CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG
NIÊN NĂM B
04/10/2015
Kính trọng thể Đức Mẹ Mân côi
04/10/2015
Kính trọng thể Đức Mẹ Mân côi
(phần
II)
Bài
Ðọc I: St 2, 18-24
"Cả hai nên một thân thể".
Trích
sách Sáng Thế.
Chúa
là Thiên Chúa phán: "Ðàn ông ở một mình không tốt. Ta hãy tạo dựng cho nó
một nội trợ giống như nó". Sau khi lấy bùn đất dựng nên mọi thú vật dưới đất
và toàn thể chim chóc trên trời, Thiên Chúa dẫn đến trước mặt Ađam để coi ông gọi
chúng thế nào, và sinh vật nào Ađam gọi, thì chính đó là tên nó. Ađam liền đặt
tên cho mọi súc vật, chim trời và muông thú. Nhưng Ađam không gặp một người nội
trợ giống như mình.
Vậy Thiên Chúa khiến cho Ađam ngủ say, và khi ông đang ngủ, Người lấy một xương sườn của ông, và đắp thịt lại. Thiên Chúa làm cho chiếc xương sườn đã lấy từ Ađam trở thành người đàn bà, rồi dẫn đến Ađam. Ađam liền nói: "Bây giờ đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là người nữ, vì bởi người nam mà ra". Vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể.
Vậy Thiên Chúa khiến cho Ađam ngủ say, và khi ông đang ngủ, Người lấy một xương sườn của ông, và đắp thịt lại. Thiên Chúa làm cho chiếc xương sườn đã lấy từ Ađam trở thành người đàn bà, rồi dẫn đến Ađam. Ađam liền nói: "Bây giờ đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là người nữ, vì bởi người nam mà ra". Vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 127, 1-2. 3. 4-5. 6
Ðáp: Nguyện Chúa chúc phúc cho chúng con hết mọi ngày trong đời sống chúng con! (x. c. 5).
Xướng:
1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa,
bạn nào ăn ở theo đường lối của Người!
Công quả tay bạn làm ra bạn được an hưởng,
bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái,
trong gia thất nội cung nhà bạn.
Con cái bạn như chồi non của khóm ô-liu,
ở chung quanh bàn ăn của bạn.
3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết kính sợ Chúa.
Nguyện Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn,
để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem,
hết mọi ngày trong đời sống của bạn.
4) Và để bạn nhìn thấy lũ cháu đàn con.
Nguyện xin bình an đến trên đất Israel.
1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa,
bạn nào ăn ở theo đường lối của Người!
Công quả tay bạn làm ra bạn được an hưởng,
bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái,
trong gia thất nội cung nhà bạn.
Con cái bạn như chồi non của khóm ô-liu,
ở chung quanh bàn ăn của bạn.
3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết kính sợ Chúa.
Nguyện Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn,
để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem,
hết mọi ngày trong đời sống của bạn.
4) Và để bạn nhìn thấy lũ cháu đàn con.
Nguyện xin bình an đến trên đất Israel.
Bài Ðọc II: Dt 2, 9-11
"Ðấng thánh hoá và những người được thánh hoá, tất cả đều
do một nguồn gốc".
Trích
thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh
em thân mến, Ðấng trong một thời gian bị hạ xuống kém các Thiên Thần, là Ðức
Giêsu, chúng ta thấy Người được triều thiên vinh quang và danh dự vì cuộc tử nạn
của Người, để nhờ ơn Thiên Chúa, Người chịu chết thay cho mọi người. Quả vậy,
thật là thích hợp việc Chúa là nguyên nhân và cùng đích mọi vật, đã dẫn đưa nhiều
con cái đến vinh quang và đã lấy cuộc khổ nạn mà làm cho Ðấng đem lại ơn cứu rỗi
được hoàn hảo. Vì chưng, Ðấng thánh hoá và những người được thánh hoá, tất cả đều
do một nguồn gốc. Vì thế, Người không hổ thẹn gọi họ là anh em.
Ðó
là lời Chúa.
Alleluia: Ga 17, 17
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật". - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 10, 2-12
"Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi
ấy, những người biệt phái đến gần và hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Người ta có
được phép ly dị vợ mình chăng?" Người đáp: "Môsê đã truyền cho các
ông thế nào?" Họ thưa: "Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị".
Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại: "Chính vì sự cứng lòng của các ông, mà Môsê đã
viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên
một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ
mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Như thế, họ không còn là hai mà là một
huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".
Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: "Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng và lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình".
{Bấy giờ người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ. Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó". Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng.}
Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: "Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng và lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình".
{Bấy giờ người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ. Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó". Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng.}
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm: Hãy Sống Khắng Khít
Chúa
Nhật XXVII Thường Niên Năm B
Khởi
nguyên 2,18-24; Hipri 2,9-11; Marcô 10,2-16
Trong
các Chúa nhật thường niên, phụng vụ thường đọc cho chúng ta nghe một cách liên
tiếp các đoạn chính yếu trong một sách Tin Mừng. Năm nay, chúng ta đọc sách Tin
Mừng theo thánh Marcô, và lần trước chúng ta đã đọc xong chương 9 thì hôm nay
chúng ta bắt đầu nghe sang chương 10, mà chúng ta sẽ đọc tiếp trong các Chúa nhật
sau.
Rồi
để làm sáng tỏ bài Tin Mừng, phụng vụ chọn một đoạn Cựu Ước có khả năng hướng
lòng chúng ta về mạc khải của Ðức Yêsu để chúng ta thấy chính Người đã đến
không phải để xóa bỏ nhưng để kiện toàn và hoàn tất luật cũ hay đạo cũ và mọi lời
tiên tri trong Cựu Ước. Chẳng hạn hôm nay bài sách Khởi nguyên đã được chọn vì
bài Tin Mừng. Ðức Yêsu đã gợi lại một câu trong sách Khởi nguyên, thì phụng vụ
đọc cho chúng ta nghe chính đoạn sách ấy để giúp chúng ta dễ hiểu lời Tin Mừng
hơn. Ðồng thời chúng ta cũng sẽ thấy chính Ðức Yêsu sẽ làm cho bài sách Khởi
nguyên thêm giá trị.
Cuối
cùng bài Thánh Thư được chọn để dạy chúng ta biết sống đạo một cách cụ thể,
theo như các tông đồ đã chỉ bảo cho giáo dân của các ngài. Không tất nhiên tư
tưởng bài Thánh Thư phải ăn khớp với bài Tin Mừng. Phụng vụ thường chỉ muốn đọc
cho chúng ta nghe hết thư này sang thư khác. Chẳng hạn lần trước chúng ta đã đọc
hết thư Yacôbê, thì kể từ Chúa nhật này và liên tiếp trong nhiều Chúa nhật thường
niên sau này chúng ta được nghe đọc thư Hipri, nói rằng của thánh Phaolô nhưng
có lẽ chỉ là của một tác giả hoặc môn đệ thân cận của ngài và thấm nhiễm tinh
thần của ngài. Ðoạn thư trích hôm nay không liên ý trực tiếp với giáo huấn của
bài Tin Mừng và bài sách Khởi nguyên. Nhưng tuy nói về những vấn đề khác nhau,
cả ba bài Kinh Thánh vẫn bổ túc làm cho huấn giáo của Chúa nhật này thêm phong
phú.
Chúng
ta sẽ thấy bài Tin Mừng và bài sách Khởi nguyên nói đến nỗi an ủi mật thiết
trong tương quan giữa người nam và người nữ. Nhưng sánh sao được với niềm an ủi
và thắm thiết giữa Ðức Kitô và môn đệ Người, mà bài thư Hipri hôm nay gợi lên?
Chúng ta hãy lần lượt đọc lại những bài Thánh Kinh ấy.
1.
Nam Nữ Là Một
Bài
sách Khởi nguyên hôm nay là một trong những bản văn rất quý hóa trong kho tàng
tư tưởng của loài người. Người ta chỉ có thể chê khi đọc hời hợt và tưởng rằng
bản văn đó mới được viết ngày hôm qua, ở giữa thời đại khoa học này. Ngược lại,
nếu nhớ rằng nó đã khai sinh cách đây vào khoảng ba nghìn năm và do một ngọn
bút ở một dân tộc ít văn hóa, người ta sẽ phải kinh ngạc và tự hỏi làm sao tác
giả có thể viết ra những tư tưởng thâm thúy như vậy. Có cả một kho tàng khôn
ngoan, tâm lý và sáng suốt trong những lời văn này.
Con
người được mô tả như là một hữu thể cần hiệp thông và thông cảm. Nó không thể sống
cô đơn cho dù đang ở giữa một cảnh bồng lai tiên cảnh như nơi địa đàng. Nó cũng
không thể thỏa mãn với sự bầu bạn của mọi thứ động vật. Tác giả thật khéo ám chỉ
loài người và loài vật cũng chỉ là một giống động vật khi ông nói Adong nhìn
các giống vật và thấy chúng đều là "sinh vật", nghĩa là cũng giống
như ông là loài có sinh khí. Tuy nhiên lập tức ông cũng nhận ngay ra địa vị
"linh ư vạn vật của mình" khi tác giả viết: Adong đặt tên cho từng loài,
để tỏ ra địa vị ưu việt của ông... "Nhưng con người vẫn không gặp được sự
trợ giúp nào tương đối". Adong chưa tìm được vật nào giống như mình để cảm
thông và làm đầy đời sống cho mình. Nói cách khác, ông cảm thấy chưa đầy đủ dù
có cả vũ trụ và vạn vật ở dưới quyền. Ông muốn và cần có một ai như mình nhưng
lại khác mình và bổ khuyết cho mình.
Thượng
đế đã can thiệp. Thiên Chúa không để con người cô đơn. Tác giả sách Thánh dùng
hình ảnh bình dân để diễn tả sự can thiệp này. Yavê đưa Adong vào một giấc hôn
mê, Người rút một xương sườn của ông, lắp thịt vào, làm ra người nữ và đem giới
thiệu với ông. Vừa nhìn thấy, Adong đã kêu lên: phen này, nàng là xương tự
xương tôi, thịt tự thịt tôi, nàng là Ishsha: (đàn bà) vì đã được rút ra từ Ish:
(đàn ông).
Rõ
ràng tác giả đã xây dựng hình ảnh từ "nguyên tự" và từ quan niệm bình
dân lấy sự giống nhau về xương thịt để nói lên sự giống nhau về bản chất. Tức
là tác giả muốn khẳng định đàn bà cũng là "người" như đàn ông và giữa
nam nữ có một sự mật thiết bù đắp cho nhau. Tư tưởng của ông tiến bộ hơn người
đồng thời rất xa, vì sau ông nhiều thế kỷ, ở nhiều nơi người ta vẫn chưa nhìn
nhận sự bình đẳng và đồng loại giữa nam và nữ. Và với câu sau, "người đàn
ông sẽ bỏ cha mẹ và khắng khít với vợ mình và chúng sẽ nên một thân xác",
ông làm cho độc giả thấy tình gia đình phu phụ keo sơn đến mức nào.
Dù
sao cách nói của ông vẫn có nhiều hình ảnh và có thể làm người ít học lấy hình ảnh
làm thực tại. Họ đâu có biết sách Khởi nguyên ở đoạn trước đã viết về nam nữ
như sau: "Thiên Chúa đã dựng nên loài người theo hình ảnh mình. Là nam là
nữ, Người đã dựng nên chúng". Vậy, điều mà ở đây tác giả nói một cách đơn
sơ, tổng hợp nhưng vẫn đề cao sự bình đẳng và đồng loại giữa nam và nữ, thì ở
chương sau ông đã dùng hình ảnh để nói lên một cách dễ hiểu hơn. Chúng ta quý cả
hai lối trình bày và sung sướng được nghe nói đến những nét thâm thúy nơi con
người.
Tuy
nhiên ở đây phụng vụ không muốn lưu ý chúng ta về việc nam nữ đồng loại và bình
đẳng cho bằng việc họ thu hút nhau, bù đắp cho nhau và khắng khít với nhau, để
dẫn chúng ta sang bài Tin Mừng.
2.
Không Ðược Ly Dị
Chúng
ta không hiểu rõ hoàn cảnh vì sao các Biệt phái lại chọn vấn đề rẫy vợ để thử Ðức
Yêsu. Họ muốn thử gì? Ðể xem ý kiến của Người về vấn đề ly dị ư? Không chắc ở
thời đó vấn đề có sôi bỏng như ở thời ta không, cho dù luật Rôma bấy giờ cũng
cho ly dị và tâm tư đạo đức của người Dothái có vẻ không rõ ràng. Ðúng hơn, họ
muốn gài bẫy Người, để xem Người có kính trọng luật Môsê không? Nhưng luật này
nói thế nào? Họ chỉ có thể trích được một câu trong sách Thứ luật (24,1) cấm lấy
lại một người đàn bà đã bị rẫy và nói đến việc viết ly thư, chớ không có chỗ luật
nào nói rõ về việc được phép ly dị... Chính các Biệt phái cũng phải nhận rằng
Môsê chỉ cho phép viết ly thư chứ không ra lệnh phải làm việc này. Dựa vào chỗ
đó, Ðức Yêsu làm cho họ hiểu rằng: vì lòng dạ lì lợm của họ mà Môsê đã phải cho
phép như vậy. Ðó là một nhượng bộ bất đắc dĩ, không thể kéo dài mãi mãi. Nước
Thiên Chúa đã đến rồi; con người phải dùng sức mạnh mà vào; người ta phải trở về
với Thiên Chúa và lệnh truyền của Người. Thế mà từ nguyên thủy nam nữ đã khắng
khít với nhau và đàn ông đã bỏ cả cha mẹ mình để nên một thân thịt với bạn
mình. Ðức Yêsu giải thích việc đó là ý của Thiên Chúa muốn phối hợp hai người lại
với nhau, và không ai được phép phân ly nữa. Về nhà, Người còn dạy rõ: không ai
được rẫy vợ mình để cưới vợ khác. Ai làm như vậy sẽ phạm tội ngoại tình.
Thánh
Marcô không nói đến phản ứng của Biệt phái khi nghe Ðức Yêsu trả lời, vì đứng về
quan điểm luật họ còn biết nói gì nữa? Nhưng đối với con người thời nay, có lẽ
phán quyết của Người còn cần được tìm hiểu thêm. Người ta có thể đưa ra ý kiến
này, ý kiến khác về vấn đề ly dị. Phụng vụ hôm nay chỉ xin chúng ta suy nghĩ về
bài sách Khởi nguyên và đoạn Phúc Âm hôm nay để thấy việc vợ chồng khắng khít với
nhau là một cái gì nằm sâu trong bản chất nam nữ mà Thiên Chúa đã dựng nên từ
nguyên thủy. Ðó là ý muốn của tạo hóa và của bản tính con người. Nếu điều này
có lúc khó chấp nhận, thì chúng ta hãy đọc tiếp đoạn Phúc Âm trên.
Thánh
Marcô nói đến việc Ðức Yêsu yêu quý trẻ nhỏ và dạy chúng ta phải đón lấy Nước
Trời như một trẻ nhỏ. Câu nói này có thể có hai nghĩa. Hoặc là người ta phải
đơn sơ như trẻ nhỏ khi đón nhận Nước Trời, không xét nét, không do dự vì trẻ nhỏ
cho gì chúng cũng lấy. Hoặc là người ta phải coi Nước Trời như hồng ân tốt đẹp,
tinh sạch mà người ta phải đón lấy như đón một trẻ nhỏ. Bất cứ hiểu theo nghĩa
nào, người ta cũng có thể dùng Lời Chúa nói đây để giúp mình chấp nhận luật
không ly dị nói trên, vì rõ ràng đấy là ý Chúa, là Nước Trời đến với chúng ta
mà chúng ta phải đón lấy như trẻ nhỏ. Chúng ta cũng có thể dùng bài Thánh Thư để
khuyến khích mình thêm vì tác giả thư Hipri, tuy nói đến một vấn đề khác, nhưng
cũng sẽ chỉ muốn chúng ta bắt chước Chúa mà có tinh thần hòa hợp.
3.
Hãy Sống Khắng Khít
Tác
giả nhắc lại việc Ðức Yêsu đã ngang qua thống khổ tử nạn mà được vinh quang huy
hoàng. Trong chốc lát và theo một diện nào đó Người đã tỏ ra như thua các Thiên
Thần vì hình dạng khổ nạn của Người. Nhưng đó là ý nhiệm mầu của Thiên Chúa.
Người muốn Ðức Kitô phải chịu khổ đau như vậy để kiện toàn bản chất con người
chúng ta. Người muốn hướng dẫn số đông nhân loại lên phúc vinh quang nên đã
dùng thống khổ hạ Ðức Kitô xuống thân phận tôi đòi tội lỗi như mọi người để khi
Người được triều thiên ban tặng thì cả nhân loại được chia phần vinh quang của
Người.
Như
vậy, ở đây tác giả thư Hipri đã nhấn mạnh đến sự khắng khít giữa Ðức Kitô và
loài người trong mầu nhiệm tử nạn phục sinh. Có thể nói vì muốn được loan báo
Danh Chúa cho anh em và ngợi khen Thiên Chúa giữa cộng thể loài người mà Ðức
Kitô đã phải đồng hóa và nên một với loài người trong đau khổ. Người không để lại
cho chúng ta một tấm gương khắng khít hòa hợp và hiệp nhất sao? Người đang kêu
gọi chúng ta không những kết hiệp bất khả phân ly với Người mà còn với nhau nữa.
Người đang khuyến khích riêng các gia đình đang gặp khó khăn đó.
Mầu
nhiệm Thánh Thể của Người mà chúng ta cử hành bây giờ thật sự nói lên điều này.
Ðức Kitô chấp nhận sự chết là hình phạt của mọi người để đưa mọi người lên phúc
vinh quang. Người kêu gọi chúng ta mật thiết kết hợp với Người. Và đồng thời
Người sẽ thêm cho chúng ta sức mạnh kết hợp với nhau như các chi thể trong một
thân thể. Với ơn của Người, chúng ta sẽ lướt thắng mọi khó khăn trong tương
giao xã hội và đặc biệt trong quan hệ gia đình, để khi mến Chúa nhiều, chúng ta
cũng đoàn kết yêu thương nhau nhiều, không phải chỉ bằng cảm tình và lời nói hoặc
lời cầu nguyện, mà bằng việc làm, hy sinh, cố gắng; như vậy đạo tốt sẽ làm đẹp
đời. Và chúng ta sẽ thấy đời người thật đáng sống khi có ơn Chúa.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ
Nhật 27 Thường Niên,
Năm B
Bài
đọc:
Gen 2:18-24; Heb 2:9-11; Mk 10:2-16.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lý tưởng của Thiên Chúa và khuyết điểm của con người.
Khi
Thiên Chúa truyền cho con người làm điều gì, con người có thể hay có khả năng
làm điều đó; vì Ngài không thể truyền cho con người làm điều gì họ không thể
làm. Có nhiều lý do khiến con người không làm điều Thiên Chúa truyền: (1) Con
người không muốn làm điều Thiên Chúa truyền, mà chỉ muốn làm điều con người muốn,
vì nó phù hợp với con người hơn. (2) Con người có khả năng làm; nhưng không chịu
cố gắng làm vì lười biếng, sợ khó khăn, sợ gian khổ, hay sợ chết. (3) Có những
điều con người chỉ có thể làm được với ân sủng Thiên Chúa ban qua các Bí-tích.
Các
Bài Đọc hôm nay đặt trọng tâm trong sự trung thành của ơn gọi gia đình, điều mà
nhiều người cho là không thể thực hiện được. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sáng
Thế xác nhận ơn gọi hôn nhân nằm trong kế-hoạch của Thiên Chúa cho con người
ngay từ đầu. Thiên Chúa không muốn cho con người sống đơn độc một mình; nhưng
muốn con người có một người bạn đồng hành. Ngài đã dùng một xương lấy ra từ cạnh
sườn con người, và lấp đầy thịt vào để tạo nên người đàn bà. Ngài dẫn người đàn
bà đến trước mặt người đàn ông, và người đàn ông đã nói: "Này đây là xương
bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ
đàn ông ra." Họ là cặp vợ chồng đầu tiên; và từ đó đến nay, các đàn ông
lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một thịt. Trong Bài Đọc II, sức
mạnh và ơn thánh giúp con người có thể làm điều Thiên Chúa truyền đến từ Đức
Kitô. Qua Cuộc Thương Khó và cái chết của Ngài, con người được tha tội và thánh
hóa nhờ các Bí-tích Đức Kitô đã thiết lập. Con người phải xử dụng nguồn năng lực
này, để có thể sống theo Lề Luật của Thiên Chúa và những lời dạy dỗ của Đức
Kitô. Trong Phúc Âm Marcô, khi mấy Biệt-phái đến hỏi thử Chúa Giêsu về việc có
được ly dị vợ không; dù Chúa Giêsu biết Moses cho phép ly dị vì sự cứng lòng của
dân chúng, Ngài vẫn xác quyết ý định của Thiên Chúa khi dựng nên con người ngay
từ thuở ban đầu là không được. Lý do: "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài
người không được phân ly."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Giao ước hôn nhân nằm trong ý định của Thiên Chúa ngay từ đầu.
1.1/
Ý định của Thiên Chúa cho con người: Đây là trình thuật thứ hai về việc tạo dựng; tác giả
chú trọng đặc biệt đến sự kết hiệp giữa người nam và người nữ trong ơn gọi gia
đình.
+
Thiên Chúa không muốn con người ở một mình: Trước tiên chúng ta cần chú ý: đây
là thánh ý của Thiên Chúa, chứ không phải do ý con người muốn. Con người đầu
tiên không than phiền Thiên Chúa vì không có đàn bà; nhưng chính Thiên Chúa nhận
ra con người ở một mình là không tốt. Thiên Chúa muốn tìm cho con người một
"trợ giúp tương xứng với nó."
+
Chữ người trợ giúp (bôêthos trong LXX, và hêzer trong
MT) cũng gây ra nhiều bàn cãi. Có người cho đàn bà chỉ là người trợ giúp của
đàn ông; vì thế, các bà không bao giờ được coi là ngang hàng với các ông. Cách
cắt nghĩa này không có cơ sở, vì Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần cũng được gọi là
Đấng Trợ Giúp con người. Các Ngài phải có uy quyền hơn thì mới trợ giúp con người
được.
+
Khó khăn không ở chỗ dùng danh từ người "trợ tá, bạn đồng hành;"
nhưng ở chỗ cắt nghĩa cho đúng giới từ trong tiếng Do-thái (kenegdô) và
Hy-lạp (kat' auton). Bản Việt-nam của Nhóm PVCGK dịch tương đối sát
nghĩa là "tương xứng hay thích hợp;" nhưng tương xứng theo ý nghĩa
nào: cách thể lý, trí tuệ, luân lý, hay tinh thần.
1.2/
Tìm một "trợ tá tương xứng" cho con người:
(1)
Thiên Chúa thử các thú vật trước: ''Đức Chúa là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi
dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì:
hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế. Con người đặt tên
cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được
cho mình một trợ tá tương xứng.'' Loài vật cho dù có nhiều điểm thích hợp với
con người như đẹp đẽ, hiền lành, dễ thương, trung thành; nhưng không thể nào so
sánh với con người. Việc đặt tên theo truyền thống Do-thái có nghĩa người đặt
tên có quyền trên người bị đặt tên.
(2)
Thiên Chúa tạo dựng đàn bà: ''Đức Chúa là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống
trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con
người ra, và lắp thịt thế vào. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút
từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người.''
(3)
Phản ứng của người đàn ông: Con người nói: "Phen này, đây là xương bởi
xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn
ông ra." Ông nhận ra ngay nàng là một phần của thân thể mình. Ông muốn sống
gắn bó với nàng hơn bất kỳ ai khác. Trình thuật kết thúc với kết luận: ''Bởi thế,
đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một thịt.''
2/
Bài đọc II:
Đức Giêsu trải qua gian khổ để dẫn đưa con người tới nguồn ơn cứu độ.
2.1/
Đức Kitô trải qua Cuộc Thương Khó để đền tội cho con người: Bản dịch của PVGK
có thể gây hiểu lầm khi dùng chữ "con người;" bản Hy-lạp nói rõ là
Chúa Giêsu: ''Nhưng Chúa Giêsu đã bị hạ thấp hơn các thiên thần trong một thời
gian ngắn, thì chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ
triều thiên, bởi vì Ngài đã cam chịu tử hình: Con Người đó, chính là Đức Giêsu.
Thật vậy, Đức Giêsu đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ
ơn Thiên Chúa.''
Để
con người đạt được ơn cứu độ, trước tiên, Chúa Giêsu phải gánh tội và hình phạt
cho con người, bằng cách chấp nhận đau khổ qua Cuộc Thương Khó của Ngài. Một
khi đã được tha tội, con người được hòa giải với Thiên Chúa.
2.2/
Đức Kitô không chỉ tha tội; nhưng còn thánh hóa con người: Tác giả Thư Do-thái
xác quyết điều này: ''Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, và những ai được
thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh
em.'' Mặc dù Chúa Giêsu đã gánh tội và ơn cứu độ giờ đây là của con người; nhưng
họ vẫn phải chứng minh cho Thiên Chúa niềm tin vào Đức Kitô bằng cuộc sống chứng
nhân; chẳng hạn, trung thành trong ơn gọi gia đình, tu sĩ, hay linh mục. Để có
sức mạnh làm những điều này, Đức Kitô thiết lập các Bí-tích.
Nhiều
người ngày nay đã quên hay không biết sự cần thiết của các Bí-tích trong cuộc đời;
nhất là hai Bí-tích: (1) Thánh Thể: Đây là Bí-tích ban sức mạnh để con người có
thể đương đầu với các cám dỗ, khó khăn, và thử thách trong cuộc đời. (2) Hòa Giải:
giúp con người nhận ra các tội lỗi mình đã xúc phạm đến Thiên Chúa và đến tha
nhân; đồng thời nó cũng giúp con người dễ thông cảm, tha thứ, và giải quyết các
xung đột trong đời sống gia đình.
3/
Phúc Âm:
Vấn đề ly dị và có con.
3.1/
Yếu đuối của con người: Có
mấy người Pharisees đến gần Đức Giêsu và hỏi rằng: "Thưa Thầy, chồng có được
phép rẫy vợ không?" Họ hỏi thế là để thử Người.
(1)
Luật của Moses: Chúa Giêsu hỏi: "Thế ông Moses đã truyền dạy các ông điều
gì?" Họ trả lời: "Ông Moses đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ."
Đức Giêsu nói rõ lý do có luật này của Moses:: "Chính vì các ông lòng chai
dạ đá, nên ông Moses mới viết điều răn đó cho các ông.''
(2)
Tại sao Giáo Hội cho phép ly dị, nếu đó là Luật Thiên Chúa? Chúng ta cần phân
biệt hai điều: Thứ nhất, lý tưởng mà Thiên Chúa muốn con người đạt tới. Lý tưởng
này không bao giờ thay đổi; và thực tế cũng chứng minh nhiều người đã đạt tới
lý tưởng này. Nhiều cặp vợ chồng đã trung thành với nhau đến khi chết, dù phải
trải qua bao gian khổ. Thứ hai, yếu đuối và tội lỗi làm con người không đạt tới
lý tưởng của Thiên Chúa. Khi con người không đạt được lý tưởng, không có nghĩa
là lý tưởng của Thiên Chúa muốn không thể thực hiện được, hay Lề Luật của Thiên
Chúa sai; nhưng con người phải khiêm nhường thống hối vì yếu đuối tội lỗi của
mình. Hội Thánh gỡ dây hôn phối là vì những tội lỗi, yếu đuối, và cứng lòng của
con người. Có nhiều lý do để gỡ; một cách tổng quát là không chịu học hỏi hay
coi thường Bí-tích Hôn Phối như:
-
Cha mẹ ép buộc con cái phải lấy người chúng không muốn, vì cha mẹ tham quyền
cao, chức trọng, hay lợi nhuận vật chất. Trường hợp này, con cái thiếu tự do để
kết hôn.
-
Con người kết hôn bừa bãi: Đa số trường hợp Giáo Hội giải quyết là trường hợp
"lack of form," có nghĩa: không theo Lề Luật của Giáo Hội, không
thành Bí-tích. Chẳng hạn, làm hôn thú giả vì muốn xuất ngoại, vì tham tiền, hay
vì bất cứ lý do nào khác.
-
Vợ chồng không chịu tìm hiểu nhau kỹ lưỡng trước khi kết hôn: lấy người đã có
gia đình, lấy người bị ngăn trở không được kết hôn, lấy người không cùng tôn
giáo.
-
Vợ chồng không sống đức tin và không chịu lãnh nhận ơn thánh từ các Bí-tích:
Làm sao có khôn ngoan, sức mạnh để vượt qua khó khăn trong cuộc sống?
-
Con người không có sức chịu đau khổ: Trường hợp của những người bị người phối
ngẫu ly dị. Với ơn thánh, con người có thể vượt qua sự cô đơn và những đòi hỏi
của thân xác.
3.2/
Vấn đề với con trẻ: Người
ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ
la rầy chúng. Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: "Cứ để trẻ em đến
với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như
chúng. Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một
trẻ em, thì sẽ chẳng được vào." Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay
chúc lành cho chúng.
Một
vấn đề khó khăn nữa mà các vợ chồng ngày nay hay than phiền là không muốn có
con, hay chỉ muốn có 2, 3 con; một số lý do họ nêu ra:
(1)
Sợ con trẻ gây phiền hà: Đây là lý do các môn đệ sợ ngăn cản chúng đến với Chúa
Giêsu. Người lớn hôm nay sợ trẻ con hàn nhà làm họ phải thu dọn tối ngày, sợ
con trẻ ồn ào làm mất sự yên tĩnh, sợ chúng khóc đêm làm mất giấc ngủ, sợ chúng
phá phách làm hư hại đồ dùng trong nhà.
(2)
Sợ phải săn sóc con trẻ: Con trẻ không tự săn sóc chúng, mà chỉ trông cậy hoàn
toàn vào người lớn. Nhiều cặp vợ chồng sợ phải tốn thời gian để chăm sóc trẻ em
sẽ không còn giờ lo cho bản thân họ.
(3)
Những ngụy biện của con người ngày nay để không có nhiều con trẻ: Sinh nhiều
quá lấy chỗ đâu mà sống; khả năng tài chánh không có để lo cho con; sợ con trẻ
hư, nên thà đừng có tốt cho chúng hơn.
Đàng
sau những lý do này là chủ nghĩa cá nhân và tính ích kỷ. Con người hôm nay sợ
phải tốn thời gian săn sóc và dạy dỗ con trẻ, sẽ không còn giờ để săn sóc mình
và đi đây đó. Họ sợ sinh con vóc dáng sẽ xấu đi. Họ sợ tốn tiền cho con sẽ
không còn thời giờ lo cho mình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Khi Thiên Chúa truyền chúng ta làm điều gì, chúng ta có khả năng làm chuyện đó.
Chúng ta cần phải tin tưởng và làm theo những gì Chúa dạy, tập luyện để sống
nhân đức, và tận dụng các ơn thánh Thiên Chúa ban qua các Bí-tích.
-
Chúng ta cần học hỏi để biết cách lãnh nhận và hiệu quả của các Bí-tích mang lại;
nhất là phải biết thường xuyên lãnh nhận các Bí-tích mỗi khi có thể.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
Suy niệm : Bất khả phân ly
Bọn
Biệt phái hôm nay đưa vấn đề ly dị ra hỏi Chúa Giêsu, không phải là để có thêm
kiến thức hay tranh thủ ý kiến của Ngài, nhưng là để giăng bẫy gài Ngài. Một
cái bẫy không kém phần thâm độc. Họ chọn đúng lúc có đông đảo dân chúng tụ tập
xung quanh Chúa Giêsu để đòi buộc Ngài phải bày tỏ rõ lập trường. Uy tín của
Ngài sẽ tùy thuộc vào cách giải quyết của Ngài. Mà theo những người Biệt phái,
Chúa Giêsu sẽ không dễ gì thoát được cạm bẫy của họ. Nếu trả lời được phép, thì
Ngài sẽ đi ngược lại lề luật của Thiên Chúa. Còn nếu trả lời không được phép,
thì Ngài sẽ vi phạm điều Maisen qui định.
Thế
nhưng Chúa Giêsu đã vạch trần âm mưu của bọn Biệt phái bằng cách kéo họ về với
điều Thiên Chúa muốn người ta thực hiện. Chúa Giêsu đã gợi lại: Khởi đầu cuộc
sáng tạo con người, Thiên Chúa dựng nên người nữ, để làm vợ của người nam,
nghĩa là làm người bạn đường, bình đẳng với người nam…
Để
diễn tả ý tưởng này, Kinh Thánh cho thấy Thiên Chúa đã dựng nên người nữ, không
phải bằng bụi đất, mà bằng chính xương thịt của người nam. Và trong quan niệm của
người Do Thái, thì lồng ngực được cấu tạo bởi bộ xương sườn đó chính là trung
tâm của sự sống con người. Như thế, giữa người nam và người nữ, giữa người vợ
và người chồng, có một mối quan hệ mật thiết với nhau, quan hệ xương máu, quan
hệ cuộc sống. Và trong ý định của Thiên Chúa, nam và nữ, vợ và chồng được tạo dựng
để trở nên một huyết nhục. Do đó mà điều gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người
không được phân ly.
Nhưng
trong thực tế, Maisen đã cho phép ly dị. Theo Chúa Giêsu, thì việc làm của
Maisen không có tính cách qui định về một lý tưởng phải theo đuổi, mà chỉ là một
nhượng bộ bởi sự cứng lòng của người Do Thái. Thay vì thực hiện lý tưởng của khởi
đầu cuộc sáng tạo, nghĩa là coi vợ mình như một người bạn đường, như một phần của
cuộc sống mình, thì người ta đã coi vợ mình như là một phương tiện thỏa mãn những
ước muốn ích kỷ, để rồi sẽ dẫy bỏ khi không cần thiết.
Sự
ích kỷ đó đã phổ biến đến nỗi Maisen phải nhượng bộ, nhằm giải quyết sự yếu đuối
của con người cùng thời với ông, đồng thời nó còn phản ảnh cho một quan niệm
hôn nhân thời bấy giờ: Người vợ không được nhìn nhận là bình đẳng với người chồng.
Ngoài
ra, có lẽ cũng nhằm sửa đổi cái nhìn của người ta về con người trong xã hội, mà
ở đây Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ thái độ phải có đối với các trẻ nhỏ, vì trẻ
nhỏ chính là mẫu mực cho những ai muốn vào nước Thiên Chúa. Mẫu mực ở sự đơn sơ
vô tội đã đành, mà còn mẫu mực ở thái độ sẵn sàng đón nhận với tất cả sự chân
thành.
Đoạn
Tin Mừng vừa nghe thường được xử dụng trong lễ cưới, và câu nói của Chúa Giêsu:
Sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân ly, vốn được coi là nền tảng
cho sự bền vững của gia đình Công giáo. Thế nhưng chúng ta đừng vội hiểu việc
Thiên Chúa liên kết theo một ý nghĩa hoàn toàn pháp lý hay nghi lễ. Vợ chồng kết
hợp với nhau không phải bằng một nghi lễ, mà bằng chính sự tôn trọng lẫn nhau,
đặt mình trong kế hoạch tạo dựng của Thiên Chúa, bằng sự trở nên một huyết nhục,
qua hành động, qua tình cảm, qua cuộc sống thường ngày, qua sự chọn lựa diễn ra
trong từng giây từng phút.
Bởi
đó, hãy sống việc Thiên Chúa liên kết hơn là coi đó chỉ là một nghi lễ có tính
cách pháp lý mà thôi.
Kính trọng thể Đức mẹ Mân Côi
Mc 10, 2 - 16
1.Ghi Nhớ:“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không
được phân ly” ( Lc10,9)
2.Suy Niệm: Hôn nhân là một giao ước tình yêu giữa người nam
và người nữ, được Thiên Chúa thiết lập ngay từ buổi đầu tạo dựng. Chúa Giêsu
hôm nay một lần nữa xác quyết luật hôn nhân là đơn hôn và vĩnh viễn, nghĩa là
chỉ một vợ, một chồng và không thay đổi, không ly dị. Ai tự ý huỷ bỏ giao ước
hôn nhân là vi phạm luật Chúa. Là người kitô hữu, hôn nhân là một ơn gọi, là
con đường nên thánh. Vì vậy, chúng ta cần phải ý thức và trân trọng những giá
trị cao quý của đời sống hôn nhân, và cố gắng chăm lo tạo lập gia đình thánh
thiện.
3.Sống
Lời Chúa: Biết quý trọng ơn gọi hôn nhân gia đình.
4.Cầu Nguyện: Lạy Chúa, xin chúc phúc cho mỗi gia đình, cách riêng gia đình kitô
hữu chúng con, để chúng con luôn trung thành và chung thuỷ với nhau suốt đời.
Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4 THÁNG MƯỜI
Thánh Phanxicô Assisi, Một Kiến Trúc Sư Của Hoà Giải
Khuôn mặt Thánh Phanxicô Assisi đem lại cho cuộc
hành trình nhân loại của chúng ta một sắc thái Kitô giáo. Ngài tranh thủ ơn
phúc hòa bình của Phúc Aâm, và qua đó ngài giúp những tâm hồn ly cách được hòa
giải với Giáo Hội và xã hội.
Lối sống nghèo của Asissi thật vô cùng phong phú giữa
những nẻo đường nên thánh của Kitô giáo. Không thể chối cãi rằng một trong những
sứ điệp cảm kích – mà Thánh Phan-xi-cô vừa sống cách triệt để vừa tiếp tục làm
vang dội trong lương tâm của con người thời đại – đó là nỗi khát khao bỏng cháy
đối với hòa bình.
Sau khi toàn tâm dấn mình theo tiếng gọi của Thiên
Chúa, ngài và các môn đệ đầu tiên của ngài rảo qua các thành thị, làng mạc. Thầy
trò dừng lại ở các quảng trường và các khu dân cư, lặp đi lặp lại mấy tiếng hết
sức đơn sơ nhưng vô cùng hàm súc: an bình và hạnh phúc. Mấy tiếng ấy được nói
lên không chỉ đơn thuần như một điều khát khao, nhưng còn như một lời cam kết dấn
thân thúc bách các thính giả của ngài, những người thường bị rơi vào tình trạng
phân hóa và xung đột: tôn giáo này chống tôn giáo kia, thành phố này đối đầu với
thành phố nọ, xung đột giữa các xóm thôn, các gia đình.
Ở nước Ý thời Trung Cổ có một từ ngữ được khơi lên
và gây âm vang rất lớn, một từ rất đơn sơ tầm thường song cũng cưu mang rất nhiều
sức mạnh, sức mạnh của Tin mừng. Đó là một từ của Thánh Phan-xi-cô Assisi. Ngài
là một con người được Bà Chúa Nghèo yêu mến, một con người thực sự là anh em
chân tình của bất cứ ai mà ngài gặp gỡ.
Người tu sĩ khiêm tốn này được những người đương thời
đánh giá là “con người mới, được gởi xuống từ trời cao” (FF 1212). Trong tinh
thần của Đức Kitô, ngài thậm chí tự nguyện trở thành nhịp cầu nối giữa Kitô
giáo và Hồi giáo, đến độ ngài đã đi viếng thăm vua Ai cập, Melek-el-Kamel. Ngài
mong muốn đảm nhận vai trò của một ngôn sứ đích thực để loan báo cho nhà vua sứ
điệp của Con Thiên Chúa nhập thể.
Chúng ta có thể nói rằng thánh Phanxicô không chỉ
là một sứ giả. Bởi hơn thế nữa, ngài là nhà xây dựng và là kiến trúc sư của hoà
giải và hoà bình. Ngài nói: “Chúa đã mặc khải cho tôi lời chào mà chúng tôi vẫn
sử dụng, đó là ‘Xin Chúa ban bình an cho bạn’” (FF 121). Tôma Celano, người viết
tiểu sử của ngài, đã khắc họa dung mạo nghèo khó nơi ngài như sau: “Trong các
bài giảng, trước khi chia sẻ lời Chúa cho mọi người, ngài luôn diễn tả khát vọng
hòa bình, ngài nói: ‘Xin Chúa ban bình an cho anh chị em! Ngài loan báo sự bình
an này cách chân thành cho mọi người nam cũng như nữ, cho tất cả những ai ngài
gặp gỡ. Bằng cách đó, nhờ ân sủng Chúa, ngài thường thành công trong việc giúp
cho những người chống lại hòa bình và chống lại ơn cứu độ của chính họ trở
thành con cái của hoà bình và biết khát khao ơn cứu rỗi đời đời” (FF 359).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Gương Thánh Nhân
Ngày 04-10
Thánh PHANXICÔ ASSISIS (1181 - 1226)
Thánh Phanxicô sinh tại Assisi, miền Umbria, năm
1181. Ong Phêrô Bernadone là một thương gia giầu có, lúc sinh ra thánh nhân,
ông đang ở Pháp, nên đã đặt tên cho Ngài theo tên quốc gia này. Thời thơ ấu,
thánh nhân chịu ảnh hưởng nhiều bởi người mẹ nhiệt thành và khả ái. Ngài tỏ ra
vui vẻ, mạo hiểm, quảng đại và bình dân. Dầu được chuẩn bị để theo nghề buôn
bán như cha, Ngài vẫn thường mơ ước trở thành hiệp sĩ.
Năm 1201, Phanxicô tham gia cuộc chiến ở Perugia và
bị bắt tù một năm. Kinh nghiệm đau xót này cùng với cơn bệnh ngặt nghèo là khởi
đầu cuộc trở lại của Ngài. Dầu vậy, năm 1205, Ngài vẫn còn tham dự vào cuộc viễn
chinh tại Apulia. Trong một giấc mơ, Phanxicô được Chúa Kitô mở lời kêu gọi phục
vụ Người. Ngài trở về và hiến mình chăm sóc các bệnh nhân.
Ngày 16 tháng 4 năm 1206, Phanxicô lại nghe tiếng
Chúa Kitô kêu gọi Ngài tái thiết đền thờ thánh Damianô. Luôn mau mắn và tận
tâm, Phanxicô đã từ bỏ đời sống cũ và chấp nhận sống như một ẩn sĩ. Khi bị cha
bỏ tù, rồi dẫn đến đức giám mục như một đứa con bất phục, thánh nhân đã từ khước
mọi quyền lợi lẫn của cải, cả đến áo quần đang mặc nữa.
Hai năm sau, có lẽ vào ngày 24 tháng 2 năm 1209,
Ngài nghe đọc đoạn Tin Mừng Mt 10,9 và thấy mình được ơn gọi đi rao giảng sự thống
hối. Đây là giây phút quyết liệt. Thánh nhân cởi bỏ tu phục ẩn sĩ, mặc áo vải
thô, thắt giây lưng và bắt đầu rao giảng Chúa Kitô. Có hai người bạn đi theo,
Ngài cho họ một bản luật gồm ba câu thánh kinh Mt 20,21; 10,9 và Lc 9,23. Khi
con số môn sinh lên tới 11, Ngài viết cho họ một bản luật vắn (bản Primitiva,
nay đã thất lạc), và dân họ tới Roma để được Đức Giáo hoàng phê chuẩn.
Đức giáo hoàng Innocentê III, sau phút ngập ngừng,
đã nhận ra nơi người giáo dân ngay thật và nhiệt tình này một tông đồ chân
chính, và ban lời chuẩn nhận (tháng 6 năm 1210). Nhóm huynh đệ trở về Assisi. Họ
sống trong những chiếc chòi ở Rivetortô. Gần Porziuncola và rao giảng sư thống
hối trên khắp nước Ý. Đầy đơn sơ, họ làm đủ mọi việc và sống bằng nghề ăn xin.
Chính sự đơn sơ như thiên thần của Phanxicô mà họ coi là hiền huynh và hiền mẫu,
là gương sống hứơng dẫn họ trên đường thiêng liêng. Chưa có một tổ chức nào cả,
với phép của Phanxicô, họ đi khắp nơi, như các anh em thống hối nghèo miền Assisi.
Năm 1212, Phanxicô khích lệ Clara, một thiếu nữ
danh giá trong thành phố, thiết lập nhóm chị em sống đời nghèo khó và cầu nguyện
ở nhà thờ thánh Damianô. Họ đã trở thành các bà nghèo khó và ngày nay gọi là
các nữ tu Clara.
Không bao giờ Phanxicô muốn lập một "Hội
dòng". Ngài chỉ muốn theo Chúa Kitô trong các sách Tin Mừng một cách hoàn
toàn đến từng chữ viết. Dầu vậy, nhóm huynh đệ đã theo một hình thức tu dòng
nào đó. Họ đọc kinh nhật tụng, ngủ và ăn chung như các tu sĩ. Khi nhóm huynh đệ
đã tăng số cách lạ lùng, mau chóng, Phanxicô phải ủy quyền cho các người lãnh đạo
mà Ngài gọi là "Hiền mẫu" hay là "tôi tớ" của các nhóm.
Hàng năm các anh em họp nhau một lần tại Porziuncola.
Năm 1216, Phanxicô tham dự đám táng Đ. G.H
Innocentê III và được Đức Honoriô IV ban ân xá cho thánh đường Perziuncola. Năm
sau, Ngài được cảm tình của đức Hồng y Ugôlinô, là đấng sẽ trung tín bảo trợ
Ngài mãivề sau.
Năm 1219. Nhóm huynh đệ tăng số đông đảo và phải
chia thành nhiều tỉnh dòng. Cánh đồng truyền giáo đầu tiên của nhóm vượt qua rặng
núi Alpes.
Chính Phanxicô, bất chấp những cân nhắc khôn ngoan,
đã bỏ nước Ý để tham gia thập tự quân và đã đến gặp Sultan. Trong khi Ngài vắng
mặt, nhóm huynh đệ gồm nhiều học viên mới, có học thức và thuộc hàng giáo sĩ, họ
như con thuyền không lái và rơi vào cuộc khủng hoảng. Vấn đề chỉ giải quyết
xong khi kêu mời Phanxicô trở về, nhờ tài khéo léo của Đức hồng y Ugôlinô, và
nhóm phải chọn một khuôn mẫu thông thường của đời sống tu trì.
Trước sức ép liên tục, bây giờ Phanxicô phải viết một
bản luật chi tiết hơn (bản Regula Prima) dầu vậy, bản luật này vẫn còn quá đơn
sơ và đòi hỏi các người lãnh đạo mới của cộng đoàn về đàng thiêng lêng. Sau khi
sửa lại, bản luật mới này được đức giáo hoàng Honoriô III chấp nhận năm 1223 (bản
Rehula Secunda hay Bullata nay vẫn còn được xử dụng) Trong khi đó, Phanxicô trở
nên yếu đau và lo âu. Ngài trao quyền quản trị nhóm huynh đệ cho người đại diện.
Từ năm 1221, anh Elia đầy bí nhiệm đảm nhận chức vụ.
Chính Phanxicô lại lui vào trong núi. Ngày 14 tháng
9 năm 1224, sau một thời sống ẩn dật, Ngài đã được Chúa Kitô in dấu. Từ đây, bệnh
tình Ngài tăng thêm và trở nên mù lòa hầu như hoàn toàn. Ngài được bốn anh em
trung tín mang đi đây đó. Có lẽ vào năm 1224, Ngài đã viết "bài ca mặt trời".
Năm 1226, Ngài viết chúc thư (testament) long trọng nhấn mạnh đòi buộc sống
nghèo khó tuyệt đối, vâng lời luật dòng đến từng chữ viết và từ khước mọi đặc
ân.
Ngày 02 tháng 10 năm 1226, sau khi viếng thăm Clara
cùng các nữ tu và chúc lành cho thành Assisi, Ngài từ trần tại Porziuncola. Hai
năm sau Ngài được bạn cũ là Ugôlinô bấy giờ là ĐGH Grêgoriô IX tôn phong lên
hàng hiển thánh. Năm 1228, xác Ngài được dời về mai táng tại đại giáo đường do
anh Elia xây cất.
(daminhvn.net)
04
Tháng Mười
Bí Quyết Trẻ Trung
Hôm
nay Giáo Hội kính nhớ thánh Phanxicô Assisi.
Sống
cách chúng ta trên 7 thế kỷ, thánh Phanxicô Assisi vẫn mãi mãi để lại một hình ảnh
trẻ trung. Chưa có vị thánh nào trong Giáo Hội được nhắc nhở, yêu mến như thánh
nhân. Chưa có vị thánh nào đã gợi lên nhiều cảm hứng cho văn chương, nghệ thuật
cho bằng thánh nhân. Chưa có vị thánh nào được các nhà chính trị, các nhà cách
mạng ca tụng cho bằng thánh nhân.
Sứ
điệp của thánh nhân siêu việt thời gian, bởi vì con người của thánh nhân là hiện
thân của tuổi trẻ. Thật thế, suốt cả cuộc đời của mình, thánh Phanxicô Assisi
luôn biết giữ một tâm hồn tươi trẻ. "Tuổi tác không phải là điều kiện thể
lý cho bằng bầu khí của tâm hồn". Có lẽ thánh nhân không phải là người đã
nói lên châm ngôn ấy, nhưng hẳn ngài đã sống theo châm ngôn ấy.
Ngài
biết giữ mãi cho tâm hồn tươi trẻ bằng cách hạn chế tối đa các nhu cầu, bằng
cách chống cự lại các ước muốn. Ngài đón nhận mọi sự. Không thắc mắc, không lo
lắng, không buồn giận.
Những
khám phá của khoa học tâm lý ngày nay, thánh Phanxicô Assisi đã từng biết và sống
một cách trọn vẹn. Thật thế, để có một thể xác lành mạnh, một tâm hồn tươi trẻ,
các nhà tâm lý học khuyên chúng ta như sau:
-
Hãy tập yêu thích những gì không quá đắt giá.
-
Hãy tập yêu thích việc đọc sách, chuyện vãn, nghe nhạc.
-
Hãy tập yêu thích những thức ăn thanh đạm.
-
Hãy tập yêu thích tiếng chim hót, sự hiện diện của thú vật, tiếng cười đùa rộn
rã của trẻ em.
-
Hãy tập yêu thích trồng trọt, làm việc tay chân.
-
Hãy tập yêu thích ánh bình minh cũng như hoàng hôn, tiếng mưa rơi trên mái nhà
cũng như cảnh tuyết rơi.
-
Hãy tập yêu thích những nhu cầu đơn giản nhất.
-
Hãy tập yêu thích công việc và cảm nhận được niềm vui khi làm tốt một công việc.
-
Hãy tập yêu người, dù người không giống ta.
Không
khí, ánh sáng, mặt trời, niềm vui, hạnh phúc, cuộc sống, con người: đó là những
yếu tố cần thiết để tạo cho bầu không khí tươi trẻ trong tâm hồn. Phải chăng đó
không là những yếu tố mà người ta cũng bắt gặp trong bài ca vạn vật của thánh
Phanxicô Assisi?
Một
tâm hồn luôn luôn tươi trẻ: đó không chỉ là một bí quyết để được hạnh phúc trên
đời này, nhưng còn là một đòi hỏi đối với người Kitô. Chúa Giêsu đã nói với
chúng ta: "Hãy để trẻ nhỏ đến với Ta, vì Nước Trời thuộc về những ai giống
chúng. Ta nói thật với các con: nếu các con không đón nhận nước Trời như trẻ nhỏ,
các con sẽ không được vào Nước Trời".
Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét