của
mình mà làm cho chúng ta sống lại. Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em
là phần thân thể của Đức Kitô sao? Tôi lại lấy phần thân thể của Đức Kitô mà
làm phần thân thể của người kỹ nữ sao? Không đời nào! Ai đã kết hợp với Chúa,
thì nên một tinh thần với Người.” Chuyện kết hợp với ai là nên một thân xác với
người ấy; điều này chỉ cho phép trong liên hệ vợ chồng. Khi chuyện này xảy ra
ngòai liên hệ vợ chồng, kẻ làm chuyện ấy tự tách mình ra khỏi thân thể của Đức
Kitô, vì tội lỗi không thể ở chung với sự thánh thiện trong thân thể của Chúa.
2.2/ Thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần: “Hay anh em lại chẳng biết
rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự
trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em
đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy
anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.” Qua Bí-tích Rửa Tội và
Thêm Sức, các tín hữu đã có Chúa Thánh Thần qua việc xức dầu; và Chúa Thánh Thần
là Đấng rất mực thánh thiện vì Ngài là Thiên Chúa. Con người chúng ta không thể
sống cho chính chúng ta nữa, vì chúng ta đã được Thiên Chúa cứu chuộc qua cái
chết của Đức Kitô. Do đó, chúng ta phải sống cho Thiên Chúa và làm vinh quang
Ngài qua thân xác chúng ta.
3/ Phúc Âm: Người bảo họ: "Đến mà xem!”
3.1/ Gioan giới thiệu Đức Kitô cho 2 môn đệ của ông: “Hôm sau, ông Gioan lại
đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giêsu đi ngang qua,
ông lên tiếng nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa." Khi một người giới thiệu
môn đệ của mình với một Thầy hay hơn mình là chấp nhận mất môn đệ. Gioan không
giữ môn đệ cho mình, ông chỉ cho hai môn đệ đi theo Thầy tốt hơn; vì ông quan
tâm đến lợi ích cho môn đệ chứ không giữ lợi ích cho mình. Mấy ai trong chúng
ta có được thái độ như của Gioan? Chúng ta đã đề cập đến nguồn gốc lịch sử của
câu “Đây là Chiên Thiên Chúa.” Chúa Giêsu chính là Con Chiên, lễ vật hy sinh để
đền tội cho con người.
3.2/ Phản ứng của hai môn đệ: Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu. Hai môn đệ của
Gioan có lẽ ngượng ngùng không biết mở lời làm sao, nên cứ tiếp tục theo đàng
sau Chúa Giêsu. Để dễ dàng cho họ phản ứng, Chúa Giêsu mở lời trước: "Các
anh tìm gì thế?" Họ đáp: "Thưa Rabbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở
đâu?"
- Chúng ta có thể nhận ra cả 3 yếu tố quan trọng đều có ở đây:
(1) Gioan, người trung gian chỉ đường cho hai ông đến với Chúa; (2) chính hai
ông phải vượt qua xấu hổ, ngượng ngùng để đi theo Ngài; và (3), Chúa Giêsu mở lời
trước để đánh tan ngượng ngùng lúc ban đầu, và mời gọi hai ông đến và xem.
- Câu hỏi Chúa đặt cho hai ông: “Các anh tìm gì thế?” là câu hỏi
nền tảng nhất trong đời sống con người. Câu trả lời cho câu hỏi này sẽ giúp
chúng ta nhận ra tại sao chúng ta đi tìm hay không đi tìm Thiên Chúa. Nếu câu
trả lời là đi tìm của cải, danh vọng, chức quyền; chúng ta đừng đến với Chúa,
vì Ngài sẽ không thỏa mãn khát vọng của ta. Nếu câu trả lời như của người thanh
niên trẻ: “Tôi phải làm gì để đạt được cuộc sống đời đời?” Hãy đến với Chúa,
Ngài sẽ giúp chúng ta tìm ra câu trả lời.
3.3/ Lời mời gọi của Đức Kitô: Người bảo họ: "Đến mà xem." Họ đã
đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ
mười.
- Người khác có thể nói về Chúa cho chúng ta nghe, hay giới thiệu
chúng ta đến với Chúa; nhưng để nhận ra Chúa là ai, chúng ta cần kinh nghiệm của
cá nhân chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta có được kinh nghiệm cá nhân biết Chúa,
lúc đó Chúa mới thực sự thuyết phục chúng ta.
- Các môn đệ đáp trả lời mời của Chúa Giêsu; họ đến và ở với
Ngài suốt ngày hôm đó. Giờ thứ mười của Do-Thái là khỏang 4 giờ chiều của chúng
ta.
3.4/ Người nhận ra tiếng gọi theo Chúa trở thành người mời gọi: “Ông Anrê, anh ông Simon
Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước
hết, ông gặp em mình là ông Simon và nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng
Messiah" (nghĩa là Đấng Kitô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức
Giêsu nhìn ông Simon và nói: "Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi
là Kêpha" (tức là Phêrô).”
- Yêu ai thực sự là muốn điều tốt nhất cho người ấy. Anrê đã gặp
Đấng Thiên Sai, và đây là Tin Mừng quan trọng nhất cho những người Do-Thái.
Thương em, Anrê dắt em mình tới giới thiệu với Đức Kitô.
- Phản ứng của Chúa Giêsu khi gặp Phêrô: Vừa gặp lần đầu, Chúa
Giêsu đã biết rõ con người Phêrô là ai, và Ngài đã có sẵn cho ông một sứ vụ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần lắng nghe và nhìn xem để nhận ra thánh ý của
Thiên Chúa.
- Chúng ta cần cả ba: tiếng Thiên Chúa gọi, người trung gian, và
chính bản thân để nhận ra thánh ý của Thiên Chúa. Nếu chúng ta không cố gắng,
chúng ta sẽ không bao giờ nhận ra thánh ý của Thiên Chúa.
- Một khi đã nhận ra thánh ý của Thiên Chúa, chúng ta có bổn phận
phải thi hành những gì Thiên Chúa dạy.
- Ngòai ra, chúng ta còn phải hướng dẫn và đưa mọi người đến với
Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
18/01/15 CHÚA NHẬT TUẦN
2 TN – B
Khởi đầu tuần lễ hiệp nhất Ki-tô hữu
Ga 1,35-42
Khởi đầu tuần lễ hiệp nhất Ki-tô hữu
Ga 1,35-42
Suy niệm: Nếu như thánh Gio-an Tẩy giả
không giới thiệu Đức Giê-su với các môn đệ của ông thì khó lòng mà An-rê gặp
được Chúa Giê-su và đưa em mình đến với Ngài, để rồi từ đó các ông được Chúa
gọi đi theo. Chúng ta thấy vai trò của người giới thiệu rất là quan trọng vì nó
có tính quyết định cho một chọn lựa, dĩ nhiên chúng ta còn có tự do của riêng
mình, nhưng cũng không thể phủ nhận vai trò giới thiệu của một ai đó (cho nghề
nghiệp, hướng đi tu...).
Mời Bạn: Là Ki-tô hữu, bạn có trách nhiệm giới thiệu
Đức Ki-tô cho anh chị em của mình bằng Lời của Ngài, bằng đời sống tốt phản ánh
Tin Mừng bạn đọc và suy gẫm mỗi ngày. Bạn đóng vai trò của Thánh Gio-an Tiền
hô, không giữ riêng cho mình điều mà chính Chúa muốn bạn chia sẻ, nhất là khi
điều ấy đem lại một kết quả tốt đẹp cho mọi người. Đó chính là đức bác ái Ki-tô
giáo.
Chia sẻ: Có khi nào bạn “giấu” không muốn nói cho ai đó
biết một điều có lợi cho người ấy chưa (một việc làm, một người cố vấn có khả
năng, một cơ hội giải quyết khó khăn mà họ đang gặp phải...)?
Sống Lời Chúa: Trong năm Tân Phúc Âm hoá này, mỗi khi có dịp,
bạn nói về Chúa, về niềm tin của mình cho những người chưa biết (vd: tặng 1
cuốn Kinh thánh, dẫn đi nhà thờ, đền Đức Mẹ...) để nhờ đó họ cũng “gặp được
Đấng Mê-si-a”.
Cầu nguyện: Lạy
Chúa, xin cho con đừng bao giờ ngại miệng mỗi khi nói về Chúa cho mọi người và
sẵn lòng chỉ cho người khác điều tốt đẹp, đừng ích kỷ chỉ biết cho riêng mình
mà thôi.
Thầy ở đâu – Hãy đến mà xem
(18.01.2015 – Chúa nhật 2 Thường niên năm B)
Suy Niệm
Ðoạn Tin Mừng này đã được Ðức Thánh Cha
dùng làm bài suy niệm cho ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ XII.
dùng làm bài suy niệm cho ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ XII.
Ðể gặp được Ðức Giêsu, cần có người giới thiệu.
Gioan đã giới thiệu Ðức Giêsu cho hai môn đệ của mình.
Ông Anrê cũng đã giới thiệu Ðức Giêsu cho em là Simon,
và dẫn ông này đến gặp Ngài.
Chẳng ai thực sự gặp được Ðức Giêsu
mà lại không mong giới thiệu Ngài cho người khác.
Ðức Giêsu là kho tàng cứ mãi lớn lên khi được san sẻ.
Hạnh phúc của Gioan Tẩy giả và Anrê
là thấy Ðức Giêsu và người mình giới thiệu gặp nhau.
Họ chấp nhận tự xóa mình.
Gioan chấp nhận chia tay với hai môn đệ yêu dấu.
Anrê sau này chẳng được nổi tiếng bằng Simon.
Gioan đã giới thiệu Ðức Giêsu cho hai môn đệ của mình.
Ông Anrê cũng đã giới thiệu Ðức Giêsu cho em là Simon,
và dẫn ông này đến gặp Ngài.
Chẳng ai thực sự gặp được Ðức Giêsu
mà lại không mong giới thiệu Ngài cho người khác.
Ðức Giêsu là kho tàng cứ mãi lớn lên khi được san sẻ.
Hạnh phúc của Gioan Tẩy giả và Anrê
là thấy Ðức Giêsu và người mình giới thiệu gặp nhau.
Họ chấp nhận tự xóa mình.
Gioan chấp nhận chia tay với hai môn đệ yêu dấu.
Anrê sau này chẳng được nổi tiếng bằng Simon.
Theo lời giới thiệu của Gioan, hai ông đi theo Ðức Giêsu.
Chẳng rõ họ đã đi theo bao lâu và bao xa.
Họ rụt rè không biết bắt đầu câu chuyện thế nào.
Ðức Giêsu thấy sự lúng túng dễ thương của họ.
Chính Ngài đi bước trước, mở đầu cuộc đối thoại.
Chẳng rõ họ đã đi theo bao lâu và bao xa.
Họ rụt rè không biết bắt đầu câu chuyện thế nào.
Ðức Giêsu thấy sự lúng túng dễ thương của họ.
Chính Ngài đi bước trước, mở đầu cuộc đối thoại.
Các anh tìm gì thế ?
Câu hỏi này bắt họ phải trở lại với lòng mình,
phải ý thức về nỗi khát khao đang chi phối mình.
Tôi đang tìm gì ? Tiền bạc, tiếng tăm, thỏa mãn?
Hay tôi đang tìm một Ai đó cho đời tôi một hướng đi?
Ðức Giêsu gợi chuyện để họ bày tỏ khát vọng của mình.
Câu hỏi này bắt họ phải trở lại với lòng mình,
phải ý thức về nỗi khát khao đang chi phối mình.
Tôi đang tìm gì ? Tiền bạc, tiếng tăm, thỏa mãn?
Hay tôi đang tìm một Ai đó cho đời tôi một hướng đi?
Ðức Giêsu gợi chuyện để họ bày tỏ khát vọng của mình.
Thưa Thầy, Thầy ở đâu?
Câu hỏi này tương đương với một câu trả lời.
Chúng con muốn biết nhà của Thầy, muốn đến thăm Thầy.
Ðến nhà một người là đi vào thế giới của người đó.
Hai ông không chỉ muốn biết Ðức Giêsu qua lời Gioan.
Họ muốn đích thân gặp gỡ Ngài.
Chuyện này không ai làm thay được.
Câu hỏi này tương đương với một câu trả lời.
Chúng con muốn biết nhà của Thầy, muốn đến thăm Thầy.
Ðến nhà một người là đi vào thế giới của người đó.
Hai ông không chỉ muốn biết Ðức Giêsu qua lời Gioan.
Họ muốn đích thân gặp gỡ Ngài.
Chuyện này không ai làm thay được.
Hãy đến mà xem.
Ðức Giêsu không giấu hai ông về thế giới của Ngài.
Lời mời này vẫn vang vọng đến tai chúng ta.
Ðừng sợ đi theo Ðức Giêsu để đến nhà Ngài.
Ðừng sợ trao đổi với Ngài như một người bạn.
Nơi nào có những người nghèo khổ, bị bỏ rơi,
những người cô đơn, bị khinh miệt hay phản bội,
những người khác văn hóa và tôn giáo,
nơi đó là nhà của Ðức Giêsu.
Ðức Giêsu không giấu hai ông về thế giới của Ngài.
Lời mời này vẫn vang vọng đến tai chúng ta.
Ðừng sợ đi theo Ðức Giêsu để đến nhà Ngài.
Ðừng sợ trao đổi với Ngài như một người bạn.
Nơi nào có những người nghèo khổ, bị bỏ rơi,
những người cô đơn, bị khinh miệt hay phản bội,
những người khác văn hóa và tôn giáo,
nơi đó là nhà của Ðức Giêsu.
Họ đã đến xem và đã ở lại.
Hai ông đã nhận lời mời ngay lập tức.
Không có khoảng cách giữa ước muốn và thực hành.
Chúng ta chẳng rõ chi tiết của cuộc hạnh ngộ này,
nhưng chắc chắn đó là một kỷ niệm không quên.
Hai ông đã nhận lời mời ngay lập tức.
Không có khoảng cách giữa ước muốn và thực hành.
Chúng ta chẳng rõ chi tiết của cuộc hạnh ngộ này,
nhưng chắc chắn đó là một kỷ niệm không quên.
Kinh nghiệm của hai ông cũng là của mọi Kitô hữu.
Chúng ta phải được giới thiệu Ðức Giêsu,
phải đích thân gặp Ngài,
và phải trở nên người giới thiệu Ngài cho thế giới.
Chúng ta phải được giới thiệu Ðức Giêsu,
phải đích thân gặp Ngài,
và phải trở nên người giới thiệu Ngài cho thế giới.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
chọn những cầu thủ bóng đá,
những tài tử điện ảnh
làm thần tượng cho đời mình.
nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
chọn những cầu thủ bóng đá,
những tài tử điện ảnh
làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay
Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
và chúng con thật sự đắn đo
trước khi chọn Chúa.
Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
và chúng con thật sự đắn đo
trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng
chọn Chúa là lội ngược dòng,
theo Chúa là bước vào con đường hẹp:
con đường nghèo khó và khiêm nhu,
con đường từ bỏ và phục vụ.
chọn Chúa là lội ngược dòng,
theo Chúa là bước vào con đường hẹp:
con đường nghèo khó và khiêm nhu,
con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
không phải vì Chúa giàu có, tài năng hay nổi tiếng,
nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
không phải vì Chúa giàu có, tài năng hay nổi tiếng,
nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa
nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ bé,
để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
và để chúng con
thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.
nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ bé,
để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
và để chúng con
thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
18 THÁNG GIÊNG
Giá Trị Và Phẩm Cách Của Lao Động
Mọi người – nam cũng như nữ – đều là những lữ khách trên mặt đất
này, những lữ khách trong cuộc hành hương kiếm tìm sự thật, kiếm tìm Thiên
Chúa! Và mọi người đều được mời gọi vào cuộc hành hương này. Chúng ta là khách
hành hương, là thành phần của Dân Thiên Chúa; chúng ta được Đấng Tạo Hóa, Cha
chúng ta, dẫn dắt tiến về với sự thánh thiện viên mãn nơi Ngài. Ngài đang dẫn
đưa chúng ta đến với Ngài xuyên qua bao kinh nghiệm và thử thách của cuộc sống
hôm nay.
Để chỉ cho ta biết con đường sự sống đưa ta về hiệp nhất với
Ngài, Thiên Chúa đã gửi chính Con của Ngài đến với ta. Ngài đã đặt người Con ấy
làm viên đá góc, nhờ đó chúng ta có thể vươn tới ơn cứu độ (1Pr 2, 6 – 8). Thật
vậy, trong Đức Giêsu Kitô, chúng ta cũng trở nên những viên đá sống “xây dựng
tòa nhà thiêng liêng để thành hàng tư tế thánh dâng lễ vật thiêng liêng đẹp
lòng Thiên Chúa” (1Pr 2, 5). Những lễ vật thiêng liêng này được gắn kết với mọi
thực tại dệt nên cuộc sống chúng ta, nhất là gắn kết với lao động con người –
vì lao động là chiều kích nền tảng của cuộc sống con người trên trái đất.
Tôi tưởng cần nêu vài suy tư về giá trị và phẩm cách của lao động
con người. Đức Giêsu Kitô là con của một người thợ mộc. Phần lớn cuộc đời Người,
trong kiếp người, Người cần cù làm việc nối nghiệp của Thánh Giu-se – cha nuôi
Người. Bằng chính nghề thợ mộc của Người, Đức Giêsu cho thấy rằng trong đời sống
hằng ngày, chúng ta được kêu gọi sống phẩm giá của lao động. Bằng lao động, con
người tham dự vào công cuộc sáng tạo của chính Thiên Chúa. Dù làm việc ở nhà
máy hay trong văn phòng, trong bệnh viện hay ngoài đồng ruộng…, ở bất cứ đâu
chúng ta cũng đang góp phần vào công trình tạo dựng của chính Thiên Chúa; điều
này đem lại giá trị và ý nghĩa cho mọi công việc của chúng ta.
“Giá trị lao động của một người được ấn định trước hết không phải
bởi loại công việc mà người ấy làm, nhưng là bởi vì công việc ấy được làm bởi một
nhân vị” (Thông Điệp Laborem exercens, 6). Như vậy, mọi lao động của con người,
dù có vẻ nhỏ nhặt đến đâu, đều phải được hết mực kính trọng, bảo vệ và tưởng
thưởng thích đáng. Nhờ đó, mọi gia đình – và toàn thể cộng đồng xã hội – sẽ có
thể sống trong hòa bình, thịnh vượng và phát triển.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 18-01
Chúa Nhật II Thường Niên
1Sm 3,3b-10.19; 1Cr 6,13c-15a.17-20; Ga 1,35-42
LỜI SUY NIỆM: “Hai môn đệ nghe ông
nói, liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình thì
hỏi: Các anh tìm gì thế?”
Khi được Gioan giới thiệu về Chúa Giêsu là Đấng quyền thế hơn
ông, ông không đáng xách dép cho Người. Hai môn đệ đã rời ông e dè, rụt rè,
kính cẩn đi theo sau lưng Chúa Giêsu một cách im lặng; và có một khoảng cách.
Người biết, và đã rút ngắn khoảng cách đó, bằng cách quay lại, gợi chuyện
và cuối cùng chính Người mời họ đến xem nơi Người ở, và họ đã ở lại với Người,
ngay ngày hôm đó.
Lạy Chúa Giêsu, Thánh Augustinô khuyên bảo chúng con: “Khi đến với
Chúa, chúng ta không đến với một Đấng ẩn mình và giữ khoảng cách với chúng ta,
mà đến với Đấng đang chờ chúng ta. Ngài còn đi trước để tìm gặp chúng ta trên
đường chúng ta tìm kiếm Ngài”. Xin ban cho mọi thành viên trong gia đình chúng
con vững tin sống trong tình thương của Chúa.
Mạnh Phương
18 Tháng Giêng
Tấm Gương Sự Thật
Theo câu chuyện cổ tích của người Tây Phương về Cô Bạch Tuyết và
bảy chú lùn thì Sự Thật chiếu sáng và nói qua một tấm gương. Khi hoàng hậu, người
kế mẫu của Bạch Tuyết nhìn vào tấm gương sự thật ấy để hỏi về mình, bà được trả
lời như sau: "Thưa hoàng hậu, hoàng hậu là người đẹp nhất hiện nay".
Mà quả thật, so sánh với những người đàn bà đương thời, bà ta là người đẹp nhất.
Nhưng công chúa Bạch Tuyết mỗi ngày một lớn và trở nên xinh đẹp.
Trắng như tuyết, đỏ như máu, đen như mun: ba màu sắc ấy kết hợp một cách hài
hòa để mỗi ngày một gia tăng vẻ đẹp cho cô bé, dù chỉ mới lên 7 tuổi. Ai cũng
nhận thấy rằng cô đã vượt xa người kế mẫu về sắc đẹp.
Một hôm, hoàng hậu kế mẫu hỏi ý kiến của chiếc gương Sự Thật một
lần nữa. Lần này, tấm gương đã trả lời: "Thưa hoàng hậu, quả thực hoàng hậu
là người xinh đẹp ít ai sánh bằng. Nhưng hiện nay, công chúa Bạch Tuyết đã đẹp
hơn hoàng hậu bội phần. Ðây là điều mà không ai chối cãi được, 7 chú lùn đã xác
định điều đó".
Người kế mẫu không muốn chấp nhận Sự Thật ấy. Bà không thể nào
chấp nhận một đứa con riêng của chồng được quyền đẹp hơn Bà. Sự ganh ghét đã bắt
đầu gặm nhấm tâm hồn bà để rồi bà chỉ còn có mỗi một ý nghĩ trong đầu: đó là loại
bỏ người đối thủ tí hon của bà. Bà sai người cho thuốc độc vào một trái táo rồi
mang đến cho Bạch Tuyết. Cô bé bị ngộ độc và đã đi vào cõi chết, nhưng vẫn giữ
nguyên nét đẹp trên gương mặt. Một hoàng tử đã say mê nhìn khuôn mặt bất động ấy.
Chàng đã đặt trên môi Bạch Tuyết một chiếc hôn. Trái táo độc rớt khỏi môi và Bạch
Tuyết đã được hồi sinh. Người hoàng hậu kế mẫu nghe điều đó. Sự oán hận và ganh
tức đã dồn lên khiêùn cho người đàn bà chết tốt.
Tấm gương Sự Thật của chúng ta chính là Ðức Kitô.
Philatô đã có lần hỏi Chúa Giêsu: Sự Thật là gì? Chúa Giêsu đã
không trả lời cho câu hỏi ấy. Nhưng hẳn những người môn đệ đã có lần nghe Chúa
Giêsu tuyên bố: "Ta là Ðường, là Sự Thật, và là Sự Sống" đều có thể
trả lời cho câu hỏi ấy.
Chúa Giêsu không chỉ là Sự Thật một cách trừu tượng, một cách trống
rỗng, mà là Sự Thật của con người, đối với con người. Cũng chính Philatô, sau
khi đã ra lệnh đánh đòn Chúa Giêsu, đã đưa Người ra trước dân chúng và tuyên bố:
"Này là Người". Này là người, này là con người, hay đúng hơn là sự thật
về con người. Chúa Giêsu đã để lộ tất cả con người của ngài qua những vết
thương trên người. Phải chăng con người chỉ để lộ nhân tính và tất cả những nét
cao quý nhất của mình qua những lằn roi, qua những vết thương đau vì yêu
thương, vì phục vụ?
Chúa Giêsu là tấm gương Sự Thật của con người. Chỉ qua Ðức Kitô,
chúng ta mới có thể nhận diện được con người đích thực của chúng ta. Nhìn vào Ðức
Kitô, tội lỗi và những bất toàn của chúng ta sẽ hiện ra, nhưng hình ảnh cao quý
được Thiên Chúa in trên mỗi người chúng ta cũng tỏ lộ.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét