16/10/2015
Thứ Sáu
sau Chúa Nhật 28 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 4, 1-8
"Abraham đã tin vào Thiên Chúa và điều đó kể cho ông như sự
công chính".
Trích thư Thánh Phaolô Tồng đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, chúng ta phải nói gì về chuyện Abraham, tổ phụ
theo huyết nhục của chúng ta đã gặp thấy? Nếu như Abraham nhờ việc làm mà được
nên công chính, thì ông có lý mà tự hào, nhưng không phải tự hào trước mặt
Thiên Chúa. Vì Thánh Kinh nói gì? Abraham đã tin vào Thiên Chúa, và điều đó được
kể cho ông như sự công chính.
Ðối với người thợ làm việc, tiền công không kể được là ân huệ,
nhưng là một món nợ. Còn đối với người không làm việc, nhưng tin vào Ðấng làm
cho người ác nên công chính, thì đức tin của kẻ ấy được kể như là sự công
chính, theo ơn Thiên Chúa phân định.
Cũng như Ðavít tuyên bố là phúc đức con người được Thiên Chúa kể
là công chính, không cần có việc làm, mà rằng: "Phúc cho những ai được tha
thứ sự gian ác, và được che lấp các tội lỗi. Phúc cho người Chúa không chấp nhất
sự tội".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 31, 1-2. 5. 11
Ðáp: Chúa là chỗ dung thân; Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn
cứu độ (c. 7).
Xướng: 1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của
người được ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong
lòng người đó chẳng có mưu gian. - Ðáp.
2) Tôi xưng ra cùng Chúa tội phạm của tôi, và lỗi lầm của tôi,
tôi đã không che giấu. Tôi nói: "Con thú thực cùng Chúa điều gian ác của
con, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con". - Ðáp.
3) Chư vị hiền nhân, hãy vui mừng hân hoan trong Chúa, và mọi
người lòng ngay hãy hớn hở reo mừng! - Ðáp.
Alleluia: Dt 4, 12
Alleluia, alleluia! - Lời Thiên Chúa là lời hằng sống, linh nghiệm,
phân rẽ tư tưởng và ý muốn của tâm hồn. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 12, 1-7
"Mọi sợi tóc trên đều các con cũng đã được đếm cả rồi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có nhiều đám đông dân chúng đứng chung quanh, đến nỗi
chen đạp lẫn nhau, nên Chúa Giêsu bắt đầu dạy các môn đệ trước tiên rằng:
"Các con hãy ý tứ giữ mình khỏi men biệt phái, nghĩa là sự giả hình. Không
có gì che đậy mà không bị tiết lộ ra, và không có gì giấu kín mà chẳng biết được.
Vì vậy, những điều các con nói trong nơi tối tăm, sẽ được nói ra nơi sáng sủa,
và điều các con nói rỉ tai trong buồng kín, sẽ được rao giảng trên mái nhà.
"Thầy bảo các con là những bạn hữu của Thầy rằng: Các con đừng
sợ chi những kẻ giết được thân xác, rồi sau đó không thể làm gì hơn được nữa.
Thầy sẽ chỉ cho các con biết phải sợ ai: Hãy sợ Ðấng, sau khi đã giết chết, còn
có quyền ném vào địa ngục. Phải, Thầy bảo các con hãy sợ Ðấng ấy.
"Chớ thì năm con chim sẻ không bán được hai đồng tiền sao?
Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. Hơn nữa, mọi sợi tóc
trên đầu các con cũng đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn trọng
hơn nhiều con chim sẻ".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Các Con Ðừng Sợ
Thánh Justinô là một triết gia nổi tiếng của Kitô giáo vào thế kỷ
thứ 2; ngài đã bị bắt giam tại Rôma cùng với một số Kitô hữu khác, vì tội tuyên
truyền tôn giáo trong trường học do ngài điều khiển. Ra trước tòa, khi được hỏi
về hành động của mình, thánh nhân dõng dạc tuyên bố:
- Suốt đời tôi, tôi đã đi tìm kiếm chân lý; tôi đã nghiên cứu
sâu xa các triết lý Ðông Phương, Hy Lạp và Rôma; thế nhưng cuối cùng tôi đã tìm
được giáo thuyết chân thật.
Quan tòa liền hỏi giáo thuyết chân thật đó là gì ? Thánh nhân giải
thích:
- Thưa là giáo thuyết của Chúa Giêsu Nazaret, giáo thuyết này nhằm
giải phóng chúng ta khỏi các ngẫu tượng và dạy chúng ta thờ phượng một Thiên
Chúa độc nhất, hằng sống và chân thật, là Ðấng tạo thành trời đất, là Ðấng cứu
rỗi nhân loại.
Quan tòa lại hỏi:
- Vậy ông là một Kitô hữu ư?
Thánh nhân liền tuyên xưng:
- Phải, tôi là một Kitô hữu và tôi lấy làm vinh dự được làm Kitô
hữu cùng với các bạn tôi đây.
Quan tòa ra lệnh cho thánh nhân và các bạn của ngài phải tế thần,
thánh nhân trả lời một cách cương quyết:
- Chúng tôi không tôn thờ ngẫu tượng, nhưng điều đó không có
nghĩa là chúng tôi là những người vô thần. Chúng tôi thờ lạy một Thiên Chúa
thiêng liêng, Cha của Chúa Giêsu. Một người có đầu óc lành mạnh không thể từ bỏ
tôn giáo chân thật để chạy theo một tôn giáo giả.
Thấy không thể thuyết phục được thánh nhân bỏ đạo, quan tòa ra lệnh
đánh đòn rồi xử trảm thánh nhân và các bạn.
Ðứng trước cái chết, ai cũng run sợ. Chúa Giêsu đã không thoát
khỏi tâm trạng ấy: Ngài run sợ đến toát mồ hôi máu. Vậy đâu là sức mạnh giúp
Chúa Giêsu thắng vượt sự sợ hãi ấy? Thưa, chính là sự kết hiệp với Chúa Cha. Niềm
tín thác vào sự hiện diện và tình yêu của Chúa Cha đã giúp Chúa Giêsu thắng vượt
mọi thử thách và yếu hèn trong thân phận làm người.
Ðó cũng là bí quyết của tất cả các thánh tử đạo. Sách Công vụ
Tông Ðồ kể lại đầy đủ chi tiết cái chết của vị tử đạo tiên khởi là thánh
Stêphanô. Thánh nhân cũng phải trải qua những giây phút kinh hãi như chính Chúa
Giêsu; nhưng sách Công vụ Tông đồ mô tả thái độ của ngài như sau: "Ngài được
đầy Thánh Thần, đăm đăm nhìn trời cao thấy vinh quang của Thiên Chúa và thấy
Chúa Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa". Chỉ bằng một ánh mắt luôn hướng về trời
cao như thế, con người mới có thể lướt qua thử thách và sợ hãi. Thánh Justinô
đã có được sự bình thản trước cái chết, bởi vì ngài luôn tin tưởng vào Thiên
Chúa hằng sống và chân thật.
Nhìn lại cung cách của một số vị tử đạo, chúng ta có được sức mạnh
của Lời Chúa trong đời sống con người. Sứ điệp Tin Mừng hôm nay tập trung vào
hai chữ: "Ðừng sợ" được Chúa Giêsu lặp lại nhiều lần. Ðây chính là một
mệnh lệnh của Chúa Giêsu chạy xuyên suốt toàn bộ Tin Mừng. Trong biến cố Truyền
tin, thiên sứ đã nói với Ðức Maria: "Ðừng sợ". Khi Chúa Giêsu sinh
ra, các thiên sứ đã loan báo tin vui bằng lời trấn an các mục đồng: "Ðừng
sợ". Ðây là công thức sẽ được Chúa Giêsu lặp lại nhiều lần với các môn đệ,
và cao điểm là lúc Ngài tuyên bố: "Các con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế
gian".
Khi được bầu làm Giáo Hoàng, trong diễn văn đầu tiên tại quảng
trường thánh Phêrô, Ðức Gioan Phaolô II đã dõng dạc tuyên bố: "Ðừng sợ,
hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô". Thật thế, khi con người mở rộng cửa cho
Chúa Kitô, khi con người để Chúa Kitô sinh động trong tâm hồn, khi con người chỉ
sống bằng sự sống của Chúa Kitô, thì lúc đó con người sẽ lướt thắng được mọi sợ
hãi, và chỉ lúc đó, con người mới có thể lên tiếng công bố Lời Chúa cho mọi người.
Nguyện xin sức sống của Chúa Kitô tràn ngập tâm hồn chúng ta, để
cả cuộc đời chúng ta trở thành lời ca tụng Chúa trước mặt mọi người.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi
Ngày
Thứ Sáu Tuần
28 TN1
Bài đọc: Rom 4:1-8;
Lk 12:1-7.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người
được Thiên Chúa cho trở nên công chính bởi niềm tin.
Nhiều người thiển cận cho sở dĩ họ được như ngày hôm nay là hoàn
toàn do tài năng, công sức, và sự cố gắng của họ; mà không kể đến hồng ân của
Thiên Chúa, công khó của cha mẹ, và biết bao người đi trước hay đồng thời.
Trong lãnh vực đức tin cũng thế, nhiều người cho họ có thể trở nên tốt và được
cứu độ nhờ sự cố gắng và những việc tốt lành họ làm.
Các Bài Đọc hôm nay đặt trọng tâm nơi ân sủng của Thiên Chúa và
niềm tin của con người vào Ngài. Trong Bài Đọc I, Phaolô dùng Kinh Thánh và
kinh nghiệm cá nhân để chứng minh con người trở nên công chính hoàn toàn do việc
tin tưởng vào Thiên Chúa; chứ không do việc giữ Luật hay những điều tốt lành
con người làm. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ bày tỏ niềm tin nơi
Thiên Chúa qua việc làm bằng cách sống thật với lòng mình, không sợ hãi bất cứ
quyền lực nào ngoài Thiên Chúa, và vững tin nơi sự quan phòng của Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Lòng tin làm cho con người được Thiên Chúa kể là
công chính.
1.1/ Abraham trở nên công chính nhờ tin vào Thiên Chúa: Người Do-thái
rất hãnh diện về tổ-phụ Abraham, vì ông được Thiên Chúa coi như bạn nghĩa thiết.
Điều Phaolô muốn tranh luận với những người Do-thái ở đây là tại sao tổ-phụ
Abraham được Thiên Chúa chọn và kể như người công chính.
(1) Vị thế của những người Do-thái: Họ sẽ nói là vì các việc ông
làm; chẳng hạn, việc giữ Luật (mặc dù Luật Thiên Chúa ban qua Moses phải đợi đến
ít nhất là 500 năm sau qua các thời của Isaac, Jacob, Joseph ... Moses), hay
quyết định bỏ quê cha đất tổ để đến một nơi định cư ông chưa biết mà Thiên Chúa
sẽ dẫn ông tới; hay việc sẵn lòng sát tế Isaac, đứa con một mà ông có được
trong lúc tuổi già.
(2) Vị thế của Phaolô: Đơn giản là vì ông đặt trọn vẹn tin tưởng
nơi Thiên Chúa. Phaolô cắt nghĩa: ''Vậy phải nói sao về ông Abraham, tổ phụ dân
tộc chúng tôi? Ông đã được gì? Giả như ông Abraham được nên công chính vì những
việc ông đã làm, thì ông có lý do để hãnh diện; nhưng không phải là hãnh diện
trước mặt Thiên Chúa. Thật vậy, Kinh Thánh nói gì? ''Ông Abraham đã tin Thiên
Chúa, và vì thế được kể là người công chính'''' (Gen 15:6).
1.2/ Con người trở nên công chính nhờ tình thương của Thiên Chúa: Phaolô dựa
vào bằng chứng Kinh Thánh và kinh nghiệm cá nhân để minh chứng con người được
trở nên công chính hoàn toàn do tình thương Thiên Chúa; chứ không do việc làm của
con người.
(1) Trường hợp của Abraham: Ông không biết đến Thiên Chúa (vô đạo)
và không biết đến Lề Luật (500 năm sau) khi đang còn ở quê cha bên xứ Urs; thế
mà Thiên Chúa gọi và mặc khải cho ông để bắt đầu một dân riêng của Thiên Chúa.
Điều này hoàn toàn do ý định của Thiên Chúa; nhưng Abraham tin tưởng và đáp lại
tiếng gọi của Ngài. Phaolô lý luận: ''Người nào làm việc, thì lương trả cho người
ấy không được kể là ân huệ, mà là nợ. Trái lại người nào không dựa vào việc làm
nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì lòng tin
làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính.''
(2) Trường hợp của vua David: Nhà vua không còn xứng đáng gì trước
mặt Thiên Chúa sau khi đã ngoại tình với bà Bathsheba, và dùng thủ đoạn để giết
ông Uriah, chồng của Bà (2 Kgs 11). Vua David biết rất rõ tội của mình; nhưng
nhà vua không phải chết để đền tội là do bởi tình thương của Thiên Chúa. Phaolô
dẫn chứng trường hợp của David để chứng minh con người được Thiên Chúa kể như
công chính trong khi vẫn còn là tội nhân: "Đó là điều vua David nói khi ca
tụng hạnh phúc của người được Thiên Chúa kể là công chính mà không xét đến việc
làm: ''Hạnh phúc thay kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan
dung! Hạnh phúc thay người Chúa không kể là có tội!''" (Psa 32:1-2).
2/ Phúc Âm: Đức tin phải biểu tỏ bằng việc làm.
Con người được trở nên công chính khi vẫn còn là tội nhân; nhưng
khi đã được Thiên Chúa cho trở nên công chính, con người phải cải quá tự tân
con người mình, để có thể sống cuộc đời cách tốt đẹp hơn. Nhiều người cho việc
làm tốt đối với thánh Phaolô là chuyện không cần thiết; nhưng nói như vậy là hiểu
sai thánh Phaolô và những lời dạy dỗ của Đức Kitô.
2.1/ Hãy biểu tỏ niềm tin vào Thiên Chúa bằng cách sống theo sự thật:
Mặc
dù các kinh-sư là những người hiểu biết và tuyên xưng đức tin của họ nơi Thiên
Chúa, nhưng cuộc sống giả hình của họ đã không chứng minh sự hiểu biết và niềm
tin của họ vào Ngài. Nếu họ hiểu biết Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự thì
làm sao họ có thể giấu Ngài lối sống gỉa hình của họ. Vì thế, Chúa Giêsu dặn
các môn đệ phải đề phòng: “Anh em phải coi chừng men Pharisees, tức là thói đạo
đức giả. Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người
ta sẽ không biết. Vì thế, tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe
giữa ban ngày; và điều anh em rỉ tai trong buồng kín, sẽ được công bố trên mái
nhà.” Một cuộc sống giả hình như thế là đánh lừa Thiên Chúa, đánh lừa tha nhân,
và tự đánh lừa mình; làm sao có thể đạt tới cuộc sống đời đời được?
2.2/ Hãy tin và kính sợ Thiên Chúa: Bản năng của con người là
ham sống và sợ chết; nhưng nếu con người hiểu những gì sẽ xảy ra sau khi chết,
con người sẽ dễ dàng chấp nhận cái chết hơn. Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ biết
những điều này: “Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết: Anh em đừng
sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được nữa. Thầy sẽ chỉ cho
anh em biết phải sợ ai: hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hoả ngục.
Thật vậy, Thầy nói cho anh em biết: anh em hãy sợ Đấng ấy.” Vì thế, nếu phải chấp
nhận cái chết để làm chứng cho Chúa, thì con người cũng phải làm vì biết họ sẽ
nhận lại cuộc sống trong Vương Quốc đời sau. Các thánh tử đạo cũng là những con
người yếu đuối như chúng ta; nhưng niềm tin và ơn thánh của Thiên Chúa đã cho họ
can đảm để sẵn sàng chết làm chứng cho Thiên Chúa.
2.3/ Hãy tin vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa: Ngòai cái
chết, con người còn lo sợ về thiếu những nhu cầu để sinh sống hay bệnh tật.
Chúa Giêsu dạy các môn đệ cũng phải vứt đi những lo sợ này và tin tưởng hòan
tòan nơi tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài bảo các ông: “Năm con
chim sẻ chỉ bán được hai hào, phải không? Thế mà không một con nào bị bỏ quên
trước mặt Thiên Chúa. Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Anh em
đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta được trở nên công chính là hoàn toàn do công trạng của
Đức Kitô và niềm tin của chúng ta vào Ngài; nhưng một khi đã được trở nên công
chính, chúng ta cần chứng tỏ đức tin nơi Thiên Chúa bằng các việc làm cụ thể để
mưu cầu lợi ích cho chính chúng ta và góp phần vào việc mở mang Nước Chúa.
- Chúng ta cần học hỏi để hiểu biết sự Quan Phòng và Kế Họach Cứu
Độ của Thiên Chúa. Có những điều xảy ra trong cuộc đời trong sự Quan Phòng của
Thiên Chúa, nhưng ngòai sự kiểm sóat của con người: bệnh tật, già yếu, sự chết…
Con người có lo sợ cũng chẳng thóat khỏi, chi bằng phó thác hòan tòan vào tình
yêu Thiên Chúa và Kế Họach Cứu Độ của Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
16/10/15 THỨ SÁU TUẦN
28 TN
Th. Hét-vích, nữ tu
Lc 12,1-7
Th. Hét-vích, nữ tu
Lc 12,1-7
Suy niệm: Sợ
hãi luôn ám ảnh con người. Nhỏ sợ ma, lớn sợ bệnh, già sợ chết. Người ở biển
thì sợ bão, ở núi sợ lũ, ở sông sợ lụt. Giàu thì sợ mất của, nghèo lại lo cái
ăn. Bởi sợ, người ta đầu tư, cắt cóp mua bảo hiểm, từ nhân thọ, lao động đến
tai nạn, sức khỏe. Nhưng bảo hiểm thì bảo hiểm, người ta vẫn không hết sợ, vì
không ai biết trước tương lai sẽ ra sao.
Chúa Giê-su dạy các môn đệ đừng sợ cái không
đáng sợ, từ cái ăn cái mặc hằng ngày cho đến cả cái chết. Vì tất cả những thứ
đó đều là phụ tuỳ, tạm bợ; tất cả đều đâu có đáng gì so với giá trị mà tình
thương của Thiên Chúa đã dành cho con người. Cái đáng sợ thực sự là khi còn ở
đời này đã không ăn năn hoán cải, đã chối bỏ Đấng có quyền“ném ta vào hoả ngục” đời đời.
Mời Bạn: Chúa
Giê-su mời gọi ta tham gia bảo hiểm mang tên Ngài, một bảo hiểm không chỉ bảo
đảm cho thân xác bạn, cũng không chỉ giới hạn ở đời này, mà bảo đảm chắc chắn
cho hạnh phúc trọn vẹn cả hồn xác bạn, đời này cũng như đời sau.
Chia sẻ: Bạn đã từng cảm nghiệm sự bình an khi ở lại
thinh lặng với Chúa trước Thánh Thể để suy niệm Lời Ngài chưa? Hôm nay mời bạn
hãy thử đi nhé.
Sống Lời Chúa: Suy
niệm Lời Chúa và đem ra thực hành là bảo đảm bạn đi đúng con đường; kết hiệp
với Chúa Giê-su Thánh Thể là bảo đảm cho bạn cùng sống và cùng sống lại với
Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho con, để con luôn tín thác vào
Chúa từng phút giây đời con. Amen.
Môn đệ và bạn hữu
Nếu từng sợi tóc của chúng ta đã được Thiên Chúa
biết, thì chuyện mạng sống của ta hẳn được Ngài quan tâm hơn nhiều.
Suy niệm:
Trước một đám đông kinh
khủng chen lấn để đến gần Ngài,
Thầy Giêsu vẫn muốn ngỏ lời
trước hết với các môn đệ dấu yêu.
Lần duy nhất trong Tin Mừng
Nhất lãm, Thầy gọi họ là bạn hữu (c. 4).
Thầy dặn dò họ cảnh giác kẻo
lây nhiễm men của người Pharisêu,
đó là thái độ đạo đức giả
(c. 1).
Thái độ này luôn bao hàm một
che giấu nào đó về sự thật,
khiến người nhìn bên ngoài dễ
bị đánh lừa bởi những mặt nạ đạo đức.
Việc che giấu khéo léo này
có thể xuôi chèo mát mái một thời gian.
Nhưng đối với Thầy Giêsu, nó
không thể kéo dài mãi.
Sớm muộn gì sự thật cũng sẽ
lộ diện, như chiếc kim trong bọc thò ra.
“Không có gì che giấu mà sẽ không
bị lộ ra,
không có gì bí mật mà sẽ
không bị người ta biết” (c. 2).
Nếu con người mãi mãi không
biết, thì Thiên Chúa vẫn biết.
Chúng ta có thể tránh được
máy kiểm tra nói dối của người đời,
nhưng không tránh được cái
nhìn xuyên thấu tâm can của Thiên Chúa.
“Tất cả những gì anh em nói
lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày;
điều anh em rỉ tai trong
buồng kín, sẽ được công bố trên mái nhà” (c. 3).
Như thế điều tưởng như không
thể lọt ra ngoài, điều kín như bưng,
vẫn có thể bị đưa ra ánh
sáng,
mặt nạ bị rơi xuống, và bản
chất thật của con người được vén mở.
Đây là một lời đe dọa, hay
đúng hơn, một lời khuyên hãy sống thực lòng.
Thầy Giêsu còn khuyên các
môn đệ đừng sợ.
Chuyện bị bách hại và sát
hại là chuyện có thể xảy ra.
Chuyện ấy sẽ xảy ra với Thầy
và với các môn đệ nữa.
Điều quan trọng là đừng sợ
kẻ sát nhân lấy đi mạng sống thân xác (c. 4).
Dù mạng sống thân xác thật
đáng quý, đáng trọng,
nhưng con người không phải
chỉ có thân xác hay chỉ là thân xác.
Thầy dạy cho các môn đệ biết
phải sợ ai (c. 5).
Phải sợ chính Thiên Chúa,
Đấng có quyền ném anh em vào hỏa ngục.
Các vị tử đạo đều tin, hiểu
và sống các câu Tin Mừng này.
Họ đã chịu bao đớn đau nhục
hình và cái chết thân xác,
nhưng họ đã tránh được hỏa
ngục, và được đón vào lòng Thiên Chúa.
Kitô hữu phải đối diện với
những thách đố cam go.
Lúc chịu bách hại lại tưởng
mình bị Thiên Chúa bỏ rơi, ruồng rẫy.
Chim sẻ là thức ăn rẻ tiền
cho người nghèo,
tiền lương một ngày mua được
những 40 con chim sẻ.
Nếu Thiên Chúa không quên
một con sẻ nào,
thì Ngài lại càng không thể
quên được những người bạn của Con Ngài.
Nếu từng sợi tóc của chúng
ta đã được Thiên Chúa biết,
thì chuyện mạng sống của ta
hẳn được Ngài quan tâm hơn nhiều.
Hãy để lòng mình bình an vì
sống không gian dối, nên không sợ bị lộ.
Hãy để lòng mình bình an vì
cái chết chẳng phải là dấu chấm hết.
Hãy hạnh phúc vì biết mình
là môn đệ và là bạn hữu của Thầy Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con
được ơn khôn ngoan
để con biết sợ điều phải sợ.
Cho con đừng sợ những đe dọa
đến thân xác, tiếng tăm,
nhưng biết sợ mất đi vĩnh
viễn toàn bộ con người mình.
Cho con đừng sợ những kẻ làm
hại con ở đời này,
nhưng biết sợ phải xa Đấng
yêu con và muốn con hạnh phúc mãi.
Xin giải phóng con khỏi
những nỗi sợ đã ăn sâu vào cuộc sống,
những nỗi sợ ngấm ngầm mà chính
con không dám thú nhận,
những nỗi sợ làm con chẳng
bao giờ được tự do và an vui.
Nhờ đó con dám sống thật sự
là mình,
tươi tắn và hồn nhiên, nhẹ
nhàng và không lo lắng.
Xin dạy con ngắm những bông
hoa dại vệ đường
để thấy chúng được điểm
trang lộng lẫy,
và ngắm chính mình mỗi ngày,
để thấy vẻ đẹp nơi mình như
một quà tặng của tình yêu.
Xin dạy con ngắm đàn chim sẻ
ríu rít buổi sáng,
để biết mình chẳng nên quá
lo về chuyện cơm áo gạo tiền,
nhưng nên phó thác như em
thơ ngồi trong lòng mẹ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đặt
đời mình trong tay Cha.
Xin cho con cũng đặt đời con
trong tay Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm
Hồn Lên
16 THÁNG MƯỜI
Yêu Thương Bằng Con Đường Dâng Hiến
Lòng bác ái và sự hy sinh của Mẹ Tê-rê-sa, phát xuất từ tình yêu
đối với Đức Kitô, đã trở nên một thách đố cho thế giới. Thế giới này vẫn thường
được thấy như là một thế giới của ích kỷ và dục vọng, một thế giới đầy tham
lam, đầy những đam mê danh lợi và quyền lực.
Đứng trước những sự dữ của thời đại chúng ta, chứng tá của Mẹ
Tê-rê-sa nêu bật – không phải bằng lời nói mà bằng chính những hành động hy
sinh cụ thể – giá trị siêu vượt của tình yêu Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta.
Tình yêu này kêu gọi các tội nhân hoán cải và mời họ sống theo Chúa Kitô: “Mang
niềm vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong
Gia Đình
NGÀY 16-10
Thánh Hedviges, nữ tu
Thánh Margarita Alacoque, trinh nữ
Rm 4, 1-8; Lc 12, 1-7
LỜI SUY NIỆM: “Anh em phải coi chừng men Pharisêu, tức là thói đạo đức giả. Không có
gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết.
Vì thế, tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày; và
điều anh em rỉ tai trong buồng kín, sẽ được công bố trên mái nhà”.
Chúa Giêsu đã từng chứng kiến những lối sống giả hình của người
Pharisêu. Nên Chúa đề nghị với mỗi người trong chúng ta phải coi chừng men
Pharisêu, tức là thói đạo đức giả. Bởi tất cả mọi cử chỉ, lời nói và hành động
giả hình, đều là những cám dỗ quỷ quyệt do ma quỷ bày ra để lôi kéo đi theo
chúng. Tất cả những gì là giả hình, đều mang tính đánh lừa những người chung
quanh; đôi khi vì muốn nâng mình lên, muốn che đậy những điều xấu xa mình làm,
đã dùng đến phương kế rỉ tai nói xấu, bôi nhọ người khác. Điều này Chúa Giêsu
đang cho chúng ta biết: “Không có gì bí mật mà người ta không biết”. Với thời
gian tất cả mọi sự đều được phơi bày trước ánh sáng.
Lạy Chúa Giêsu. Tất cả mọi sự giả hình đều là xấu. Tất cả những
rỉ tai nói xấu người khác đều xấu. Xin ban cho mọi thành viên trong gia đình
chúng con tránh được những cử chỉ cũng như những hành động xấu này, khi sống với
nhau. Để xứng đáng là con cái cái Chúa.
Mạnh Phương
Gương
Thánh Nhân
Ngày 16-10
Thánh MAGARITA MARIA ALACOQUE
Đồng Trinh (1647 - 1690)
Thánh Magarita sinh ngày 22 tháng 6 năm 1674 tại Lauthecour miền
Charolais. Ngài là con thư năm của ông Claude Alacoque, một viên chức triều
đình. Khác với các trẻ em cùng tuổi chỉ ham chơi, Magarita dường như hiểu rằng
chỉ có yêu mến Chúa mới là điều quan trọng. Biết được điều gì không đẹp lòng
Chúa là Ngài bỏ ngay. Mới 4 tuổi, Ngài đã lần chuỗi Mân côi hàng ngày và thường
lẻn vào rừng để suy gẫm cầu nguyện.
Lên 8 tuổi, Magarita gặp thử thách lớn lao. Cha Ngài từ trần.
Không đòi được tiền nợ. Mẹ Ngài phải dẫn con về quê ngoại, sống với những người
tham lam quê mùa. Họ rút tỉa gia tài của gia đình Ngài đến nỗi phải đi ở đợ.
Magarita được gửi học tại tu viện thánh Clara. Nơi đây, Ngài được rước lễ lần đầu
và khoảng 9 tuổi.
Magarita lại gặp một thử thách nữa vào năm 14 tuổi. Khi ấy Ngài
ngã bệnh nặng. Nhưng rồi Ngài đã được chữa lành sau khi khấn hứa sẽ trở thành
con Đức Mẹ. Khỏi bệnh Ngài bị cám dỗ sống đời vui chơi phù phiếm. Không chịu thỏa
hiệp với nếp sống như thế, Ngài bị người chung quanh đối xử tàn tệ. Muốn đi dự
lễ, Ngài phải mượn áo. Có những ngày Ngài bị bỏ đói. Khi mẹ lâm bệnh, Ngài phải
đi ăn xin để chạy chữa cho mẹ. Dầu vậy, Ngài chỉ ham đọc truyện các thánh và muốn
bắt chước các Ngài, sống đời hy sinh bác ái.
Biết Chúa gọi mình, Magarita cố gắng để mình đỡ bất xứng với ơn
gọi. Nhân dịp năm thánh, Ngài xưng tội chung và đã mất 15 ngày để xét mình. Hai
mươi tuổi, Ngài được thêm sức và nhận thêm tên thánh Maria. Sau nhiều chiến đấu
cực nhọc, ngay với chính mình, tháng 6 năm 1671, Magarita vào dòng thăm viếng ở
Paray-le-Monnical, sống với 40 nữ tu quý phái mà một số không có ơn kêu gọi:
Trong cuộc tĩnh tâm dọn mình khấn dòng, Chúa nói với Ngài: - Này
là vết thương cạnh sườn Cha, nơi đây con hãy ẩn náu bây giờ và mãi mãi.
Ngày 6 tháng 11 năm 1672, Ngài khấn dòng. Ngài được Chúa Giêsu
cho thấy một thánh giá phủ đầy hoa và nói: Đây là giường các bạn tình trinh khiết
của ta nằm, dần dần hoa rụng xuống và chỉ còn lại những gai. Thị kiến này tiên
báo cuộc đời đầy chông gai thánh nữ sẽ trải qua. Nhưng Ngài chỉ biết hiến thân
cho Chúa "như một tấm vải căng trước mặt họa sĩ". Ngài sẽ còn xuất thần
và được nhiều thị kiến nữa.
Thị kiến đầu tiên trong bốn thị kiến quan trọng xảy ra vào dịp
này, Chúa Giêsu tỏ trái tim Người ra: - Trái tim Cha cháy lửa yêu thương đối với
loài người và cách riêng đối với con, đến nỗi không còn giữ trong lòng được nữa,
ngọn lửa này con phải trải rộng ra.
Chúa Giêsu đã xin thánh nữ trái tim của Ngài và đặt vào lòng
mình. Ngài cảm thấy như ở trong hỏa lò. Khi Chúa Giêsu trả lại trái tim,
MAGARITA phải chịu mãi cơn đau đớn bên sườn và phải trích máu cho nhẹ bớt cơn
đau.
Trong thị kiến thứ hai, thánh nữ viết: - Người quả quyết với tôi
rằng: chúng ta phải tôn kính trái tim Chúa dưới hình thể trái tim con người.
Thị kiến thứ ba diễn ra ngày thư sáu đầu tháng nào đó không được
rõ. Đức Kitô dạy Ngài rước lễ mỗi thứ sáu đầu tháng.
Những thị kiến này kéo theo một thứ đau đớn thân xác. Thánh nữ đều
vui nhận hết. Tuy nhiên Ngài còn bị dằn vặt về tinh thần. Bề trên và chị em
trong dòng cho rằng: Ngài bị ám ảnh vì bệnh hoạn, đến mùa thu năm 1674, Thiên
Chúa hứa gửi một tôi tớ để trợ lực thánh nữ. Tháng 2 năm 1675, cha Claude la
Colombiere khấn trọn tại Lyon. Ngay sau đó, cha được cử về làm bề trên dòng tên
ở Paray, dưới sự ngạc nhiên của tất cả những ai đã theo dõi việc làm sáng giá của
cha ở Paris.
Không hề có kinh nghiệm về những cuộc xuất thần, cha có trí khôn
rất bén nhậy và bằng lòng với việc yêu mến Chúa Kitô trong "mây mù của sự bất
tri". Khi gặp Magarita, cha đã nói với mẹ Samaise: - Chị là một linh hồn
ưu tuyển.
Cha đã xác quyết cho thánh nữ về đường lối của Ngài.
Thị kiến trọng đại nhất diễn ra trong tuần bát nhật kính Mình
thánh Chúa năm 1676. Trước Thánh Thể trưng kính trên bàn thờ, thánh nữ đã nghe
những lời này: - Này là trái tim đã yêu thương loài người không còn tiếc rẻ gì,
đến độ mỏi mòn tiêu hao để làm chứng tình yêu đối với họ.
Và xin thánh nữ dành riêng ngày thứ sáu sáu tuần bát nhật kính
Thánh thể, để tôn thờ trái tim Người. Hôm đó, người ta rước lễ và long trọng
làm việc đền tạ. Cha Lolombière dạy thánh nữ viết ra tất cả các thị kiến của
Ngài rước khi cha dời đi Luân Đôn .
Cuộc bách hại của cộng đoàn lên tới cao điểm ngày 20 tháng 11
năm 1677, Chúa đã đòi thánh nữ Magarita dâng mình làm hiến vật cho sự công thẳng
của Chúa, để đền bù những tội phản nghịch cùng đức ái của cộng đoàn. Khi thánh
nữ quỳ xuống để làm như vậy, thì mọi người nghĩ rằng: Ngài bị mất trí. Đêm hôm
sau thật khó tin nổi. Ngài nói rằng: đau khổ trong đời gộp lại cũng không thể
sánh nổi với những gì Ngài đã phải chịu đêm ấy.
Lễ lên trời năm 1678, mẹ Saumaise rời chức vụ. Ngày 17 tháng 6 mẹ
Greyfié được Chúa quan phòng đưa lên để làm sáng tỏ vấn đề. Trắc nghiệm thánh nữ,
mẹ thấy thánh nữ rất mực khiêm tốn. Mẹ còn quyết định rằng: thánh nữ phải được
lành bệnh hoàn toàn trong một thời gian nhất định, để chứng tỏ rằng các thị kiến
là chân thực.
Năm 1684, mẹ Greyjié rời Paray, một thế hệ các nữ tu trẻ xuất hiện.
Magarita được chỉ định làm giáo tập. Ngày 20 tháng 6 năm 1685, lễ thánh
Magarita nhằm ngày thứ sáu, Magarita dạy các tập sinh, thay vì tặng quà cho
Ngài, hãy dâng cho Chúa một vinh dự. Họ dọn một bàn thờ nhỏ và đặt hình Trái
tim bị thương tích có mão gai và lửa chung quanh. Tháng 6 năm 1686, các nữ tu tôn
kính trái tim Chúa trong nguyện đường. Ngày 07 tháng 9 năm 1688, một nguyện đường
nhỏ đầu tiên trong vườn được thánh thiến để kính trái tim.
Ngày 08 tháng 10 năm 1960, Magarita mang bệnh và ngày 17 tháng
10 năm đó Ngài từ trần, lúc 43 tuổi. Các nữ tu thấy Ngài trở nên xinh đẹp lạ
lùng. Ngài được phong chân phước năm 1864 và tuyên thánh 1920.
(daminhvn.net)
16 Tháng Mười
Xin Cho
Chúng Con Lương Thức Hằng Ngày
Hôm nay là ngày quốc tế về lương thực do tổ chức Lương Nông của
Liên Hiệp Quốc đề xướng.
Nói đến lương thực, nhất là trong một quốc gia nghèo đói như Việt Nam, có lẽ tự nhiên, ai trong chúng ta cũng nghĩ đến cái đói trên thế giới.
Nói đến lương thực, nhất là trong một quốc gia nghèo đói như Việt Nam, có lẽ tự nhiên, ai trong chúng ta cũng nghĩ đến cái đói trên thế giới.
Ðói không chỉ là một trạng thái cần ăn uống, nhưng được các
chuyên viên về thực phẩm và sức khỏe định nghĩa như là một tình trạng thường
xuyên của một người không đủ ăn để có thể có một cuộc sống lành mạnh. Danh từ
chuyên môn thường được dùng để chỉ tình trạng này là dưới mức dinh dưỡng. Nạn
nhân dễ thấy nhất của tình trạng này là các trẻ em của những nước nghèo.
Mỗi năm người ta tính có đến 15 triệu trẻ em chết vì nhiều
nguyên do có liên quan đến tình trạng thiếu dinh dưỡng. Mỗi ngày, trên khắp thế
giới, có khoảng 40 ngàn trẻ em chết vì đói. Số người chết vì đói ăn cũng tương
đương với số thương vong nếu cứ ba ngày có một trái bom hạt nhân được ném xuống
một vùng đông dân cư.
Có rất nhiều nguyên nhân đưa đến nạn đói kém. Người ta cho rằng
nguyên nhân chính nằm trong chính sách kinh tế, chế độ chính trị, xã hội. Nhưng
tựu trung, căn rễ sâu xa nhất vẫn là sự ích kỷ của con người. Nếu một phần mười
những người giàu có trên thế giới biết san sẻ cho những người nghèo, thì có lẽ
thế giới này không còn có những trẻ em chết đói mỗi ngày nữa. Nếu ngay cả trong
một quốc gia, người ta biết dùng tiền bạc để mua cơm bánh cho con người hơn là
đầu tư vào khí giới, thì chắc chắn sẽ không còn cảnh người chết đói nữa.
Tại một vài quốc gia kỹ nghệ đang chuyển mình để bước vào cuộc
cách mạng kỹ nghệ lần thứ ba, người ta thường nói đến kỷ nguyên điện toán, thụ
thai trong ống nghiệm... Thế nhưng, tại rất nhiều nơi trên thế giới, mỗi ngày vẫn
có đến 40 ngàn trẻ em chết vì đói ăn... Thế giới của chúng ta quả là một nhân
thể bệnh hoạn. Một nơi nào đó trong cơ thể, một số bộ phận phát triển một cách
dư dật, một nơi khác, nhiều cơ phận đang chết dần chết mòn vì thiếu tiếp tế.
Có lẽ nhân loại chúng ta không chết đói cho bằng vì thiếu tình
thương. Những người đang chờ chết cũng là những người đang chờ từng nghĩa cử
yêu thương của đồng loại. Những người dư dật nhưng không biết san sẻ cũng là những
người đang chết dần trong ích kỷ. Con người cần có cơm bánh để sống đã đành,
nhưng con người cũng cần có tình thương để tồn tại. Kẻ đón nhận tình thương
cũng được sống mà người san sẻ tình thương cũng được sống.
Chúng ta phải làm gì để được sống? Dĩ nhiên, chúng ta phải có đủ
cơm bánh hằng ngày. Nhưng câu trả lời mà mỗi người Kitô phải tự nói với mình
là: để được sống, tôi cần phải làm cho người khác được sống. Ðó là sự sống đích
thực của chúng ta. Bởi vì ai sống trong tình yêu, người đó sống trong Thiên
Chúa.
(Lẽ Sống)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét