Ngày 2
tháng 2
Ðức Mẹ Dâng
Chúa Giêsu Trong Ðền Thánh(Lễ Nến)
Lễ Kính
* Theo luật Do Thái thì tất cả các con trai đầu lòng đều
thuộc về Thiên Chúa, vì vậy cha mẹ con trẻ phải chuộc các em bằng một con chiên
hay đôi chim bồ câu. Những lễ vật này sẽ được dâng hiến Thiên Chúa thay cho các
em.
Ðức Maria đã tự khép mình vâng theo luật. Nhưng khi dâng Chúa
Giêsu trong đền thánh, Mẹ biết rằng đây không phải là chuộc lại nhưng chính là
khởi đầu cho lễ hy sinh mà Con Mẹ sẽ hoàn tất trên núi Sọ để cứu chuộc chúng
ta.
Trong thánh lễ hôm nay, Giáo Hội muốn trình bày cho chúng ta
hai ý nghĩa, thứ nhất là kỷ niệm cuộc gặp gỡ đầu tiên của Ðấng Cứu Thế với dân
riêng Ngài qua ông già Simêon là đại diện; thứ hai Chúa Giêsu là ánh sáng chiếu
soi cho mọi dân tộc trên mặt đất.
Bài Ðọc I: Ml 3, 1-4
"Ðấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, đến trong đền thánh
Người".
Trích sách Tiên tri Malakhi.
Này đây Chúa là Thiên Chúa phán: "Ðây Ta sai thiên thần Ta
đi dọn đường trước mặt Ta!" Lập tức Ðấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm,
và thiên thần giao ước mà các ngươi mong ước, đến trong đền thánh Người. Chúa
các đạo binh phán: "Này đây Người đến". Ai có thể suy tưởng đến ngày
Người đến, và có thể đứng vững để trông nhìn Người? Vì Người sẽ như lửa thiêu đốt,
như thuốc giặt của thợ giặt. Người sẽ ngồi như thợ đúc và thợ lọc bạc, Người sẽ
thanh tẩy con cái Lêvi, và làm cho chúng nên sạch như vàng bạc. Chúng sẽ hiến
dâng lễ tế cho Chúa trong công bình. Lễ tế của Giuđa và Giêrusalem sẽ đẹp lòng
Chúa, như ngày xưa và như những năm trước. Ðó là lời Chúa toàn năng phán.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 23, 7. 8. 9. 10
Ðáp: Vua hiển vinh là ai vậy? (c. 8a)
Xướng: 1) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên; vươn mình lên, hỡi cửa
ngàn thu! để Vua hiển vinh Người ngự qua. - Ðáp.
2) Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa dũng lực hùng anh,
đó là Chúa anh hùng của chiến chinh. - Ðáp.
3) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên, vươn mình lên, hỡi cửa ngàn
thu, để vua hiển vinh Người ngự qua. - Ðáp.
4) Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa đạo thiên binh,
chính Người là Hoàng Ðế hiển vinh. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Dt 2, 14-18
"Người phải nên giống anh em Mình mọi đàng".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Vì các con trẻ cùng chung thân phận máu thịt, chính Chúa Giêsu
cũng giống như chúng, cũng thông phần điều đó, để nhờ cái chết của Người mà Người
huỷ diệt kẻ thống trị sự chết là ma quỷ, và để giải thoát tất cả những kẻ sợ chết
mà làm nô lệ suốt đời. Vì chưng Người không đến cứu giúp các thiên thần, nhưng
đến cứu giúp con cái Abraham. Bởi thế, Người nên giống anh em Mình mọi đàng,
ngõ hầu trong khi phụng sự Chúa, Người trở thành đại giáo trưởng nhân lành và
trung tín với Chúa, để đền tội cho dân. Quả thật, bởi chính Người đã chịu khổ
hình và chịu thử thách, nên Người có thể cứu giúp những ai sống trong thử
thách.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 2,32
Alleluia, alleluia! - Ánh sang đã chiếu soi muôn dân, và là vinh
quang của Israel dân Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 2, 22-32 [hoặc 22-40]
"Mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền
đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa
rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về
Chúa". Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một
đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu con.
Và đây ở Giêrusalem, có một người tên là Simêon, là người công
chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần
cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước
khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay
lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật.
Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an
theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà
Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và
vinh quang của Israel dân Chúa".
[ Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người.
Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ
này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng
dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm
sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"
Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê,
đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi thủ tiết
cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu
nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói
về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.
Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo Luật Chúa, thì trở lại xứ
Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn
ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. ]
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm : Trinh nữ hiến dâng
Mừng kính biến cố Mẹ dâng Chúa vào đền thờ, chúng ta cùng nhau
chia sẻ về tâm tình dâng hiến của Mẹ. Thực vậy, trong tông huấn “Marialis
Cultus”, bàn về lòng tôn sùng kính mến Mẹ, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã gọi Mẹ là
“Trinh nữ hiến dâng Virgo offerans”. Chỉ cần nhìn vào cuộc đời của Mẹ, chúng ta
sẽ thấy ngay được sự dâng hiến ấy.
Trước hết, theo truyền thuyết thì năm lên ba, Mẹ đã theo cha mẹ
lên đền thờ, rồi ở lại đó một thời gian. Trong thời gian này, Mẹ đã học hỏi
Kinh thánh, tập luyện các nhân đức và khấn giữ mình đồng trinh, một nhân đức rất
hiếm người Do thái hiểu và giữ lúc bấy giờ. Mẹ đã dâng hiến trọn vẹn tâm hồn và
thể xác cho Thiên Chúa.
Tiếp đến trong hoạt cảnh truyền tin, Mẹ đã dâng hiến cõi lòng của
Mẹ, làm thành như một chiếc nôi hồng cho Ngôi Lời giáng thế. Và hôm nay, Mẹ đã
dâng hiến người con yêu dấu của Mẹ cho Thiên Chúa theo như lề luật qui định, để
rồi sự dâng hiến này đạt tới cao điểm của nó trên đỉnh đồi Canvê, khi Mẹ
đứng dưới chân cây thập giá nhìn Chúa chịu sát tế làm của lễ đền tội cho nhân
loại.
Nhìn vào mẫu gương của Mẹ, chúng ta rút ra được một kết luận như
sau: Dâng hiến và đau khổ luôn đi liền với nhau. Thực vậy, không một sự dâng hiến
nào mà lại không có khổ đau. Và hơn thế nữa, chính những khổ đau này sẽ làm cho
việc dâng hiến trở nên cao cả và có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Tại sao thế ?
Tôi xin thưa vì dâng hiến là gì nếu không phải là lấy đi phần
cao quí nhất để trao cho người mình thương mến. Mà đã cho đi thì phải mất mát.
Mà mất mát thì phải tiếc xót. Chính vì thế, sự dâng hiến nào cũng đòi buộc phải
chấp nhận hy sinh và khổ đau.
Nhìn vào Mẹ, chúng ta sẽ thấy được sự thật ấy. Một khi đã
cúi đầu xin vâng, Mẹ cũng sẵn sàng chấp nhận mọi khổ đau sẽ xảy đến.
Chúng ta hãy nghĩ tới bàu khí ngột ngạt và căng thẳng trong gia
đình, khi thánh Giuse nhận ra Mẹ đã mang thai không bởi hành động của mình. Mẹ
đã âm thầm chịu đựng, mặc cho Thiên Chúa hành động và làm sáng tỏ vấn đề.
Chúng ta hãy nghĩ tới việc Mẹ lên đường trở về Bêlem để đăng ký
hộ khẩu giữa lúc bụng mang dạ chửa, việc sinh Chúa trong cảnh nghèo túng của
máng cỏ giữa nơi đồng vắng, việc trốn chạy giữa đêm khuya và những cực nhọc nơi
đất khách quê người bên Ai Cập cũng như những lao động vất vả tại Nagiarét.
Rồi trong ngày hôm nay, Mẹ đã phải đón nhận lời tiên báo đầy cay
đắng của ông già Simêon:
- Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua lòng bà…
Lời tiên báo này đã được thực hiện qua từng biến cố cuộc đời và
đã trở nên trọn vẹn trên đỉnh đồi Canvê. Tại đây, sự dâng hiến trở nên tuyệt hảo
nhất, thì hy sinh và đau khổ cũng đáng cay và chua xót nhất. Mẹ đã kết hiệp với
Đức Kitô trong máu và nước mắt, để dâng hiến cho Thiên Chúa một của lễ cao cả
nhất.
Nhìn vào Chúa, chúng ta lại càng thấy rõ sự thật này hơn nữa.
Thực vậy, mục đích của việc xuống thế làm người là gì nếu không
phải là để cứu chuộc nhân loại. Nhưng đâu là giây phút quan trọng nhất trong
chương trình cứu độ, nếu không phải là giây phút Ngài hiến dâng trên bàn thờ thập
giá. Tất cả cuộc đời của Ngài chỉ là một sự chuẩn bị cho giây phút trọng đại
này. Mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của Ngài đều hướng tới đỉnh cao thập
giá, chính tại đây Ngài đã chấp nhận những đớn đau và tủi nhục. Ngài đã sinh ra
trong khó nghèo, lớn lên trong vất vả và chết đi trong nhục nhã. Thế nhưng,
chính nhờ việc tự hạ này, mà Thiên Chúa đã nâng Ngài lên và tôn vinh Ngài.
Còn chúng ta thì sao ?
Nếu muốn sống tâm tình dâng hiến như Chúa và Mẹ, chúng ta cũng
phải chấp nhận hy sinh và khổ đau trong cuộc sống hằng ngày. Đúng thế, chúng ta
vốn thường ngại hy sinh và chạy trốn đau khổ, nhưng làm sao có thể lẩn tránh vì
chúng được chất đầy trong cuộc sống chúng ta, chi bằng hãy can đảm chấp nhận.
Hy sinh va khổ đau không phải là một cái gì làm cho chúng ta sợ
hãi, những là một phần của đời sống chúng ta. Nếu biết đón nhận, nó sẽ thanh tẩy
và làm cho chúng ta trở nên tinh ròng, như tục ngữ cũng đã nói: lửa thử vàng,
gian nan thử đức.
Hơn thế nữa, nếu chúng ta biết chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa,
thì những hy sinh và khổ đau ấy sẽ trở nên công phúc cho chúng ta, bởi vì lòng
yêu mến là như chiếc đũa thần biến những hy sinh và khổ đau trở thành những sợi
chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời và làm cho cuộc đời chúng ta thực sự có giá
trị trước mặt Thiên Chúa.
Chính vì thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ: Anh em hãy hiến
dâng thân xác anh em làm của lễ đẹp lòng Thiên Chúa, bởi vì Ngài yêu thích những
ai trao ban một cách vui vẻ.
Lời Chúa Mỗi
Ngày
Dâng Con
Trong Đền Thờ (Ngày 2 tháng 2)
Bài đọc: Mal
3:1-4; Heb 2:14-18; Lk 2:22-32.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa
Giêsu vào Đền Thờ để gặp gỡ dân Người.
Đền Thờ là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa con người: bắt
đầu với Lều Hội Ngộ khi con cái Israel vẫn còn lang thang suốt 40 năm trường
trong sa mạc; sau khi ổn định trong Đất Hứa, vua Solomon đã xây dựng một Đền Thờ
và di chuyển Hòm Bia vào nơi Cực Thánh, để con người đến cầu nguyện và dâng lễ
hy sinh đền tội; khi Đền Thờ Jerusalem bị phá hủy toàn bộ vào năm 70 AD, sự hiện
diện của Thiên Chúa không chỉ còn giới hạn tại Jerusalem, nhưng lan tràn mọi
nơi, bất cứ nơi nào có nhà thờ, nơi đó có Chúa Giêsu hiện diện với con người
cho đến Ngày Tận Thế.
Các bài đọc hôm nay muốn nhấn mạnh đến sự hiện diện của Thiên
Chúa trong Đền Thờ để gặp gỡ dân Ngài. Trong bài đọc I, tiên-tri được coi như
cuối cùng của Cựu Ước, Malachi, nhìn thấy trước ngày Thiên Chúa thân hành hiện
đến thăm viếng dân Người để thanh tẩy họ khỏi mọi tội lỗi; một sứ giả sẽ đi trước
chuẩn bị đường cho Ngài. Trong bài đọc II, tác giả Thư Do-thái mô tả cách thức
hiện diện của Thiên Chúa: Ngài sẽ mặc lấy xác phàm của con người để ở với con
người, để con người có thể trông thấy Ngài bằng xương thịt. Ngài sẽ trải qua tất
cả những đau khổ của kiếp người để cảm thông, để trợ giúp, và để xóa sạch tất cả
tội lỗi của con người. Trong Phúc Âm Lucas, cụ già Simeon là người đầu tiên được
xem thấy Chúa khi cha mẹ mang Ngài đến để gặp gỡ dân Người. Simeon sẵn sàng nhắm
mắt ra đi, vì ông đã được nhìn thấy ơn cứu độ bằng xương thịt như lời các tiên
tri loan báo.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi
trông đang đến.
Sách tiên-tri Malachi được viết sau Thời Lưu Đày, khoảng 515 BC.
Cũng như nhiều các tiên-tri khác, tiên-tri Malachi tin triều đại của Đấng Thiên
Sai đã gần đến: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Và bỗng
nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người.
Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến, Đức
Chúa các đạo binh phán.” Theo lời tiên-tri Malachi, một Sứ-giả sẽ đến trước để
dọn đường trước khi Đấng Thiên Sai tới; và khi đã dọn đường xong, Đấng Thiên
Sai sẽ đến bất cứ lúc nào.
1.1/ Vai trò của Sứ-giả: Truyền thống Do-thái tin Ngày
Đấng Thiên Sai tới sẽ là ngày kinh hoàng của kẻ dữ, nhưng sẽ mang hy vọng cho
những người Israel còn sót. Tiên-tri Malachi nói về Ngày này như sau: “Ai chịu
nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của
thợ luyện kim, như thuốc tẩy của thợ giặt. Người sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc;
Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi và tinh luyện chúng như vàng, như bạc.”
Hai nhiệm vụ chính của Sứ-giả dọn đường cho Đấng Thiên Sai là
thanh tẩy và tinh luyện tâm hồn dân chúng để họ sẵn sàng cho Ngày của Thiên
Chúa. Hai chất liệu được dùng là lửa của người luyện kim và thuốc tẩy của người
thợ giặt. Lửa được dùng để thử cho biết vàng nào là vàng thực và tinh luyện nó
khỏi mọi vết dơ bẩn. Thuốc tẩy được dùng để tẩy sạch những vết dơ bám vào trong
quần áo. Điều Sứ-giả cần thanh tẩy và tinh luyện chính là tâm hồn con người,
sao cho xứng đáng để có thể đứng vững trong Ngày của Đức Chúa.
Tiên-tri Malachi lên án những lỗi lầm của hàng tư tế vì họ lười
biếng và khinh thường Thiên Chúa trong việc thờ phượng. Đó là lý do tại sao
Thiên Chúa không nhận lễ vật của họ, Ngài sẽ chọn lễ vật trong sạch hơn (Mal
1:1-2:17). Vì thế, đối tượng chính mà tác giả nhắm tới là hàng tư tế Levi và
tâm hồn của họ: “Bấy giờ, đối với Đức Chúa, chúng sẽ là những kẻ đến dâng lễ vật,
theo lẽ công chính. Lễ vật của Judah và của Jerusalem sẽ làm đẹp lòng Đức Chúa
như những ngày xa xưa, như những năm thuở trước.”
1.2/ Tiên-tri Elijah là Sứ-giả dọn đường cho Đấng Cứu Thế: “Này Ta
sai ngôn-sứ Elijah đến với các ngươi, trước khi Ngày của Đức Chúa đến, Ngày trọng
đại và kinh hoàng. Nó sẽ đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu và đưa tâm hồn
con cháu trở lại với cha ông, kẻo khi Ta đến, Ta sẽ đánh phạt xứ sở đã bị án
tru diệt.”
Song song bổn phận của con người đối với Thiên Chúa là bổn phận
của con người đối với tha nhân; nhất là những người trong gia đình. Một khi mối
liên hệ chiều dọc với Thiên Chúa bị lơ là thì mối liên hệ chiều ngang với tha
nhân cũng bị thiệt hại. Sứ-giả dọn đường cho Thiên Chúa cũng phải chú trọng đến
sứ vụ hòa giải giữa con người với con người, trong gia đình cũng như ngòai xã hội.
2/ Bài đọc II: Người đã phải nên giống anh em mình về mọi
phương diện.
Khi Kitô Giáo lan tràn vào thế giới La-Hy, hai vấn nạn khó khăn
Giáo Hội phải đương đầu với là phải giải thích cho người Hy-lạp biết:
(1) Tại sao Thiên Chúa phải nhập thể: Đối với người Hy-lạp,
Thiên Chúa hòan tòan là Thần Khí, nơi Ngài không có một chút vật chất nào cả. Để
được giải thóat và kết hợp với Thiên Chúa, con người phải cố gắng làm sao để
thóat khỏi ngục tù thân xác đang giam hãm linh hồn con người, để chỉ còn thần
khí mà thôi. Kitô Giáo đi ngược lại, Con Thiên Chúa phải nhập thể để cứu chuộc
con người!
(2) Tại sao Thiên Chúa phải chịu đau khổ: Người Hy-lạp và người
Do-thái không tin Thiên Chúa phải chịu đau khổ; chỉ có con người mới phải chịu
đau khổ mà thôi. Một Thiên Chúa phải chịu đau khổ không còn là Thiên Chúa nữa.
Họ lý luận: Nếu Thiên Chúa không có uy quyền để vượt thóat đau khổ, làm sao
Ngài có thể giúp người khác vượt qua đau khổ được? Kitô Giáo cũng đi ngược lại,
không thể có Ơn Cứu Độ nếu con Thiên Chúa không chịu chết trên Thập Giá!
Tác giả Thư Do-thái cố gắng trả lời hai vấn nạn này như sau:
2.1/ Chúa Giêsu phải nhập thể để mang lấy thân phận con người: Để có
thể tiêu diệt tội lỗi và sự chết, Chúa Giêsu phải mang lấy thân xác con người để
có thể chịu chết và đền tội cho con người. Nếu không có thân xác, làm sao chết?
“Vì con cái thì đều chung một huyết nhục, nên Đức Giêsu đã cùng mang lấy huyết
nhục đó. Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây
ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống
trong tình trạng nô lệ. Vì những kẻ được Người giúp đỡ không phải là các thiên
thần, mà là con cháu Abraham.” Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không chết muôn đời; Ngài
đã sống lại vinh quang, và trở nên hoa quả đầu tiên của những người từ trong
cõi chết sống lại. Ngài là “người tiên phong” đi mở đường, để tất cả các anh em
của Ngài cũng được đi con đường đó.
2.2/ Chúa Giêsu phải trở nên con người về mọi phương diện: Tác giả
Thư Do-thái nhận ra sự cần thiết của việc Chúa Giêsu phải trở nên con người về
mọi phương diện, ngọai trừ tội lỗi: “Bởi thế, Người đã phải nên giống anh em
mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín
trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân.” Mục đích của việc “hòan
toàn trở nên con người” là để:
(1) Ngài có thể thực sự được coi là một con người: Đã là con người,
ai cũng phải chịu đựng đau khổ và ngang qua cái chết.
(2) Ngài có thể thông cảm và đồng cảm với thân phận con người: Nếu
một người không ngang qua những kinh nghiệm đau khổ và sự chết, người đó sẽ
không thể hòan tòan hiểu và thông cảm những ai bị ở trong hòan cảnh đó.
(3) Ngòai ra, Ngài có thể giúp đỡ một cách hiệu quả cho những ai
ở trong hòan cảnh đó: “Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên
Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách.”
Nói tóm, Thiên Chúa có uy quyền trên cả sự sống và sự chết. Ngài
có thể cho Con của Ngài nhập thể, chịu đau khổ, ngang qua sự chết, và phục sinh
vinh hiển. Chẳng có gì là không thể đối với Thiên Chúa; chúng ta đừng áp dụng
cách thức suy nghĩ của con người cho Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Các mẫu gương của những người sống theo đường lối của Thiên Chúa.
3.1/ Gia Đình Thánh tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa: Khi đã
đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Moses, bà Maria và ông Giuse đem
con lên Jerusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng:
"Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa," và
cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ
câu non.
3.2/ Ông Simeon tin vào Lời Thiên Chúa hứa và sự thúc đẩy của Thánh
Thần.
(1) Ông Simeon là người công chính và sùng đạo, ông những mong
chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh
Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng
Kitô của Đức Chúa. Được Thánh Thần thúc đẩy, ông lên Đền Thờ.
(2) Lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới, ông ẵm lấy Hài Nhi
trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: "Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời
Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy
ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
là vinh quang của Israel Dân Ngài."
3.3/ Ông Simeon nói tiên tri:
(1) Về con trẻ: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho
nhiều người Israel ngã xuống hay đứng dậy. Cháu còn là mục tiêu cho người đời
chống đối; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra.” Nhiều
người bị ngã xuống hay được đứng dậy là hòan tòan tùy thuộc vào phản ứng của họ
đối với Đức Kitô. Trong cuộc đời của Chúa, người bị ngã xuống là phần đông là
các Kinh-sư và Biệt-phái, vì họ từ chối không tin và luôn tìm cách bắt bẻ và
tiêu diệt Ngài. Những người được đứng dậy là các người thu thuế, gái điếm, và
dân ngọai; tuy bị coi là tội lỗi, nhưng khi được Chúa tỏ lòng thương xót, họ đã
ăn năn và tin vào Ngài.
(2) Về Mẹ Maria: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn
bà." Cuộc đời của Chúa Giêsu là cuộc đời của Mẹ; đau khổ của Con là của Mẹ.
Mẹ Maria đã đồng hành với con từ lúc sinh ra trong máng cỏ cho tới lúc sinh thì
tên Thập Giá.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nhà thờ là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa để bàn chuyện, để
được hướng dẫn, và để lãnh nhận những ơn thánh cần thiết cho cuộc sống con người.
- Chúng ta cần phải chuẩn bị tâm hồn mỗi khi đến nhà thờ để gặp
gỡ Thiên Chúa. Nếu chúng ta đến nhà thờ với một tâm hồn khô khan, vội vã và bất
kính, chúng ta sẽ không thể gặp gỡ Thiên Chúa và lãnh nhận những hồng ân của
Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
02/02/15 THỨ HAI TUẦN 4 TN
Dâng Chúa Giê-su trong đền thánh
Lc 2,22-40
Dâng Chúa Giê-su trong đền thánh
Lc 2,22-40
Suy niệm: Để tưởng niệm và tạ ơn Thiên Chúa về biến cố
Xuất Hành khỏi Ai-cập, luật Mô-sê qui định: “mọi
con trai đầu lòng phải được thánh hiến, dành riêng cho Chúa” (Xh 13,2.12.15). Hài nhi Giê-su là “Người Con Chí Ái” vẫn ngự bên hữu Chúa Cha từ đời đời, được dâng
trong đền thánh để “dành
riêng cho Chúa” nhưng
thực ra Người Con “đã
được ban tặng cho chúng ta” rồi
(x. Is 9,5) mà ngày hôm nay được giới thiệu cho mọi người: bà An-na phấn khởi
đón nhận và vui mừng giới thiệu Hài Nhi cho mọi người (cc. 36-38); còn cụ
Si-mê-on thì cảm thấy mãn nguyện và xin được an bình ra đi (cc. 29-32). Những
gì dâng hiến cho Thiên Chúa đều không bị mất, trái lại được trở nên phong phú
và sinh ích cho nhiều người.
Mời Bạn: Đối
với chúng ta hôm nay, Thiên Chúa không đòi hỏi sự dâng hiến theo Luật Mô-sê,
nhưng Ngài vẫn cần những tâm hồn quảng đại tự nguyện dâng hiến, để qua họ, Ngài
có thể hoàn tất chương trình cứu độ.
Sống Lời Chúa: Người
sống đời tận hiến cho Chúa đúng thực cũng là sống hiến mình cho tha nhân. Người
không sống đời tận hiến thì nâng đỡ và cầu nguyện cho bậc sống đặc biệt này.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, khi dâng con vào Đền Thờ, cha mẹ Hài Nhi đã nhận được
những dấu hiệu không mấy tươi sáng về tương lai của con: điều đó báo trước
những khó khăn của đời thánh hiến; nhưng chúng con cũng tin rằng: phải qua thập
giá mới đến vinh quang. Xin cho những ai đã tra tay cầm cày thì đừng ngoái lại
đàng sau.
Ánh sáng và vinh quang
Để gặp được Chúa trong đời
thường, chúng ta cần có lòng mong ngóng, cần sống đời sống đẹp lòng Chúa và cần
được Thánh Thần mách bảo.
Suy niệm:
“Thứ bốn thì ngắm, Đức Bà
dâng Chúa Giêsu trong đền thánh,
ta hãy xin cho được vâng lời
chịu lụy.”
Đức Mẹ đã muốn giữ Luật Chúa
một cách nghiêm chỉnh.
Luật trong sách Lêvi (12,
2-8) đòi buộc người mẹ 40 ngày sau khi sinh con trai
phải lên đền thờ để được thanh
tẩy và phải dâng lễ vật nữa.
Nếu không đủ khả năng dâng
một con chiên và một bồ câu non
thì phải dâng một cặp bồ câu
non hay một đôi chim gáy.
Ngày nay chúng ta không thể
hiểu tại sao Đức Mẹ phải dâng lễ tạ tội
và phải được thanh tẩy sau
khi sinh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.
Tại sao việc sinh nở lại bị
coi là ô uế?
Dù sao Mẹ Đấng Cứu Thế đã
vâng theo Luật dạy.
Hơn nữa, cùng với thánh
Giuse, Mẹ đã dâng Con cho Chúa trong đền thờ.
Điều này Luật không buộc,
nhưng Mẹ đã làm vì lòng sốt sắng.
Thật ra để chuộc lại con
trai đầu lòng,
chỉ cần trả cho tư tế gần 60
gam bạc (Ds 18, 15-16).
Mẹ sung sướng đem Con lên
đền thờ dâng cho Thiên Chúa
vì hơn ai hết Mẹ biết rằng
Hài Nhi Giêsu này là quà tặng Chúa ban cho mình.
Dâng Con là nhìn nhận Con
mình mãi mãi thuộc trọn về Chúa,
ở với Chúa và làm việc cho
Chúa suốt đời,
dù mình đã chuộc Con về bằng
một số bạc được ấn định theo Luật dạy.
Bài Tin Mừng hôm nay có 4
lần nói đến “Luật” (cc.23.24.27.39).
Về việc giữ Luật, Đức Maria
đã không đòi một ngoại lệ hay đặc ân nào.
Hãy nhìn ngắm Thánh Gia lên
đền thờ.
Một đôi vợ chồng nghèo bồng
một đứa con còn rất nhỏ.
Ai có thể nhận ra đứa bé này
là Đấng Kitô, là ơn cứu độ cho muôn dân?
Đó là cụ Simêon, một người
đạo hạnh, luôn mong chờ điều Chúa hứa.
Hơn nữa cụ là người có Thánh
Thần hằng ngự trên (c.25),
người được Thánh Thần linh
báo (c. 26), và thúc đẩy lên đền thờ (c. 27).
Chính Thánh Thần làm cụ nhận
ra điều mắt thường không thấy,
Và cụ sung sướng, mãn nguyện
bồng Hài Nhi trên tay.
Cụ bà ngôn sứ Anna cũng nhận
ra Đấng Cứu chuộc đến với mình.
Cụ là người đạo đức, ăn chay
cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa.
Cụ bà Anna đã công khai giới
thiệu Hài Nhi cho những người chung quanh.
Để gặp được Chúa trong đời
thường, chúng ta cần có lòng mong ngóng,
cần sống đời sống đẹp lòng
Chúa và cần được Thánh Thần mách bảo.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin nhận lấy trọn cả tự do,
trí nhớ, trí hiểu,
và trọn cả ý muốn của con,
cùng hết thảy những gì con
có,
và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy Chúa, nay con xin dâng
lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa,
xin Chúa sử dụng hoàn toàn
theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Được như thế, con hoàn toàn
mãn nguyện. Amen.
(Kinh dâng hiến của thánh
I-Nhã)
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng
Tâm Hồn Lên
2 THÁNG HAI
Uy Quyền Ẩn Giấu Trong Cái Đơn Sơ
Thiên Chúa, Đấng Tạo Thành của muôn loài, Đấng toàn năng của trời
và đất, Đấng là Vua Vinh Hiển, đã đến trong hình hài một đứa bé nhỏ nhoi. Biến
cố Thiên Chúa vào đền thờ của dân Ngài được bao phủ trong mầu nhiệm của sự yếu
đuối và bất lực. Tuy nhiên, uy quyền của Ngài ẩn giấu trong vẻ đơn sơ và yếu đuối
ấy của một em bé.
Tất cả biến cố này là một mầu nhiệm. Rất tình cờ, ngay chính giữa
mầu nhiệm này, một tiếng nói đã cất lên. Đó là ông già Si-mê-on. Thánh sử Luca
cho biết Thánh Thần hằng ngự trên ông già này (cf. Lc 2, 25).
Nghĩa là, Si-mê-on đã lên tiếng trong tư cách một nhà tiên tri.
Lời ông nói khiến người ta sửng sốt. Ông chúc tụng Thiên Chúa: “Muôn lạy Chúa,
giờ đây, theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt
con được thấy ơn cứu độ mà Chúa đđành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường
cho dân ngoại, là vinh quang của It-ra-en dân Ngài” (Lc 2, 29 – 32).
Kỳ lạ biết bao khi đó là những lời nói về một em bé. Nhưng sấm
ngôn của Si-mê-on hoàn toàn chân thực. Và lời thánh vịnh xưa đã được ứng nghiệm.
Đấng vào đền thờ Giê-ru-sa-lem hôm nay đây chính là ánh sáng và là ơn cứu độ của
toàn thế giới. Ngài đã mang ánh sáng và ơn cứu độ đến trong cung cách như thế đấy.
Ngài chính là Vua Vinh Hiển.
Nhưng, vị vua vinh hiển này sẽ thiết lập triều đại vinh quang của
Ngài trên trái đất bằng cách nào đây? Bằng cách nào đây, em bé Giê-su sinh hạ ở
Bê-lem ấy sẽ trở thành ánh sáng và ơn cứu độ của trần gian? Ông già Si-mê-on đã
trả lời cho những vấn nạn trên khi ông tiên báo: “Cháu bé này sẽ là dấu hiệu
cho người đời chống báng” (Lc 2, 34).
Những lời ấy bộc lộ toàn bộ con đường cứu độ của Đức Kitô từ khi
chào đời cho đến lúc chết trên thập giá. Người là ánh sáng của các dân tộc;
nhưng Người cũng là một dấu chống đối của mọi thời đại, một dấu khơi lên sự thù
địch, sự mâu thuẫn.
Các ngôn sứ của It-ra-en ngày xưa, trước Người, cũng đã từng như
thế. Đó là số phận của Gio-an Tẩy Giả, và cũng sẽ là số phận của bất cứ ai nối
gót theo Người. Giê-su đã thực hiện biết bao dấu lạ lớn lao. Người chữa lành các
bệnh nhân, Người hóa bánh và cá ra nhiều để phân phối cho đám đông dân chúng,
Người truyền cho giông tố im lặng, và thậm chí Người cho kẻ chết được sống lại.
Đám đông tuôn đến với Đức Giêsu từ khắp mọi nơi, họ lắng nghe
Người vì Người giảng dạy với uy quyền. Thế nhưng, Người gặp phải sự chống đối kịch
liệt của những kẻ không chịu mở lòng trí ra để đón nhận Người.
Rốt cục, sự chống đối của người ta leo lên đến tột đỉnh trong cuộc
khổ nạn và cái chết thập giá của Đức Giêsu. Sấm ngôn ngày ấy của ông già Si-mê-on
hoàn toàn ứng nghiệm.
Sấm ngôn ấy ứng nghiệm cho cuộc đời của Đức Giêsu – và ứng nghiệm
cho cuộc đời của các môn đệ Người mọi nơi và mọi thời.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa
Trong Gia Đình
NGÀY 02-02
Dâng Chúa Giêsu Trong Đền Thánh
(Lễ Nến)
Ml 3,1-4; Lc 2,22-40.
LỜI SUY NIỆM: “Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các Ngài
theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và Ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem để tiến
dâng cho Chúa.”
Theo Luật của Mô-sê, mọi chuyện có dính líu đến máu đều bị ô uế
cần phải được thanh tẩy. Đối với chuyện Đức mẹ sinh hạ Chúa Giêsu, Mẹ vẫn trọn
đời Đồng Trinh, nên gia đình Thánh Gia, không bị lệ thuộc vào Luật này. Nhưng với
sự khiêm nhường, ẩn giấu, không làm cớ cho những người chung quanh lên án
sai lầm, đồng thời nêu gương vâng phục, Cả gia đình Thánh Gia đã thi hành
nghi lễ thanh tẩy theo luật định, đồng thời để dâng Hài Đồng Giêsu cho Chúa
Cha.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa và Giáo Hội muốn mọi con cái luôn sống
khiêm nhường và vâng phục. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con thực
hành được hai nhân đức này; và xin cho mọi gia đình công giáo ngày hôm nay luôn
biết đem con trẻ đến nhà thờ để nhận phép Rửa Tội, và dâng con mình cho Đức Mẹ,
để Đức Mẹ gìn giữ chăm sóc như đã nuôi dưỡng Hài Đông Giêsu. Để con trẻ
ngày thêm cao lớn và thêm nhơn đức.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 02-02
ĐỨC MẸ DÂNG CHÚA GIÊSU
trong Đền Thánh
Kể từ cuối thế kỷ IV, Giáo hội Gierusalem đã mừng kính lễ này,
hướng tới việc dâng Chúa Giêsu vào đền thánh và việc thanh tẩy Đức Trinh Nữ.
Giáo hội Hy Lạp và Milanô kể lễ này vào một số lễ trọng kính Chúa, một nghi lễ
chính trong năm. Giáo hội Roma lại thường kể lễ này vào số các lễ Đức Trinh Nữ.
Trong thông điệp về lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria. Đức Phaolô
VI viết: "Lễ mùng 2 tháng 2, được cải tên là lễ "dâng Chúa vào đền
thánh", cũng cần nhắc nhở để hưởng nguồn phong phú lớn lao của ân sủng
Chúa Giêsu và Maria đi song song. Đức Kitô thực hiện mầu nhiệm cứu độ. Maria mật
thiết kết hợp với Chúa chịu khổ hình, để thực hiện một sứ mạng vừa thuộc về Dân
Chúa của Cựu ước, vừa là hình ảnh của Dân Tân ước luôn luôn vị bắt bớ gian khổ,
thử thách đức tin và lòng trông cậy" (Lc 2,21-35) (Marialis Cultur, số
7b).
Sự kiện dâng Chúa Giêsu vào đền thánh và thánh tẩy Đức Trinh Nữ
đã được thánh sử Luca ghi lại (Lc 2,22-39). Sự kiện này nhằm thực hiện những lề
luật đã được ghi rõ trong Cựu ước (Lv 12,8). Theo luật Môisê, phụ nữ sau khi
sanh con thì bị coi là nhơ uế trong 40 ngày nếu sinh con trai và trong 80 này nếu
sinh con gái. Trong những ngày ấy họ không được vào đền thờ và không được chạm
đến vật dụng nào đã thánh hiến cho Thiên Chúa.
Hết những ngày kiêng cữ trên, họ đến đền thờ để được thanh tẩy.
Họ phải mang theo một con chiên nếu là nhà giàu hay hai con chim gáy hoặc bồ
câu non làm của lễ. Ngoài ra để ghi nhớ dịp vượt qua đất Ai cập. Lúc các con đầu
lòng của loài người hay là của loài vật đều phải dâng cho Thiên Chúa (Xh 13,2).
Vậy, trung tín với lề luật, Đức Maria và thánh Giuse "khi đã đầy ngày, lúc
phải làm lễ tẩy uế cho các đấng theo luật Môsê, thì ông bà đem hài nhi lên
Giêrusalem tiến dâng cho Chúa" và các Ngài "dâng làm lễ tế một cặp
chim gáy hay hai con bồ câu" (Lc 2,22-24).
Như vậy sự kiện dâng Chúa Giêsu vào đền thánh diễn ra một cách
bình thường dưới mắt người đời. Nhưng trong lịch sử cứu độ, đây là việc thực hiện
lời tiên báo của tiên tri Malaki: "Thình lình sẽ đến nơi đền thờ của Người,
vị Chúa tể mà các ngươi đòi hỏi, và thần sứ giao ước mà các ngươi ước nguyện,
này vị ấy đến" (Ml 3,1). Chúa đã đến trong đền thờ Người. Bao nhiêu người
đã ngóng chờ biến cố cứu độ này. Nhưng như chính tiên tri Malaki trước tự hỏi:
"Ai chịu đựng nổi ngày Người đến ? Ai đứng vững được khi Người hiện ra
?" (Ml 3,2).
Dĩ nhiên khó ai nhận biết được Thiên Chúa, bởi vì Ngài đã mặc lấy
vóc dáng con người như chúng ta. Phải có sự soi sáng của Thánh Thần mới biết được.
Siméon và Anna là những người công chính và mộ đạo đã được hường đặc ân này. Được
linh cảm, Siméon "đến đền thờ, khi cha mẹ bồng hài nhi Giêsu đến để làm
theo điều lề luật dạy về Người" (Lc 2,27).
Am lấy Hài nhi trên tay, Siméon đã chúc tụng Chúa và nói:
"Mắt tôi đã thấy ơn Người cứu độ,
Người đã dọn sẵn trước mặt muôn dân,
Anh sáng mạc khải cho dân ngoại
và vinh quang của Israel dân Người" (Lc 2,30-32)
Người đã dọn sẵn trước mặt muôn dân,
Anh sáng mạc khải cho dân ngoại
và vinh quang của Israel dân Người" (Lc 2,30-32)
Còn nữ tiên tri Anna, "không rời khỏi đền thánh, thờ Chúa
đêm ngày trong chay kiêng và cầu nguyện. Vào giờ ấy, bà đã đến bên tán tạ Thiên
Chúa và bà đã nói về Ngài cho mọi kẻ ngóng đợi phúc cứu chuộc của
Gierusalem" (Lc 37-38).
Ngày lễ Dâng Chúa Giêsu vào đền thánh còn được gọi là lễ Nến.
Hôm nay Giáo hội làm phép những cây nến và phân phát cho giáo dân. Cầm nến sáng
trong tay và tiến vào thánh đường, mọi người lặp lại Thánh Ca mà tiên tri
Siméon đã hát khi Đức Mẹ và thánh Giuse dâng Chúa Giêsu vào đền thánh. Chúa
Giêsu quả là ánh sáng muôn dân, dẫn lối chúng ta vào trong cung điện Người. Những
"cây nến phép" này sẽ được cất giữ trong các gia đình để dùng vào dịp
lãnh các bí tích sau hết hay để thắp bên thi hài người quá cố trong gia đình.
(daminhvn.net)
02 Tháng Hai
Người Mẹ
Bồng Con
Một buổi trưa hè nóng bức. Những người hành khách trên chuyến
xe đò lặng lẽ nhìn con đường độc điệu. Cái nắng chói chang và cuộc sống buồn tẻ
như giam hãm mọi người trong một thứ thinh lặng nặng nề.
Nhưng ở một trạm dừng nào đó, mọi người bỗng ra khỏi sự thinh lặng
của mình để đưa mắt nhìn về một người thiếu phụ trẻ vừa mới bước lên xe. Chuyến
xe từ từ chuyển bánh trở lại. Người thiếu phụ bắt đầu cười và đùa giỡn với đứa
con thơ dại chị đang bế trên tay. Cử chỉ của người thiếu phụ, tiếng cười hồn
nhiên của đứa bé đã thu hút sự chú ý của mọi hành khách. Trong phút chốc một ngọn
gió mát của hiếu kỳ của liên đới, của tham dự và của chính sức sống đã đem lại
một bầu khí tươi mát cho mọi người. Mọi người như bừng tỉnh từ nỗi thinh lặng của
oi bức, của ngái ngủ. Nơi đây, người ta nghe có tiếng người bắt đầu nói chuyện.
Nơi kia có tiếng người cười. Sự đối thoại như một dòng điện chạy xuyên qua mọi
người. Giờ thì chuyến đi không còn là một cuộc độc hành buồn tẻ nữa.
Trên chiếc xe già cỗi và buông tẻ của thế giới, một người đàn bà
đã bước lên: Tình Yêu và Sự Sống đã bừng dậy. Người đàn bà đó chính là mẹ
Maria. Thế giới bắt đầu đi vào một gia đoạn lịch sử mới kể từ giây phút ấy. Mẹ
đã bước lên chiếc xe cằn cỗi của thế giới cùng với Chúa Giêsu để biến nó trở
thành một cuộc hành trình vui tươi và đầy ý nghĩa.
Thiên Chúa đã không ngừng tạo dựng Mẹ Maria như biểu tượng cao vời
nhất của người đàn bà, của người vợ, của người mẹ, Ngài còn muốn cho chúng ta
nhìn thấy nơi Mẹ con đường lý tưởng, mẫu gương lý tưởng mà môic người phải noi
theo để đạt đến cứu cánh vĩnh cửu.
Mẹ đã sinh ra như mọi người, Mẹ đã lớn lên như mọi người, Mẹ đã
sống cuộc sống con người như mọi người, nghĩa là Mẹ cũng đã trải qua những
tháng năm của buồn vui, của thử thách, của mất mát, cuộc hành trình đó là bởi
vì lúc nào Mẹ cũng sống kết hiệp với Chúa và tin tưởng ở quyền năng Yêu thương
của Ngài. Mang Chúa Giêsu đến cho trần thế, Mẹ đã biến cuộc hành trình buồn tẻ
của thế giới thành một Ðại Lễ của gặp gỡ, của chia sẻ, của hân hoan và tin tưởng.
Từ nay, tuyến đường mà nhân loại đang đi kết thúc bằng một điểm đến rõ rệt là
chính Thiên Chúa.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét