Trang

Thứ Tư, 14 tháng 10, 2015

15-10-2015 : THỨ NĂM TUẦN XXVIII MÙA THƯỜNG NIÊN

15/10/2015
Thứ Năm tuần 28 thường niên
Thánh Têrêxa Giêsu, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh.
Lễ nhớ.

* Chào đời năm 1515 tại Avila, Tây Ban Nha, Têrêxa là một nhà cải tổ dòng Cát Minh, một con người vừa chiêm niệm vừa hoạt động. Là người chiêm niệm, chị đã ghi lại kinh nghiệm thần bí của mình trong “chuyến đi lên Thiên Chúa”.
Các tập sách của chị đã khiến chị thành bậc thầy về đường thiêng liêng. Là người sáng lập, chị đã rảo khắp nước Tây Ban Nha để thiết lập các đan viện. Tâm hồn chị được thống nhất nhờ nỗi khao khát được sống “một mình với Đấng Độc Nhất”. Chị qua đời ở Avila năm 1582.

Lễ Thánh Nữ Têrêxa Avila, Tiến Sĩ
Bài Ðọc I: Rm 8, 22-27
"Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, chúng ta biết rằng cho đến nay, mọi tạo vật đang rên siết trong cơn đau đớn như lúc sinh nở. Nhưng không phải chỉ tạo vật mà thôi đâu, mà cả chúng ta nữa, tức là những kẻ đã được hưởng của đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên rỉ trong mình chúng ta khi mong Thánh Thần nhận làm nghĩa tử, và cứu chuộc thân xác chúng ta. Vì chưng nhờ niềm cậy trông mà chúng ta được cứu độ. Nhưng hễ nhìn thấy điều mình hy vọng thì không phải là hy vọng nữa. Vì ai thấy điều gì rồi, đâu còn hy vọng nó nữa. Nhưng nếu chúng ta hy vọng điều chúng ta không trông thấy, chúng ta sẽ kiên tâm trông đợi.
Ðàng khác, cũng có Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta. Vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho xứng hợp. Nhưng chính Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả. Mà Ðấng thấu suốt tâm hồn, thì biết điều Thánh Thần ước muốn. Bởi vì Thánh Thần cầu xin cho các thánh theo ý Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 18, 8. 9. 10. 11
Ðáp: Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống (x. Ga 6, 64b).
Xướng: 1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. - Ðáp.
2) Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. - Ðáp.
3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thực, công minh hết thảy. - Ðáp.
4) Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng; ngọt hơn mật và hơn cả mật tàng ong. - Ðáp.

Bài Ðọc II: 1 Cr 1, 18-25
"Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên Thập giá, ...
là sự khôn ngoan đối với những người Thiên Chúa kêu gọi".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, lời rao giảng về thập giá là sự điên rồ đối với những kẻ hư mất; nhưng đối với những người được cứu độ là chúng ta, thì điều đó là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì như đã chép rằng:
"Ta sẽ phá hủy sự khôn ngoan của những kẻ khôn ngoan, sẽ chê bỏ sự thông sáng của những người thông sáng". Người khôn ngoan ở đâu? Người trí thức ở đâu? Người lý sự đời này ở đâu? Nào Thiên Chúa chẳng làm cho sự khôn ngoan của thế gian này trở nên ngu dại sao? Vì khi thế gian tự phụ là khôn, không theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa mà nhận biết Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã muốn dùng sự điên rồ của lời rao giảng để cứu độ những kẻ tin. Vì chưng, các người Do-thái đòi hỏi những dấu lạ, những người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho người Do-thái, một sự điên rồ đối với các người ngoại giáo, nhưng đối với những người được gọi, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, thì Ngài là Chúa Kitô, quyền năng của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vì sự điên dại của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và điều yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự mạnh mẽ của loài người.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Mt 5, 16
Alleluia, alleluia! - Sự sáng của các con phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 5, 13-19
"Các con là sự sáng thế gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho nó mặn lại? Muối đó không còn sử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.
"Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời.
"Các con đừng tưởng Thầy đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Thầy bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".
Ðó là lời Chúa.


Suy niệm :
Thánh Têrêxa Giêsu được Giáo Hội ca ngợi:" Người đã để Thiên Chúa yêu Người nhiều".Thánh nhân đã được Thiên Chúa ban cho khả năng yêu và được yêu. Người đã hiện diện trong đáy thâm sâu của tâm hồn con người để minh chứng cho tình yêu của Thiên Chúa.Thánh nhân khi được Thiên Chúa ban cho khả năng hiểu được những bí nhiệm của tình yêu, cái huyền diệu của tình yêu tuyệt đối,phải chẳng Thiên Chúa qua Người đã hé mở cho nhân loại thấy thế giới của thần linh,một thế giới có thật,nhưng xem ra xa vời, để con người dễ bị thu hút bởi những cái bóng,cái hào nhoáng của thế giới văn minh.Têrêxa Giêsu là chứng nhân của Thiên Chúa tình yêu.
MỘT CON NGƯỜI CÓ KHẢ NĂNG YÊU VÀ ÐƯỢC YÊU
Thiên Chúa qua con người Têrêxa thần bí đã muốn nhắc nhở cho nhân loại về"điều mắt chưa từng thấy,tai chưa từng nghe,và lòng chưa nghĩ đến,tất cả những gì Thiên Chúa đã sắm sẵn cho những kẻ yêu mến Ngài "( 1co 2,9 ).Têrêxa Giêsu là vị thánh của các bí nhiệm tình yêu. Tình yêu này phát xuất từ chính Thiên Chúa tình yêu. Thiên Chúa đã ban cho Người khả năng yêu và được yêu.Thánh nữ được Chúa ban cho kinh nghiệm sống động của Người trong linh hồn người khác và hiệu quả của sự hiện diện tình yêu đó trong lòng con người hàng ngày.Thánh nhân sinh ngày 18.3.1515 tại Avila nước Tây Ban Nha,trong một gia đình đạo đức,quí phái.Ðược hấp thụ trong bầu khí thánh thiện và đạo đức của gia đình có dáng dấp gia đình Thánh gia Nagiarét: Chúa Giêsu,Ðức Mẹ và Thánh cả Giuse,thánh Têrêxa Giêsu sớm lớn lên trong đàng nhân đức.Thánh nhân say mê đọc hạnh các thánh tử đạo và sách viết về cuộc thương khó của Chúa Giêsu.Nhờ những gương sáng và những tư tưởng thánh soi chiếu,hướng dẫn,thánh Têrêxa Giêsu đã sớm nhận ra tiếng Chúa trong cuộc sống.Vào năm 20 tuổi,tức năm 1535,thánh nhân đã can đảm lướt thắng sự ngăn cản của cha mẹ,gia đình để bỏ tất cả mọi sự mà gia nhập Dòng kín Carmêlô.Thánh nhân đã góp công sức và trí tuệ rất nhiêu để cải tổ Dòng kín này và viết nhiều sách đạo đức để lại nhiều tư tưởng thần học rất có giá trị.Thánh nhân có lòng sùng kính Ðức Mẹ một cách đặc biệt.Ngài đã lập thêm một tu viện tại Avila và tiếp tục lập thêm nhiều tu viện khác nữa.Ngài dâng mọi đau khổ,thử thách,khó khăn để cầu nguyện cho các linh hồn tội lỗi.Bận rộn với công việc điều khiển nhà Dòng và nhiều công việc khác,nhưng thánh nhân đã cố gắng viết lại những tư tưởng thiêng liêng,suy gẫm và phổ biến luật Dòng cho các tín hữu nam nữ. Thánh nhân đã yêu nhiều vì được Chúa yêu rất nhiều,nên Ngài đã dâng mọi hy sinh cuộc đời để cầu nguyện cho các người lạc giáo và ly giáo.Thánh nhân luôn tin tưởng vào Chúa và hoàn toìan phó thác cho Ngài dù thành công hay thất bại.
Thánh nữ Têrêxa Giêsu qua đời tại Alba năm 1582,hưởng thọ 67 tuổi.Ngài nổi tiếng về ơn nói tiên tri và nhiều ơn lạ lùng khác.Cuộc đời của Ngài đã thể hiện tình yêu đích thực của Chúa Giêsu: yêu thương là cho đi và từ bỏ ."Không tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu "( Ga 15,13 ).
Ðức thánh Cha Phaolô V đã tôn phong Ngài lên bậc chân phước vào năm 1614.Ngài được vinh thăng hiển thánh vào năm 1622 dưới thời Ðức Thánh Cha Grêgoriô XIV.

MỘT CUỘC ÐỜI SAY MÊ CHÚA KITÔ
Thánh Têrêxa Giêsu đã say mê Chúa Kitô,đã sống và đã chết cho Chúa Kitô.Thánh nhân là người của Giáo Hội,đã hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho Hội Thánh vì thế Ngài có thể nói:" Tất cả ước vọng của tôi chỉ hướng về vinh quang Chúa và lợi ích của Giáo Hội Ngài".Trong giờ hiệp lễ vào ngày 18.11.1572,Têrêxa Avila được nâng lên bậc"kết hôn thiêng liêng".Chúa Giêsu hiện đến,tay cầm cây đinh và nói với Têrêxa:"Con hãy nhìn xem cay đinh này là dấu chỉ từ đây con trở thành bạn trăm năm của Ta.". Thánh Têrêxa Avila đã kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu trong sự thần bí cao siêu của tình yêu Thập giá. Thánh Têrêxa Giêsu đã say mê Chúa Kitô và đã hiến trọn cuộc đời mình cho tình yêu sâu thẳm của Chúa Giêsu. Chính tình yêu của Chúa đã dệt nên con người tinh túy và tô điểm cho vườn hoa Giáo Hội,vườn hoa Nước Trời thêm mầu thêm sắc.Thánh nhân đã sống cuộc đời tận hiến với con người rất thật,rất phụ nữ của mình.Chính niềm say mê Thập giá Chúa Giêsu đã biến đời thánh nữ trở nên bài ca
tuyệt vời dâng lên Thiên Chúa.
Thánh nhân đã được nâng lên bậc tiến sĩ Hội Thánh vì những tư tưởng đạo đức,thánh thiện của Ngài.

Lạy thánh nữ Têrêxa Giêsu xin cầu thay nguyện giúp cho chúng con để chúng con luôn biết sống yêu thương và say mê con đường Thập giá của Chúa.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT


Ngày 15/10:
THÁNH TÊRÊXA AVILA
Trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh
(1515 - 1585)

I. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ
Thánh nữ Têrêsa sinh ngày 28 tháng 3 năm 1515, tại Avila, nước Tây Ban Nha, trong một gia đình quý tộc đạo đức. Lúc nhỏ, thánh nữ rất thích đọc sách tu đức và hạnh thánh tử đạo, thấy các ngài can đảm hy sinh chịu khổ chịu chết vì Chúa, và được nên thánh trong Hội thánh. Có lần ngài bảo em: "Chúng ta hãy đến chỗ người ta đang bắt đạo, để chị em mình được chết vì đạo, được Chúa thưởng lên thiên đàng hưởng phước với các thánh.”
Thánh nữ chỉ mong được lên thiên đàng, và rất sợ hình khổ hỏa ngục.
Têrêsa có lòng kính mến Đức Mẹ đặc biệt. Ngày ngày, ngài lần chuỗi Mân Côi để tỏ lòng tôn kính Đức Mẹ. Và năm lên 12 tuổi, khi mẹ ngài mất, ngài đến quỳ trước ảnh Đức Mẹ, xin Đức Mẹ nhận ngài làm con, và hứa suốt đời sống xứng đáng làm con Đức Mẹ.
Năm 1530 nhân tuần cấm phòng tại tu viện thánh Augustinô, thánh nữ cảm thấy ước nguyện đi tu mỗi lúc một thôi thúc mạnh mẽ trong tâm hồn, Ngài trở về ngỏ ý xin cha cho phép vào tu trong dòng Carmelô, nhưng cha Ngài nhất định khưóc từ. Dầu vậy, Têrêsa không sờn lòng, ngài vẫn kiên trì hun đúc ý chí cầu nguyện sống tận hiến theo tiếng Chúa gọi. Một hôm thánh nữ phân vân không biết quyết định làm sao, theo tiếng Chúa  gọi hay vâng lời cha già, thì một câu nói của thánh Giêrônimô đã giúp ngài định hướng dứt khoát cho cuộc đời của mình: “Cả khi cha mẹ con, nằm lăn trước cửa để ngăn cản con đi tu, thì con cũng cứ can đảm bước đi vì tiếng Chúa trong con hơn...” Thế là chim bằng vỗ cánh vút cao trên nền trời xanh thẳm.
Năm 1533, Têrêsa vừa đúng 18 tuổi, ngài nhất định cất bước lên đường vào tu trong dòng “Nhập thể”. Sống cuộc đời mới, thánh nữ hân hoan như cá gặp nước, ngài tiến bộ rất nhanh trên đường tu đức. Ngày 2.11.1535 ngài được mặc áo dòng. Cuộc đời tưởng sẽ êm suôi nhưng không phải thế. Bao nhiêu cơn cám dỗ nặng nề về đức tin và ý hướng tận hiến nổi lên. Thêm vào đó là tâm trí mệt mỏi, bệnh thần kinh xuất hiện hành hạ đến nỗi bề trên phải cho ngài về nhà uống thuốc nghỉ bệnh. Ơn kêu gọi trải qua một cơn sóng gió nặng nề. Nhiều khi thánh nữ cảm thấy chán nản, muốn nhắm mắt để mặc thế gian lôi cuốn. Thế nhưng ý Chúa nhiệm mầu. Chính lúc Têrêsa cảm thấy mình yếu đuối hơn cả thì lại là lúc Chúa hoạt động nơi ngài mạnh hơn hết. Quả thế, một hôm thánh nữ đang say sưa mơ tưởng những sự thế gian, thì bàn tay quan phòng của Chúa đã đến đúng lúc thức tỉnh thánh nữ. Tiếng nói mầu nhiệm của Chúa đã lọt vào lòng thánh nữ: “Cha không muốn con mê mải sự thế gian và tiếp xúc với người đời mà cha chỉ muốn con tiếp xúc với các thiên thần”.
Năm 1558, vào sau dịp lễ Phục Sinh, thánh nữ được trông thấy hai bàn tay của Chúa Giêsu rồi tiếp sau là khuôn mặt sáng ngời của Ngài. Lần khác Chúa cho thánh nữ trông thấy địa ngục đầy dẫy những hình khổ và lửa đỏ cháy ngùn ngụt thiêu đốt những linh hồn tội lỗi...
Những thị kiến ấy đã gợi lên nơi thánh nữ ý tưởng phải lập một dòng nhiệm nhặt hơn, chuyên lo đền tội. Thiên Chúa đã chúc lành cho ý định của ngài và giúp ngài thực hiện.
Ngày 24.8.1562, tu viện đầu tiên đã mọc lên ở Avila và ngày ngày có nhiều thiếu nữ xin gia nhập. Quy luật dòng rất nghiêm nhặt, như đi chân không, chú trọng đến việc ăn chay, hãm mình đánh tội, thức khuya dậy sớm, đọc kinh cầu nguyện rất nhiều. Và cũng từ đó, các tu viện được xây cất thêm mỗi ngày một đông, chứng tỏ Thiên Chúa rất hài lòng với công việc lớn lao của thánh nữ.
Cầu nguyện và suy ngắm chiếm điạ vị ưu tiên trong tinh thần tu đức của thánh nữ. Phương pháp cầu nguyện tốt nhất là đặt mình trước mặt Chúa và nhận biết sự nhỏ bé, hèn mọn của mình.
Đề tài thánh Têrêsa ưa nguyện ngắm hơn cả là đời sống hy sinh và cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Vì thế trong mọi hoàn cảnh, thánh nữ luôn múc lấy sức mạnh nơi thánh giá Chúa và luôn luôn tâm niệm lời Chúa phán: “hãy vác thánh giá và theo Chúa”. Thánh nữ đã viết: “Tôi không phàn nàn về thân phận của tôi, quả thực tôi không yếu đuối như những phụ nữ khác. Tôi có một trái tim quả cảm. Thiên Chúa nâng đỡ những ai quyết tin tưởng nơi Ngài. Chúa là sức mạnh, là nơi nương tựa và hướng đạo của tôi”.
Thánh Têrêsa đã sống và đã chết với lòng tin tưởng ấy. Thánh nữ hay than thở với Chúa: “Lạy Chúa, dù thành công hay thất bại, dù vui sướng hay đau khổ con vẫn một lòng tin tưởng vào Chúa”. Thánh nữ qua đời ngày tại Alba de Tormes ngày 05.10.1582 hưởng thọ 67 tuổi. Năm 1622 đức Gregoriô XV phong ngài lên bậc hiển thánh. Năm 1970 Đức Thánh Cha Phaolô VI tôn phong ngài lên hàng tiến sĩ của Giáo Hội.
II. NHỮNG HÌNH ẢNH ĐẬM NÉT VỀ CUỘC ĐỜI CỦA THÁNH TÊRÊSA AVILA
1. Bên cạnh những danh xưng mà người ta gán cho ngài như: Vị cải tổ dòng Cát Minh, người con của Giáo Hội, nhà đại chiêm niệm, nhân chứng của Thiên Chúa tình yêu thì hình ảnh đậm đà và đẹp nhất người ta thích nói về ngài là hình ảnh Têrêsa của Chúa Giêsu.
Giai thoại nổi tiếng sau đây cho chúng ta thấy điều đó.
Hồi ngài ở đan viện Toledo, một ngày kia, ngài bỗng thấy một cậu bé khôi ngô, thánh nữ ngạc nhiên dừng bước hỏi:
- Này em, em tên gì?
Cậu bé không trả lời ngay, nhưng hỏi ngược lại:
- Thưa bà, vậy bà tên chi?
- Tôi tên là Têrêsa của Chúa Giêsu.
Thánh Nữ đáp.
Cậu bé mỉm cười rất dễ thương tiếp lời:
- Tôi, tôi tên là ... Giêsu của Têrêsa!
Nói xong, cậu bé "Giêsu của Têrêsa" biến mất...
Đức Thánh Cha Gioan XXIII rất thích câu chuyện này. Ngài ghi lại trong quyển nhật ký của Ngài mấy dòng tư tưởng sau đây:
"Tôi phải sống thế nào để Chúa Giêsu cũng nói với tôi, như thuở xưa Ngài đã nói với Thánh Têrêsa thành Avila: "Tôi tên là Giêsu của Têrêsa". Vậy tiên vàn, tôi phải là Angêlô của Chúa Giêsu trước đã..."
Vâng! Mỗi người chúng ta phải là người của Chúa Giêsu.
2. Khi đã trở nên người của Chúa Giêsu thì thánh Têrêsa sẵn sàng sống tuân theo mọi đòi hỏi của Chúa.
Ngài luôn cầu nguyện: "Lạy Chúa, từ nay con muốn quên đi chính mình, hầu chỉ chú tâm vào việc con có thể làm gì để phụng sự Chúa, và con không còn ý muốn nào khác ngoài Thánh Ý Chúa".
Trên đường đi lập đan viện Burgos, thánh Têrêsa gặp phải nhiều đau khổ nên đã thốt ra những lời sau đây: "Ôi lạy Chúa, phần thưởng của Chúa dành cho kẻ phục vụ toàn là những thử thách gay go". Thánh nữ liền được nghe tiếng Chúa nói: "Đó là cách Ta đối xử với các bạn thân của Ta!" Têrêsa đáp lại: "Đúng rồi, có gì lạ đâu, chính vì thế mà Chúa có ít bạn tâm phúc!"


Thứ Năm sau Chúa Nhật 28 Quanh Năm


Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 3, 21-30a
"Con người nhờ đức tin mà được công chính hoá, chứ không phải bởi việc làm theo lề luật".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, hiện giờ sự công chính của Thiên Chúa đã tỏ hiện không tuỳ vào lề luật, nhưng có lề luật và các tiên tri làm chứng. Sự công chính của Thiên Chúa nhờ tin vào Ðức Giêsu Kitô sẽ ban cho mọi kẻ tin vào Người, không có gì phân biệt: vì mọi người đều phạm tội và đã thiếu mất vinh quang của Thiên Chúa, họ được công chính hoá cách nhưng không, do ơn nghĩa của Người và nhờ sự cứu chuộc nơi Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Thiên Chúa đã đặt làm của lễ đền tội, nhờ tin vào máu của Người, để tỏ cho thấy đức công chính của Người, bởi Người tha thứ những tội đã phạm khi trước, trong thời kỳ nhịn nhục của Thiên Chúa, ngõ hầu tỏ ra đức công chính của Người trong lúc này, để tỏ ra chính Người là Ðấng công chính và công chính hoá người tin vào Ðức Giêsu Kitô.
Vậy đâu là việc tự hào của ngươi? Nó đã bị loại đi rồi. Bởi lề luật nào? Có phải lề luật chỉ việc làm không? Không phải, song là bởi lề luật đức tin. Quả thế, chúng tôi thâm tín rằng: con người nhờ đức tin mà được công chính hoá, chứ không phải bởi việc làm theo lề luật. Hay là Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa của người Do-thái thôi sao? Người không phải là Thiên Chúa các dân ngoại nữa sao? Ắt hẳn Người là Thiên Chúa các dân ngoại nữa: vì chỉ có một Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 129, 1-2. 3-4ab. 4c-5
Ðáp: Bởi vì Chúa rộng lượng từ bi, và Chúa rất giầu ơn cứu độ (c. 7).
Xướng: 1) Từ vực sâu, lạy Chúa, con kêu lên Chúa. Lạy Chúa, xin nghe tiếng con cầu! Dám xin Chúa hãy lắng tai, hầu nghe thấu tiếng van nài của con. - Ðáp.
2) Nếu Chúa nhớ hoài sự lỗi, lạy Chúa, nào ai chịu nổi được ư? Nhưng Chúa thường rộng lượng thứ tha, để cho thiên hạ tôn thờ kính yêu. - Ðáp.
3) Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Ngài. Linh hồn con mong đợi Chúa, hơn người lính gác mong trời rạng đông. Hơn lính gác mong hừng đông dậy, Israel đang mong đợi Chúa. - Ðáp.

Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 11, 47-54
"Sẽ bị đòi nợ máu của các tiên tri đã đổ ra, kể từ máu của Abel cho đến máu của Giacaria".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa phán: "Khốn cho các ngươi! Hỡi những người xây cất mồ mả các tiên tri, mà tổ phụ các ngươi đã giết chết. Thật, các ngươi làm chứng và tán thành những hành động của tổ phụ các ngươi: vì thực ra họ đã giết các vị tiên tri, còn các ngươi thì xây mồ mả cho họ. Bởi đó mà sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã nói: Ta sẽ sai đến với chúng các tiên tri và các tông đồ, trong số các vị đó, người thì chúng giết đi, người thì chúng bách hại, khiến cho dòng giống này sẽ bị đòi nợ máu của tất cả các tiên tri đã đổ ra từ lúc tạo thành vũ trụ, kể từ máu của Abel cho đến máu của Giacaria, người đã bị sát hại giữa bàn thờ và thánh điện. Phải, Ta bảo các ngươi, dòng giống này sẽ bị đòi nợ máu. Khốn cho các ngươi! Hỡi những tiến sĩ luật, vì các ngươi cất giữ chìa khoá sự hiểu biết. Chính các ngươi đã không được vào, mà những người muốn vào, các ngươi đã ngăn cản họ lại".
Khi người phán bảo cùng các biệt phái và tiến sĩ luật những lời đó, thì họ bắt đầu oán ghét Người một cách ghê gớm, và chất vấn Người về nhiều vấn đề, cố gài bẫy Người để may ra bắt bẻ được lời gì do miệng Người thốt ra chăng.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Dòng Máu Cứu Ðộ

Với lý thuyết: "Người chết không nói", các đối thủ của những người thường dùng bạo lực để thủ tiêu những người can đảm đóng vai trò tiên tri để nói lên sự thật chống lại kỳ thị bất công, bênh vực quyền lợi của những người nghèo khổ. Từ máu Abel, người vô tội đầu tiên đổ ra vẫn luôn nhuộm hồng với máu các tiên tri thuộc mọi màu da, tiếng nói: một Martin Luther King, mục sư chủ trương bất bạo động để tranh đấu cho sự phân biệt và kỳ thị mầu da ở xã hội Mỹ và bị bắn ngã ngày 4/4/1968; hay một Oscar Roméro, vị giám mục thật sự yêu mến người nghèo đã bị ám sát khi đang dâng Thánh Lễ tại một bệnh viện vào chiều ngày 23/4/1980.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến việc lấy máu đào làm chứng cho sự thật nơi các tiên tri, Ngài cũng nói đến việc phải trả nợ máu. Ðoạn Tin Mừng còn cho thấy lòng oán ghét của các Luật sĩ và Biệt phái đối với Chúa Giêsu ngày càng gia tăng, và chính lòng oán ghét này đã dẫn Chúa Giêsu đến cái chết đẫm máu trên Thập Giá, để Ngài thực sự chia sẻ số phận của các tiên tri. Những dòng máu chảy từ thân xác Chúa Giêsu đã không đòi nợ máu, trái lại còn giải nợ máu, bởi vì những dòng máu chảy ra vì tình yêu và vâng phục đối với Chúa Cha, đã phá tan vòng luẩn quẩn của hận thù và oán ghét, qua lời Chúa Giêsu xin Cha tha thứ cho những kẻ hành khổ và xử tử Ngài.
Cái chết vì tình yêu và vì vâng phục của Chúa Giêsu cũng đã phá tan lý thuyết "người chết không nói", bởi lẽ từ dạo ngài gục đầu tắt thở trên Thập Giá, cái chết của Ngài đã nói và vẫn tiếp tục nói trải qua gần 2,000 năm nay, nói với những người tin lẫn người không tin vào Ngài về độ sâu của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại và về độ dầy của tình yêu Ngài đối với mọi người. Qua đó, cái chết của Chúa Giêsu đã trở thành nguồn sống và trao ban cho cái chết của những người can đảm đóng vai trò tiên tri một ý nghĩa, một sức mạnh, để cái chết của họ cũng tiếp tục nói và gây ảnh hưởng cũng như thu lượm kết quả mỹ mãn hơn lúc họ còn sống. Cái chết của Mục sư Martin Luther King đã đẩy mạnh và đóng góp phần không nhỏ vào phong trào chống phân biệt, kỳ thị cho những người da mầu tại xã hội Mỹ và nhiều nơi khác trên thế giới. Cái gục đầu tắt thở trên bàn thờ đang lúc dâng Thánh Lễ của Ðức Cha Oscar Roméro đã gây niềm hy vọng và sức mạnh khôn lường cho bao nhiêu người dấn thân tranh đấu cho công bằng xã hội tại các quốc gia Mỹ Châu La Tinh.
Nợ máu vẫn đòi phải trả bằng máu. Nhưng từ dạo máu Chúa Giêsu chảy trên đồi Calvê và vẫn tiếp tục chảy trên bàn thờ mỗi ngày khắp nơi trên thế giới, những dòng máu hy sinh cho chính nghĩa, những dòng máu chảy ra vì tình yêu, đã trở thành khí giới sắc bén phá tan hận thù, bất công, để góp phần xây dựng một thế giới thấm nhuộm tình người, dẫn đến một nhân loại biết liên đới chia sẻ, yêu thương.

Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 28 TN1
Bài đọc: Rom 3:21-30; Lk 11:47-54.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lề Luật không đủ sức mạnh giúp chúng ta nên công chính.
Một trong những chủ đề chính mà Chúa Giêsu cũng như thánh Phaolô tranh cãi nhiều với người Do-thái, là vai trò của Lề Luật trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Người Do-thái tin họ có thể trở nên công chính bằng việc giữ cẩn thận tất cả các Lề Luật của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng như thánh Phaolô tuyên bố Lề Luật không thể giúp cho con người nên công chính; vì không ai có thể giữ trọn vẹn mọi Luật. Để nên công chính, mọi người, Do-thái cũng như Hy-lạp, cần tin vào Đức Kitô. Nếu Lề Luật có đủ sức mang ơn cứu độ, Thiên Chúa không cần phải sai Con của Ngài xuống thế gian để chuộc tội cho con người.
Các Bài Đọc hôm nay muốn chúng ta nhận ra sự bất toàn của con người trong việc thi hành Lề Luật của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô nhận xét: có Luật hay không, cả Do-thái lẫn Dân Ngoại đều phạm tội; vì thế, để được hưởng ơn cứu độ, mọi người phải tin vào Đức Kitô: ''Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất luận là ai.'' Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tố cáo các kinh-sư đã lạm dụng Lề Luật để bắt bớ và giết các ngôn sứ Thiên Chúa đã liên tục gởi tới cho con người; họ còn dùng Lề Luật để bẻ cong sự thật và ngăn cản con người không cho tới với Thiên Chúa.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Con người được công chính hóa nhờ niềm tin vào Đức Kitô.
1.1/ Cả Do-thái và Dân Ngoại đều cần tin vào Đức Kitô: Sau khi đã trình bày về tội của Dân Ngoại (Rom 1:18-32) và tội của người Do-thái (2:1-3:8), thánh Phaolô kết luận cả hai cùng bị tội lỗi thống trị và đều cần tin vào Đức Kitô để được trở nên công chính. Ngài nói: ''Nhưng ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Moses. Điều này, sách Luật và các ngôn sứ làm chứng. Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất luận là ai. Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Giêsu Kitô.''
Để dẫn chứng Sách Luật, Phaolô dùng Gen 15:6, "Ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính" (Rom 4:3). Phaolô cũng suy diễn về lời hứa của Thiên Chúa với tổ phụ Abraham là sẽ ban cho ông một giòng dõi đông như sao trên trời và cát ngoài bãi biển. Điều này chỉ có thể thực hiện nhờ niềm tin vào Đức Kitô: tất cả những ai tin vào Đức Kitô đều là con cháu của tổ phụ Abraham vì Đức Kitô thuộc giòng dõi của tổ phụ Abraham (Rom 4:18-25). Tiên-tri Habbakuk cũng đã nói trước: ''Người công chính sống bởi đức tin'' (Hab 2:4).
Để bảo vệ sự công chính của Thiên Chúa, Ngài phải sửa phạt kẻ có tội; và để cứu độ con người, Đức Kitô phải xuống trần để chết thay cho con người và giao hòa con người với Thiên Chúa. Thánh Phaolô diễn đạt như sau: ''Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội nhờ máu của Người cho những ai có lòng tin. Như vậy, Thiên Chúa cho thấy Người là Đấng Công Chính. Trước kia, trong thời Thiên Chúa nhẫn nại, Người đã bỏ qua các tội lỗi người ta phạm. Nhưng bây giờ, Người muốn cho thấy rằng Người vừa là Đấng Công Chính, vừa làm cho kẻ tin vào Đức Giêsu được nên công chính.''
1.2/ Đối thoại giữa thánh Phaolô với người Do-thái về hai điều:
(1) Vai trò của Lề Luật: Người Do-thái rất hãnh diện về Lề Luật Thiên Chúa đã ban cho họ qua ông Moses; nhưng Lề Luật chỉ có ích khi họ tuân hành. Nếu không tuân hành, Lề Luật sẽ trở thành chứng cớ tố cáo tội của họ. Thánh Phaolô hỏi: ''Vậy thì hãnh diện ở chỗ nào? Chẳng còn gì để hãnh diện! Dựa vào luật nào mà hãnh diện? Vào việc làm chăng? Không, nhưng dựa vào lòng tin. Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy.''
(2) Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa: Người Do-thái được Thiên Chúa trọn trước Dân Ngoại để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến; nhưng khi Đấng Cứu Thế đến, ơn cứu độ được mở rộng cho tất cả mọi người, vì mọi người đều là con của Ngài. Thánh Phaolô chất vấn: ''Hay Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa của người Do-thái thôi? Thiên Chúa không là Thiên Chúa của các dân ngoại nữa sao? Có chứ! Người cũng là Thiên Chúa của các dân ngoại nữa, vì chỉ có một Thiên Chúa, Đấng làm cho người được cắt bì nên công chính vì họ tin, và làm cho người không được cắt bì nên công chính cũng bởi họ tin.''
2/ Phúc Âm: Con người dùng Lề Luật để tiêu diệt sự thật.
2.1/ Các kinh-sư dùng Luật để giết các ngôn-sứ và tông-đồ: Chúa Giêsu trách mắng các kinh-sư: "Khốn cho các người! Các người xây lăng cho các ngôn sứ, nhưng cha ông các người đã giết chết các vị ấy! Như vậy, các người vừa chứng thực vừa tán thành việc làm của cha ông các người, vì họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng.''
Các kinh-sư chỉ tôn kính các ngôn sứ khi họ đã chết; nhưng bắt bớ các ngôn sứ khi họ còn sống. Thiên Chúa luôn gởi các ngôn sứ đến để kêu gọi mọi người ăn năn, hối cải, và quay trở về với Ngài; nhưng các kinh-sư là những người luôn chống đối, bắt bớ, và tìm cách giết chết họ. Vì thế mà Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã phán: "Ta sẽ sai Ngôn Sứ và Tông Đồ đến với chúng: chúng sẽ giết người này, lùng bắt người kia. Như vậy, thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu tất cả các ngôn sứ đã đổ ra từ tạo thiên lập địa, từ máu ông Abel đến máu ông Zachariah, người đã bị giết giữa bàn thờ và Thánh Điện. Phải, tôi nói cho các người biết: thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu.''
Một ví dụ điển hình cho những điều Chúa nói là họ đang tìm bắt bớ chính Chúa Giêsu, vị Ngôn Sứ trên tất cả các ngôn sứ, như trình thuật kể: "Khi Đức Giêsu ra khỏi đó, các kinh sư và các người Pharisees bắt đầu căm giận Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều chuyện, gài bẫy để xem có bắt được Người nói điều gì sai chăng."
2.2/ Các kinh-sư dùng Luật để bẻ cong sự thật: "Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết: các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản."
- Luật làm ra để bảo vệ công bằng cho mọi người; họ dùng Luật để sáng chế ra những luật trừ để đối xử bất công và tước đoạt tài sản của người khác.
- Luật làm ra để đưa con người đến gần Chúa; cách họ áp dụng Luật làm mọi người tránh Thiên Chúa, làm dân chúng nhìn Chúa như một hung thần, sẵn sàng sửa phạt mọi người vi phạm.
- Luật giúp cho con người biết cách sống thế nào để được hạnh phúc; cách họ cắt nghĩa và áp dụng Luật làm mọi người cảm thấy ngột ngạt, gánh nặng, và bất an.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Lề Luật của Thiên Chúa tốt lành, và có thể giúp cho con người đạt tới hạnh phúc nếu con người sống theo những điều Thiên Chúa dạy. Nhưng con người chúng ta yếu đuối không thể sống theo hoàn toàn những điều Luật dạy. Đó là lý do chúng ta cần Đức Kitô và ơn thánh của Ngài.
- Chúng ta hãy biết tôn trọng, sống theo, và làm chứng cho sự thật. Đừng bao giờ coi thường, bẻ cong, và truy tố những người dám sống và làm chứng cho sự thật.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

15/10/15 THỨ NĂM TUẦN 28 TN 
Th. Tê-rê-xa Giê-su, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh
Lc 11,47-54

Suy niệm: Luật sĩ và Pha-ri-sêu thay vì dùng kiến thức và địa vị của họ trong xã hội để phục vụ, họ lại thường ‘lên mặt ta đây’, thích phô trương, chú trọng những việc chi li hình thức mà “xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa”, “thích ngồi ghế đầu trong Hội đường, thích được người ta chào hỏi nơi công cộng”, “thích chất lên vai kẻ khác những gánh nặng nề nhưng chính mình thì không đụng ngón tay vào” (x. Lc 11,37-46). Sau khi ‘kể tội’, Chúa Giê-su ‘tổng kết’ bản cáo trạng Luật sĩ và Pha-ri-sêu bằng ‘tội danh’ “giấu chìa khoá” vì hai lý do: - lời giảng dạy của họ giết chết tinh thần YÊU THƯƠNG là cốt lõi của lề luật, biến luật trở thành gánh nặng; - lối sống giả hình của họ là cớ vấp phạm cho nhiều người.
Mời Bạn: Trong bối cảnh cá nhân chủ nghĩa của thế giới hôm nay, “bản chất luật sĩ và Pha-ri-sêu” càng dễ có cơ hội bùng phát nơi các giáo xứ, cộng đoàn tu trì, nơi những người được coi là “công giáo” nhất. Liệu bạn có mắc tội “giấu chìa khoá”, trở thành vật ‘cản mũi kỳ đà’ chắn ngang cửa vào Nước Trời không?
Sống Lời Chúa: Sau một ngày làm việc, học hành… bạn dành ít phút để nhìn lại chính mình để phát hiện “bản chất luật sĩ và Pha-ri-sêu” nơi chính bạn. Bạn nêu quyết tâm cụ thể để sửa đổi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa là chủ tể muôn loài, thế nhưng Chúa đã đến trong thế gian “không phải để được người ta phục vụ nhưng là để được phục vụ muôn người” (Mt 20,28). Xin cho chúng con biết hoạ lại mẫu gương KHIÊM TỐN PHỤC VỤ của Chúa trong cách sống của chúng con. Amen.

Ngôn sứ và tông đồ
 Một số người sẽ phải chịu trách nhiệm về việc đổ máu Đức Giêsu, nhưng ngay cả những người ấy cũng có thể thoát khỏi án phạt nhờ chính dòng máu từ trái tim yêu thương của Đấng bị đóng đinh. 


Suy nim:
Ơn gọi ngôn sứ chưa bao giờ là một ơn gọi dễ dàng.
Ngôn sứ là người bất ngờ được Thiên Chúa kêu gọi,
để trở nên phát ngôn viên chính thức cho Ngài trước toàn dân.
Thiên Chúa nói qua trung gian con người,
nói bằng thứ ngôn ngữ con người để họ hiểu được.
Ngôn sứ đã là người nghe trước khi là người nói,
là cầu nối chuyển đạt cho dân sứ điệp mình đã lãnh nhận.
Sứ điệp của Thiên Chúa lắm khi là những lời cảnh báo, răn đe,
nên công việc của ngôn sứ không dễ được mọi người đón nhận.
Ngôn sứ có thể tố cáo tính vụ hình thức nơi phụng vụ trong Đền thờ,
những người dâng lễ vật cho Chúa, nhưng lại bóc lột anh em (Is 1, 11).
Ngôn sứ cũng dám nói lên những điều chưa tốt nơi hàng tư tế,
những hư hỏng, bất công của vua quan (2 Sm 12, 7),
và những bất trung của dân chạy theo ngẫu tượng dân ngoại.
Phải có đảm lược mới dám nói điều Chúa bắt mình nói.
Số phận của một ngôn sứ thường gắn liền với đau khổ và bách hại.
Môsê và Êlia đều đã có lúc xin được chết cho xong (Ds 11, 15; 1 V 19, 4).
Giêrêmia cũng chỉ muốn từ nhiệm, nhưng không được (Gr 20, 7-18).
Giacaria bị ném đá và giết trong sân Đền thờ (2 Sb 24, 20-22).
Vào thời Tân Ước các ngôn sứ cũng chịu chung số phận.
Gioan Tẩy giả, Đức Giêsu và các tông đồ đều nếm khổ đau và cái chết.
Bài Tin Mừng hôm nay nói đến máu mà bao ngôn sứ đã đổ ra.
Từ thời Hêrôđê đại đế, người ta bắt đầu xây lăng mộ cho các ngôn sứ,
nhưng chuyện bắt bớ và sát hại các ngôn sứ thì vẫn kéo dài.
“Thế hệ này sẽ phải trả lời về máu của mọi ngôn sứ đã đổ ra…” (c.50).
Như vậy thế hệ hiện tại cũng phải chịu trách nhiệm về tội ác quá khứ,
vì chính họ đang nhúng tay
vào việc bách hại các người được Thiên Chúa sai (c. 49).
Các nhà thông luật hay các kinh sư mà Đức Giêsu đang gặp gỡ
sẽ có mặt trong Thượng Hội Đồng để luận tội Đức Giêsu (Lc 22, 66).
Máu vô tội của Đức Giêsu sẽ đổ ra trên đồi Sọ (Lc 22, 20; Ga 19, 34).
Máu châu báu ấy thực ra không đòi nợ máu, không đòi trả thù.
Máu ấy đổ ra để xóa tội cho muôn người (Mt 26, 28),
để giao hòa con người với Thiên Chúa.
Một số người sẽ phải chịu trách nhiệm về việc đổ máu Đức Giêsu,
nhưng ngay cả những người ấy cũng có thể thoát khỏi án phạt
nhờ chính dòng máu từ trái tim yêu thương của Đấng bị đóng đinh.
Đức Giêsu trên thập giá đã tha thứ cho những kẻ giết mình.
“Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).
Đức Giêsu phục sinh đã sống sự tha thứ ấy
khi Ngài chẳng hề báo thù những kẻ can dự vào cái chết của Ngài.
Các tông đồ cũng lần lượt chia sẻ chén đắng của Thầy mình.
Kitô hữu tự bản chất là ngôn sứ cho thế giới mình đang sống.
Chỉ mong chúng ta cũng can đảm sống như Giêsu và chết như Giêsu.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.

Lạy Chúa Giêsu,
nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?

Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
đối diện với những thách đố
vì biết rằng cuối cùng
chiến thắng thuộc về người
có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
15 THÁNG MƯỜI
Tình Yêu Chúa Kitô Thúc Bách Các Nhà Thừa Sai Bác Ái
Sứ mệnh cứu thế của Đức Giêsu Na-da-rét đã được triển khai ở Ấn Độ, đặc biệt ở Calcutta, bằng một cách thế hết sức hùng hồn, thể hiện một lời chứng đích thực về Thiên Chúa. Đó là một lời chứng làm cho cả thế giới phải thán phục, một chứng tá làm rung động lương tâm nhân loại. Tôi đang muốn nói đến cuộc sống và hoạt động của một người phụ nữ: dù bà không sinh ra ở Ấn Độ, mọi người vẫn gọi bà là Mẹ Têrêsa Calcutta.
Cách đây ít năm, người phụ nữ này đã được tình yêu Chúa Kitô thúc bách để phục vụ Ngài nơi những người khốn khổ và bất hạnh nhất. Mẹ đã bỏ công việc dạy học để thành lập Hội Dòng Thừa Sai Bác Aùi. Qua những công việc phục vụ đầy ấn tượng cho những người nghèo khổ nhất, Mẹ Tê-rê-sa thi hành một cách cụ thể sứ vụ cứu thế của Chúa Giêsu: “mang niềm vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18). Mẹ đã trao cho thế giới một bài học đầy khích lệ về lòng trắc ẩn và tình yêu chân thành đối với những ai cần được giúp đỡ. Tấm gương của mẹ đã biểu lộ sức mạnh cứu độ. Tấm gương ấy đang thôi thúc nhiều người nam cũng như nữ thể hiện những chứng tá phục vụ rất anh hùng. Quả thật, tấm gương của Mẹ Tê-rê-sa vẫn còn tiếp tục động viên họ kiên trì phục vụ không mệt mỏi.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 15-10
Thánh Têrêxa Giêsu, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh
Rm 3, 21-30; Lc 11, 47-54.

LỜI SUY NIỆM: “Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất giấu chìa khóa của sự hiểu biết; các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào,  các người lại ngăn cản”.
Trong hành trình rao giảng của Chúa Giêsu, Người đến đâu, đám đông dân chúng đều tuôn đến với Người, để được nghe, được nhìn thấy những phép lạ Người làm và được chữa lành. Nhưng đối với các nhà thông luật, lại là một chướng ngại lớn cho họ, và họ tìm mọi cách để loại bỏ Người và ngăn cấm dân chúng theo Người. Chúa Giêsu đang quở trách họ. Điều này, mọi thành phần trong Giáo Hội của ngày hôm nay, cũng cần phải quan tâm đến những cử chỉ, nghe nhìn, và ngôn từ của mình, mỗi khi gặp gỡ hay đối thoại với người anh em, đừng vì những ánh mắt hay lời nói làm cho người anh em phải xa cách Chúa. Rời khỏi Giáo Hội.
Lạy Chúa Giêsu. Xin tha thứ cho tất cả những lỗi lầm, thiếu sót trong đời sống đạo và giữ đạo cũng như truyền giáo của chúng con. Xin Chúa ban cho mọi thành viên trong gia đình chúng con được ơn Chúa, luôn biết tỉnh thức và cầu nguyện, để không làm cản trở người anh em muốn đến với Chúa.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 15-10
Thánh TÊRÊXA AVILA
Đồng Trinh, Tiến Sĩ Hội Thánh (1515 - 1585)

Sinh ngày 28 tháng 3 năm 1515, Têrêxa là một trong 12 người con của ông Anphong Cpêda, lớn lên tại Avila, vương quốc Castille, miền đất của mộng mơ và của các thánh ". Ngài ham thích đọc các sách dạy sống khổ hạnh và suy gẫm cuộc đời các thánh. Với lòng nhiệt thành, Ngài ngây ngất vì hạnh phúc vĩnh cửu ân thưởng cho những đau khổ của các thánh, cũng như kính sợ những khốn khổ của hoả ngục tồn tại mãi mãi. Ngài đã nói trong run sợ: - Ai có thể chịu nổi cái ý nghĩ như vậy được ?
Mong mỏi được tử đạo, một ngày kia, Ngài lén dẫn cậu em Rodrigue đi về miền dân dữ tợn đang hành hạ các Kitô hữu này. Nhưng mới đi được nửa dặm đường thì ông cậu bắt được và dẫn đưa về nhà. Không tử đạo được, các em sẽ trở thành những nhà ẩn tu. Các em làm những cái hầm và cầu nguyện lâu giờ tại đó. Nhưng rồi một ngày kia, những bức tường nhỏ bằng đá bị sập. Các em nhỏ thánh thiện này thường nhịn ăn để làm việc bác ái.
Năm 13 tuổi, tức năm 1528, Têrêxa mất mẹ, Ngài khấn nài Mẹ Maria là Mẹ. Chuỗi Mân Côi trở thành vịệc sùng kính đặc biệt của Ngài.
Têrêxa có một bản chất ngay thẳng, nhiệt hành và tha thiết mến Chúa. Khoảng 15 tuổi, Ngài lén đọc các truyện kiếm hiệp làm cho Ngài ra mơ mộng, lúc này, Ngài muốn mặc đẹp, xức dầu thơm, lo trang sức và thích được ve vãn. Chị em cho Ngài xinh đẹp. Một cô em họ ngây ngất không muốn rời xa Ngài. Họ nói truyện phiếm với nhau hàng giờ. Têrêxa nói: - Tôi được cứu thoát, chính là vì kính sợ Chúa, điều mà tôi không bao giờ bỏ mất, và vì sợ mất danh dự.
Ngài còn nói: - Tôi đã rất ghê tởm những điều bất lương.
Dầu vậy cha Ngài cũng lo âu và quyết định gởi Ngài học nội trú ở nơi các nữ tu dòng thánh Augustinô. Têrêxa không thích thú gì, nhất là đã không hề muốn rằng sau này mình sẽ là nữ tu. Nhưng Ngài phải vâng lời. Và Ngài sắp tìm lại được lòng đạo đức nhiệt thành của tuổi thơ khi sống gần các bậc thầy này. Hơn khi nào, Ngài khao khát những của cải đời đời. Nhưng đời sống khắc khổ trong tu viện làm Ngài run sợ.
Têrêxa ngã bệnh. Ngài trở về nhà cha và nghe ông cậu nhắc lại rằng mọi sự đời này chỉ là phù vân và sẽ qua mau như chớp. Sau cùng Ngài hiểu rằng: ơn gọi của mình là sống đời tu sĩ. Nhưng những chống đối dữ dội nổi lên trong lòng. Hơn nữa, Ngài phải coi thường những chối từ của cha Ngài. Năm 1536, Ngài vào dòng kín Camelô, sau khi phải chịu đựng cuộc chiến đấu kinh khủng với chính mình: để giã từ nhà cha, Ngài khổ sở đến dộ xương cốt như rã rời và tan nát con tim. Nhưng rồi Ngài đã mạnh mẽ thắng vượt mọi cám dỗ đau khổ.
Têrêxa đã trải qua 27 năm tại tu viện Nhập Thể, là nơi luật lệ được châm chước cho phép giải trí và tiếp khách, Ngài còn phải qua một bước dài trước khi dấn mình vào con đường cực nhọc để xây dựng và cải sửa các dòng tu. Trước hết, sức khỏe của Ngài xem ra không chịu đựng nổi. Bệnh tật, Ngài trở về nhà, các bác sĩ tuyên bố là bất trị, Ngài tín thác vào thánh Giuse và khỏi bệnh sau một cơn ngất trí. Trở lại tu viện, Ngài được chị em yêu mến.
Cách nói chuyện hấp dẫn của Ngài lôi kéo nhiều cuộc viếng thăm. Ngài kể lại:
- Một đàng Chúa gọi tôi, đang khác thì thế gian lôi kéo. Cuộc chiến nội tâm xâu xé tôi.
Ngày kia trong một câu chuyện trần tục, Ngài đã được thị kiến thấy Chúa Giêsu đầy thương tích. Têrêxa thấy đau lòng, nhưng Ngài còn phải chiến đấu nhiều để đạt tới chỗ chỉ yêu các tạo vật trong Chúa và vì Chúa. Trong nhiều năm, Ngài đã trải qua sự khô khan, qua cơn sợ hãi hỏa ngục. Trong vòng 20 năm Ngài đã không tìn ra cha giải tội hiểu được Ngài và muốn bàn về việc thị kiến. Thánh Phanxicô Borgia đã trấn an Ngài.
Sau cùng, các cha giải tội buộc Ngài ghi lại điều đã xảy ra trong tâm hồn. Và thánh nữ, một con người ít học, đã viết nên được những tác phẩm có giá trị, đến nỗi Ngài đã đáng được danh hiệu là Tiến Sĩ Hội Thánh.
Nếu trước hết, sự sợ hãi các khổ cực đời đời đã dẫn Têrêxa vào đường hẹp đưa tới chỗ cứu rỗi thì bây giờ tình yêu Chúa xâm chiếm Ngài như cơn hỏa hào. Các cuộc xuất thần tăng thêm. Ba Ngôi, Đức Trinh nữ, các thiên thần và các thánh hiện ra với Ngài. Ngài được nâng lên khỏi mặt đất và ở nguyên như vậy khi cầu nguyện. Vào tuổi 43, thánh nữ thường thấy Đấng cứu thế và nghe Người nói: - Cha không muốn con nói truyện với loài người, nhưng với các thiên thần.
Một thiên thần dùng giáo đâm thủng tim Ngài và Chúa Giêsu gọi Ngài là hiền thê. Cho tới cuối đời, Ngài đã hiệp nhất với đấng cứu chuộc bị đóng đinh và đã ước được chịu khổ vì Người đến nỗi người ta thường nghe Ngài kêu lên: - Lạy Chúa, hoặc là chết, hoặc là đau khổ.
Ngài tự ràng buộc bởi lời khân anh hùng này, là luôn làm điều thiện hảo hơn, nhưng lại chẳng tỏ ra nhiệm nhặt chút nào, trái lại còn nhanh nhẹn vui tươi duyên dáng tới độ gõ sênh mua vui cho các nữ tu dòng kín Camêlô. Vị nữ tu chiêm niệm này còn tỏ lộ một sự hiểu biết tích cực, một tinh thần thực tiễn sẽ đưa Ngài tới cuộc cải đổi dòng Camelô.
ịnh mệnh đặc biệt sắp đưa Ngài qua mọi chặng đường để thiết lập các tu viện. Trước hết năm 1562, khép mình ở Avila nhưng một nhà mang danh thánh Giuse, là nơi các nữ tu sống trong thinh lặng, nghèo khó, cầu nguyện, chay tịnh, đi chân không trong mọi mùa, Têrêxa ra khỏi nơi này và không ngừng thiết lập, tổ chức những tu viện mới. Hầu như luôn luôn bệnh hoạn, Ngài theo đuổi những cuộc hành trình mệt lả trước sự nóng nung, làm mồi cho các côn trùng tấn công hay những đêm lạnh lẽo mùa đông đã giữ Ngài lại trong những đoạn đường không tên không có nơi trú ẩn. Những cuộc bắt bớ tấn công Ngài. Ngài viết cho một ân nhân: - Cho tiền bạc chẳng là gì, nhưng khi chúng tôi như đến lúc bị ném đá, thì công việc lại trôi chảy.
Và khi mẹ đã vượt thắng mọi ngăn trở và thiết lập các tu viện mới, cơn đau đớn nhức nhối lại đợi chờ Ngài vì phải giã từ con cái yêu dấu để ra đi xây dựng tu viện ở nơi khác. Đây là: - Nỗi thống khổ đớn đau nhất. Tim tôi tan nát đau khổ nghĩ rằng: sẽ không còn gặp lại họ nữa.
Thánh Gioan thánh giá trợ lực, Ngài trải rộng việc canh tân tới các cha dòng Carmes mà Ngài muốn tái lập sự nghiêm ngặt ban đầu, điều gây nên cho Ngài nhiều xôn xao và dường như làm cho Ngài bị cầm tù. Nhà vua và đức giáo hoàng bảo vệ Ngài. Ngài đã thiết lập hơn 30 tu viện. Hoạt động chưa từng nghe thấy của Ngài, những việc thiết lập, những cuộc du hành, những khó khăn vô số... đã không ngăn cản Ngài vui hưởng sự hiện diện của Chúa, kiên trì cầu nguyện, và thường xuất thần, Ngài nói: - Tôi không hiểu tại sao người ta bảo tôi là nhà sáng lập, chính Chúa sáng lập chứ không phải tôi.
Người ta còn nói lại những phép lạ của Ngài, như tăng thêm đống bột để nuôi cả cộng đoàn. Khi đi qua đồng quê, nhiều gia đình lũ lượt xin Ngài ban phép lành.
Giữa các hoạt động lạ lùng, Têrêxa vẫn viết về đời mình mà Ngài gọi là sách các kỳ công của Chúa, và "Lâu Đài Nội Tâm" là nơi tâm hồn Ngài, từng phòng một vươn tới uy linh Chúa. Với sự linh hoạt, Ngài biết dùng vài lời tóm gọn tất cả sự thánh thiện:
- Phải can đảm để trở thành phụ nữ của vua trên trời.
- Đừng lo suy nghĩ nhiều, nhưng là yêu nhiều.
- Ta nhân đức hơn khi liên kết với nhân đức của Chúa, hơn là dính chặt với phận bụi đất của ta.
- Nỗ lực của ta là bắt chước con tằm, xây tổ của ta bằng cách tẩy trừ ích kỷ và thực hiện những việc xám hối cầu nguyện, hy sinh, vâng lời. Thiên Chúa sẽ biến ta thành bướm trắng khi Ngài muốn.
- Quan trọng là biết yêu mến và kính sợ, hai nhân đức vĩ đại.
- Khi bị đau khổ bên ngoài cần chăm lo làm việc bác ái và biết hy vọng vào lòng thương xót của Chúa.
Ngài có chút hài hước trong sự thánh thiện, như lời hóm hỉnh được biết đến nhiều, khi Ngài bị thương ở chân: - Lạy Chúa, sau bao nhiêu phiền muộn lại đến chuyện đó nữa, Cha đối xử với bạn hữu của cha như thế đó…. Vâng lạy Chúa của con, không lạ gì mà Chúa ít bạn.
Lòng Ngài rảo khắp thế giới: - Những người An độ nghèo khổ này làm tôi đổ bao nhiêu là nước mắt.
Têrêxa qua đời tại miền quê ở Albe de Tormès ngày 04 tháng 10 năm 1583. Chính tình yêu quá mức hơn là con bệnh đã đưa tới cái chết của Ngài. Khi đưa Thánh thể vào phòng, Ngài đã ngăn cho Ngài khỏi tung ra khỏi giường. Ngài đã la to: "Lạy Chúa, đến lúc chúng ta gặp nhau rồi". Và đời đời, Têrêxa đã hiệp nhất với tình yêu.
Ngài được tuyên thánh năm 1628 và ngày 27 tháng 9 năm 1970, Đức giáo hoàng Phaolô VI đã đặt Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh.
(daminhvn.net)


15 Tháng Mười
Người Ðàn Bà "Rất Ðàn Bà"
Hôm nay là ngày kính nhớ thánh nữ Têrêxa Avila.
Vị nữ tiến sĩ hội thánh này đã sống trong một giai đoạn có nhiều xáo trộn nhất đối với Giáo Hội. Thánh nữ chào đời khi cuộc cải cách của người Tin Lành bắt đầu và qua đời khi Công Ðông Trento vừa chấm dứt. Ngài đã được Thiên Chúa ban cho Giáo Hội như một đóa hoa đẹp đẽ nhất giữa những gái góc đang ụp phủ trên Giáo Hội. Nhưng Têrêxa Avila cũng chỉ là một người đàn bà giống như rất nhiều người đàn bà khác. Ðẹp, có nhiều năng khiếu, đảm đang, đa tình... Têrêxa lại là một người đàn bà "rất đàn bà". Thế nhưng nơi người đàn bà này, người ta thấy có nhiều tương phản: thông minh nhưng lại thực tế; biết nhiều nhưng không xa vời với kinh nghiệm sống; thần bí nhưng lại đầy nghị lực để trở thành một nhà cải cách.
Têrêxa là một người đàn bà hoàn toàn sống cho Chúa, nghĩa là một người đàn bà cầu nguyện, kỷ luật và biết cảm thông. Trái tim của Têrêxa hoàn toàn thuộc về Chúa. Ðã thách thức tất cả mọi chống đối của người cha để gia nhập dòng kín, Têrêxa cũng tiếp tục đương đầu với không biết bao nhiêu chống đối khác khi muốn cải tổ dòng kín. Người đàn bà yếu đuối này chỉ còn một nơi nương tựa duy nhất: đó là Thiên Chúa.
Là một người sống cho Chúa hoàn toàn, Têrêxa cũng hoàn toàn sống cho người khác. Canh tân cuộc sống của mình, Têrêxa cũng không ngừng đi khắp đó đây để giúp người khác canh tân cuộc sống.
Suốt cuộc đời trải qua trong gian lao và thử thách, về cuối đời, Thánh nữ đã thốt lên: "Ôi lạy Chúa, tất cả những ai làm việc cho Chúa đều được đpá trả bằng gian lao, khốn khó. Nhưng cao quý thay phần thưởng dành cho những ai yêu mến Chúa, nếu họ hiểu được giá trị của nó".
Hiện nay, người ta nói đến rất nhiều thứ giải phóng, trong đó có giải phóng người phụ nữ.
Có lẽ tất cả những ai đang tranh đấu cho nữ quyền nên nhìn vào mẫu gương của thánh nữ Têrêxa Avila. Một người đàn bà đã có thể thực hiện được nhiều việc vĩ đại, nhưng bản chất đàn bà vẫn không hề thay đổi trong con người ấy. Phải chăng người đàn bà có thể đóng trọn vai trò của họ trong Giáo Hội và trong xã hội khi họ biết trung thành với ơn gọi cao cả mà Thiên Chúa đã trao ban qua nữ tính của họ!
Người nữ có phúc nhất trong những người nữ, người nữ cũng đã sống trọn vẹn ơn gọi làm người: đó là Ðức Maria. Bí quyết để người nữ ấy thể hiện trọn vẹn ơn gọi làm người nữ và làm người của mình chính là hai tiếng "Xin vâng". Thiên Chúa đã tạo dựng con người và đã quy định cho con người một định mệnh: định mệnh đó chính là sống cho Chúa. Ðức Maria, thánh nữ Têrêxa và bao nhiêu vị thánh nam nữ khác, đã thực hiện được định mệnh đó qua một cuộc sống hoàn toàn vâng phục ý Chúa. Chỉ có một sự bình đẳng duy nhất: đó là sự bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Ðức Maria đã minh chứng được sự bình đẳng đó qua sự cộng tác của Mẹ vào công cuộc cứu rỗi của Ðức Kitô.
Trước mặt Chúa, mỗi người chúng ta đều có một chỗ đứng. Không có chỗ đứng nào cao trọng hơn chỗ đứng khác. Hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc ở sự đáp trả của chúng ta đối với tiếng gọi của Chúa.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét