11/04/2016
Thứ Hai tuần 3 Phục Sinh
Bài Ðọc
I: Cv 6, 8-15
"Họ
không thể đương đầu với sự khôn ngoan và Thánh Thần vẫn giúp cho ông nói".
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Trong
những ngày ấy, Têphanô đầy ân sủng và sức mạnh, làm nên những điều kỳ diệu và
những phép lạ cả thể trong dân. Bấy giờ có nhóm người kia thuộc hội đường mệnh
danh là "của những người Tự Do, người Xirênê và Alexandria", và những
người khác từ xứ Cilicia và Tiểu Á, đã nổi dậy. Họ tranh luận với Têphanô,
nhưng họ không thể đương đầu với sự khôn ngoan và Thánh Thần vẫn giúp cho ông
nói. Họ xúi giục một số người nói lên rằng: "Chúng ta đã nghe nó nói những
lời lộng ngôn phạm đến Môsê và Thiên Chúa". Họ xách động dân chúng, các kỳ
lão và luật sĩ; rồi họ tuôn đến bắt Têphanô điệu tới công nghị. Họ đưa ra những
người làm chứng gian nói rằng: "Tên này không ngớt nói những lời xúc phạm
đến nơi thánh và lề luật, vì chúng tôi nghe nó nói rằng: "Ông Giêsu
Nadarét sẽ phá nơi này, và thay đổi các tập tục Môsê truyền lại cho chúng
ta". Toàn thể cử toạ trong công nghị chăm chú nhìn Têphanô, thấy mặt người
giống như mặt thiên thần.
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 118, 23-24. 26-27. 29-30
Ðáp: Phúc cho ai theo đường lối tinh toàn
(c. 1a).
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Dầu vua chúa hội lại và buông lời đả kích, tôi tớ Ngài vẫn suy gẫm về thánh
chỉ Ngài. Vì các lời nghiêm huấn của Ngài là điều con ưa thích, các thánh chỉ
Ngài là những bậc cố vấn của con. - Ðáp.
2)
Con đã trình bày đường lối của con và Chúa nghe con, xin dạy bảo con các thánh
chỉ của Ngài. Xin cho con am hiểu đường lối huấn lệnh của Chúa, để con suy gẫm
các điều kỳ diệu của Ngài. - Ðáp.
3)
Xin đưa con xa cách con đường gian dối, và rộng tay ban luật pháp của Ngài cho
con. Con đã chọn con đường chân lý, con quyết tâm theo các thánh chỉ của Ngài.
- Ðáp.
Alleluia:
Ga 16, 28
Alleluia,
alleluia! - Thầy bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian, rồi bây giờ Thầy bỏ
thế gian mà về cùng Cha. - Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 6, 22-29
"Hãy
ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến
cuộc sống đời đời".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Hôm
sau, đám người còn ở lại bên kia biển thấy rằng không có thuyền nào khác, duy
chỉ có một chiếc, mà Chúa Giêsu không lên thuyền đó với các môn đệ, chỉ có các
môn đệ ra đi mà thôi. Nhưng có nhiều thuyền khác từ Tibêria đến gần nơi dân
chúng đã được ăn bánh. Khi đám đông thấy không có Chúa Giêsu ở đó, và môn đệ
cũng không, họ liền xuống các thuyền kia và đến Capharnaum tìm Chúa Giêsu.
Khi gặp
Người ở bờ biển bên kia, họ nói với Người: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?"
Chúa Giêsu đáp: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm ta không phải
vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê.
Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn
tồn tại cho đến cuộc sống đời đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi.
Người là Ðấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu". Họ liền thưa lại rằng:
"Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" Chúa Giêsu
đáp: "Ðây là công việc của Thiên Chúa, là các ngươi hãy tin vào Ðấng Ngài
sai đến".
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm:
Hãy Tin Ðấng Thiên Chúa Ðã Sai
Khởi
đầu cho nghề nghiệp phim ảnh của nhà đạo diễn kiêm sản xuất phim nổi tiếng khá
đặc biệt so với những người khác, đó là Charlot. Năm lên 17 tuổi, Charlot đến
New York để học về âm nhạc, và mộng ước của anh đã toại nguyện, anh đã trở
thành một nhạc sĩ. Nhưng để có tiền ăn học trong thời gian này, anh đã xin một
chân giữ trật tự trong rạp hát. Anh được trao cho một bộ quần áo đặc biệt với
chiếc mũ rộng vành và lên trước sân khấu ra hiệu lệnh: "Xin quí vị vui
lòng vào chỗ ngồi. Buổi chiếu phim bắt đầu".
Charlot
chẳng thích mấy câu hiệu lệnh ngắn ngủi và nhàm chán này. Thay vào đó, anh giới
thiệu một vài điều về cuốn phim sắp chiếu. Khán giả rất hài lòng về cách giới
thiệu ấy, và khi cần, hiệu lệnh vẫn được ổn định. Tuy nhiên, nếu muốn lôi cuốn
khán giả, Charlot lại phải tìm hiểu về phim ảnh nhiều hơn. Và rồi từ giấc mộng
trở thành nhạc sĩ, anh đã trở thành nhà đạo diễn kiêm sản xuất phim lúc nào chẳng
hay.
Anh
chị em thân mến!
Từ
lúc nghe tiếng gọi: "Hãy theo Ta" và từ lúc theo Ðức Giêsu, chắc chắn
các tông đồ chẳng hiểu bao nhiêu về Thầy mình và những giáo lý của Thầy. Hai
thánh tông đồ Philipphê và Giacôbê cũng không nằm ngoài nhóm ấy.
Ðược
gọi là môn đệ của Ðức Giêsu nhưng lại chẳng hiểu biết bao nhiêu về giáo huấn của
Ngài quả là một điều đáng trách. Tuy nhiên, nó không khiến cho con người bị quở
trách cho bằng một thái độ tự mãn và cố chấp trong những điều không hiểu biết ấy.
Như Chúa Giêsu đã không tiếc lời với biệt phái và luật sĩ, những kẻ tự cho mình
là những người nắm giữ chìa khóa khôn ngoan.
Sai lầm
và ngộ nhận là thân phận của con người, con người sẽ không bị trách phạt về những
khiếm khuyết ấy, nếu họ biết thành thật trao đổi với Ðức Giêsu. Phêrô đã âu lo
hỏi Thầy: "Chúng con bỏ mọi sự mà theo Thầy thì sẽ được gì?" Gioan và
Giacôbê đã nhờ mẹ xin cho được một chỗ ngồi bên phải và bên trái Thầy.
Philipphê xin được thấy Chúa Cha. Khiếm khuyết đã làm cho các ông trở thành đối
tượng của khinh ghét, coi thường, nhưng lại là những cơ hội quí báu cho các ông
hoặc cho những ai đang nghe Chúa giảng được thật sự thấu hiểu về Chúa Giêsu và
giáo lý của Ngài.
Ðằng
khác, những thiếu sót và hiểu biết cũng không cất đi sứ mạng rao giảng của người
môn đệ. Không phải đợi đến lúc đầy kiến thức con người mới giới thiệu Thiên
Chúa cho kẻ khác, chỉ cần mới biết về Ngài là họ đã nhận nhiệm vụ nói về Ngài.
Vừa được gặp Ðức Giêsu xong, Philipphê liền giới thiệu cho Nathanael, và có lẽ
suốt thời gian theo Thầy ông cũng không ngừng giới thiệu Thầy. Vì thế mà nhóm
người Hy Lạp lúc về dự lễ tại Giêrusalem đã nhờ ông dẫn đến gặp Chúa Giêsu.
Rao
giảng Ðức Giêsu, đó là nhiệm vụ được trao ban cho những ai đã được nghe biết về
Ngài, dù cho đó chỉ là một lần gặp gỡ, dù cho đó là thời gian thuận tiện hay
không.
Trong
cuộc sống hằng ngày, ước mong mỗi người trong chúng ta sẽ học biết nơi hai
thánh Philipphê và Giacôbê thái độ đối thoại chân thành, không hổ thẹn về các
khiếm khuyết nhưng sẵn sàng rộng mở để rồi chúng sẽ trở thành những cơ hội quí
báu được hiểu biết thêm về Chúa và về anh em. Ðồng thời cũng không quên nhiệm vụ
giới thiệu Ðức Kitô cho người khác, một nhiệm vụ được trao ban từ ngày lãnh nhận
bí tích Rửa tội.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ
Hai Tuần III PS
Bài đọc: Acts 6:8-15; Jn 6:22-29.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy tin vào Đấng mà Thiên Chúa sai đến.
Cùng
chứng kiến một sự kiện, nhưng mỗi người nhìn dưới góc cạnh khác nhau: Có những
người nhìn ra sự thật ngay; có những người mất thời gian lâu dài mới có thể nhận
ra sự thật; nhưng cũng có những người cố giữ thái độ ngoan cố không chịu nhìn
nhận sự thật. Trong biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô cũng thế: Khi các
Tông-đồ và nhiều người Do-thái nhận ra lầm lỗi của họ, qua việc kết án và đóng
đinh Con Thiên Chúa, họ đã ăn năn sám hối và trở lại làm chứng cho Ngài; nhưng
ngược lại, vẫn có những người ngoan cố không chịu tin, họ tiếp tục dùng sức mạnh
và mưu mô để truy tố và luận tội các môn đệ của Chúa.
Các
Bài Đọc hôm nay vạch ra những cái nhìn sai trái và hành động không đúng của con
người. Trong Bài Đọc I, Phó-tế Stephanô tranh luận với những người Do-thái thuộc
Nhóm nô lệ được giải phóng về giáo lý của Chúa Giêsu về Đền Thờ và Lề Luật. Dù
họ không địch nổi với ông, họ vẫn tìm người phao tin đồn thất thiệt để có cớ bắt
ông trao cho Thượng Hội Đồng. Trong Phúc Âm, dân chúng đi tìm Chúa Giêsu, không
phải vì nhận ra Ngài là Đấng Thiên Sai, nhưng vì để có lương thực hàng ngày.
Chúa Giêsu sửa sai lối nhìn của họ: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương
thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là
thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng
Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Họ thấy mặt ông giống
như mặt thiên sứ.
1.1/
Xung đột giữa Phó-tế Stephanô và hội đường của Nhóm nô lệ được giải phóng: Ông là một trong 7 Phó-tế mới được chọn
để phục vụ cho các bà góa theo văn hóa Hy-lạp. Ông được đầy ân sủng và quyền
năng, đã làm những điềm thiêng dấu lạ lớn lao trong dân.
Đối
thủ của ông là những người thuộc hội đường gọi là hội đường của nhóm nô lệ được
giải phóng, gốc Cyrene và Alexandria. Họ cùng với một số người gốc Cilicia và
Asia, đứng lên tranh luận với ông Stephanô; nhưng họ không địch nổi lời lẽ khôn
ngoan mà Thánh Thần đã ban cho ông. Khi không dùng trí khôn ngoan để thắng ông
được, họ quay qua dùng những thủ đoạn hèn hạ. Họ bầy mưu tố cáo Stephanô bằng
cách xui mấy người phao lên rằng: "Chúng tôi đã nghe hắn nói lộng ngôn xúc
phạm đến ông Moses và Thiên Chúa."
1.2/
Phó-tế Stephanô bị bắt và buộc tội: Những người này sách động dân và các kỳ mục cùng kinh sư, rồi ập
đến bắt ông và điệu đến Thượng Hội Đồng. Họ đưa mấy người chứng gian ra khai rằng:
"Tên này không ngừng nói những lời phạm đến Nơi Thánh và Lề Luật. Vì chúng
tôi đã nghe hắn nói rằng Giêsu người Nazareth sẽ phá huỷ nơi này và thay đổi những
tục lệ mà ông Moses đã truyền lại cho chúng ta." Phó-tế Stephanô có lẽ đã
tranh luận với họ về 3 điểm chính:
(1)
Nơi Thánh (tức Đền Thờ) phải qua đi để mọi người có thể thờ phượng Chúa trong
tinh thần và chân lý (Jn 4:20-24). Sự thật hiển nhiên là tuy Đền Thờ Jerusalem
đã bị phá hủy hoàn toàn vào năm 70 AD, Dân Chúa vẫn tiếp tục thờ phuợng Chúa ở
mọi nơi, mọi thời, và mọi lúc.
(2) Lề
Luật phải hướng tới sự làm nên trọn vẹn của Đức Kitô, và Tin Mừng của Ngài cần
được rao giảng cho mọi người; chứ không phải để họ tự ý phiên dịch Lề Luật, rồi
bóc lột dân nghèo và đàn áp những người công chính.
(3)
Ơn Cứu Độ dành cho mọi người: Người Do-thái vẫn tự tôn nghĩ rằng chỉ có họ mới
là con Thiên Chúa và xứng đáng được cứu độ, mọi dân tộc khác chỉ xứng đáng làm
nô lệ cho họ và tiền định để sa hỏa ngục. Họ không biết rằng đặc quyền Thiên
Chúa ban cho họ, là để họ mang nhiều người về cho Thiên Chúa.
Họ biết
ông vô tội qua lời trình thuật: “Toàn thể cử toạ trong Thượng Hội Đồng đều nhìn
thẳng vào ông Stephanô, và họ thấy mặt ông giống như mặt thiên sứ.” Nhưng họ vẫn
ngoan cố buộc tội ông như đã từng buộc tội Chúa Giêsu.
2/
Phúc Âm: "Việc Thiên
Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến."
2.1/ Dân
chúng kéo nhau đi tìm Chúa Giêsu vì muốn được ăn no: Trình thuật hôm nay tiếp tục trình thuật
Chúa làm phép lạ “Bánh hóa nhiều” cho dân chúng ăn no nê; sau đó, họ muốn tôn
Ngài làm vua. Chúa Giêsu truyền lệnh cho các Tông-đồ chèo thuyền qua Capernaum
trước, còn Ngài đi lên núi cầu nguyện. Ngài đến cứu các ông khi Biển Hồ dậy
sóng và đưa các ông cặp bến bình an.
Hôm
sau, đám đông dân chúng còn đứng ở bờ bên kia Biển Hồ, thấy rằng ở đó chỉ có một
chiếc thuyền và Đức Giêsu lại không cùng xuống thuyền đó với các môn đệ, nhưng
chỉ có các ông đi mà thôi. Tuy nhiên, có những thuyền khác từ Tiberias đến gần
nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng lời tạ ơn. Vậy khi dân chúng thấy
Đức Giêsu cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi
Capernaum tìm Người.
Khi gặp
thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?"
Đức
Giêsu thấu hiểu những gì trong lòng họ, nên Ngài đáp: "Thật, tôi bảo thật
các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các
ông đã được ăn bánh no nê.”
2.2/
Chúa Giêsu khuyên họ hãy tìm những giá trị vĩnh cửu.
(1)
Lương thực hư nát và không hư nát: Ngài khuyên bảo họ: “Các ông hãy ra công làm
việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn
đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi
vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận." Lương thực
mau hư nát Chúa Giêsu muốn nói ở đây là của ăn uống nuôi dưỡng phần xác, chúng
vào qua cửa miệng rồi tan biến đi. Lương thực không hư nát là Lời Chúa và Mình
Thánh Chúa như sẽ được đề cập đến gần cuối chương 6; những lương thực này sẽ
nuôi dưỡng phần linh hồn của con người, và giúp họ đạt đến cuộc sống vĩnh cửu
sau này.
(2)
Thi hành thánh ý của Thiên Chúa: Họ liền hỏi Người: "Chúng tôi phải làm gì
để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?" Đức Giêsu trả lời: "Việc
Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến." Ngoài
những lương thực mà Chúa Giêsu sẽ ban cho, họ còn phải luôn mong muốn chu toàn
thánh ý Thiên Chúa, như chính Chúa Giêsu đã tuyên bố với các Tông-đồ khi các
ông thúc giục Ngài ăn: “Của ăn Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta” (Jn 4:34). Ý của
Thiên Chúa muốn cho mọi người là tin vào Chúa Kitô để được hưởng ơn Cứu Độ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải giữ một thái độ khách quan và thiện chí khi đi tìm sự thật, và cầu
xin để Chúa Thánh Thần soi sáng và hướng dẫn chúng ta nhận ra sự thật.
-
Chúng ta phải dùng sự khôn ngoan của Thiên Chúa ban để nhận ra và hướng dẫn người
khác nhận ra và chấp nhận sự thật. Đừng bao giờ dùng sức mạnh để bắt ép, và
dùng những mưu mô thủ đọan để truy tố những người công chính.
-
Chúng ta hãy ra sức tìm những của ăn không hư nát: Thiên Chúa, Lời Chúa, Mình
Chúa, Ý Chúa, sự thật, cuộc sống đời sau, công bằng và bác ái… Đừng để những lo
lắng và cám dỗ thế gian làm chúng ta quên đi hay không dám sống cho những giá
trị vĩnh cửu này.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
11/04/16 THỨ HAI TUẦN 3 PS
Th. Ta-nít-lao, giám mục, tử đạo
Ga 6,22-29
Th. Ta-nít-lao, giám mục, tử đạo
Ga 6,22-29
Suy niệm: Con người hôm nay hầu như ai nấy đều bị thu
hút vào công việc nhằm tạo ra thật nhiều của cải để có thể ăn ngon, mặc đẹp,
sức khỏe tốt, cuộc sống ngày càng kéo dài: thuốc chống lão hóa, kỹ thuật dinh
dưỡng, kỹ thuật ướp xác chờ hồi sinh… Nhưng tất cả vẫn còn là một ẩn số. Con
người vẫn thấy thiếu một cái gì đó. Đúc Giê-su khơi dậy những khao khát tốt đẹp
đang ngủ quên nơi con người: cơn đói này còn kinh khủng hơn cả đói thân xác, đó
là đói khát Thiên Chúa. Chúa Giê-su chính là nguồn sống đáp ứng được sự đói
khát của con người. “Ai
đến với tôi không hề phải đói, ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ”.
Mời Bạn: Chúa
Giê-su mời gọi chúng ta phải vượt lên những cái tầm thường của cuộc sống. Ngoài
lương thực hằng ngày, chúng ta còn cần lương thực thiêng liêng. Bánh hằng sống
chính là Chúa Giê-su trong Bí tích Thánh Thể: bánh của trời và vĩnh cửu chứ
không phải bánh của đất và hữu hạn. Hãy đến với Giê-su, hãy tin vào Giê-su.
Chia sẻ: Bạn
có cảm nghiệm gì khi rước Chúa? Đức Ki-tô có thực sự là lương thực cho bạn sống
không?
Sống Lời Chúa: Đừng
để công việc chi phối bạn đến đỗi bạn lơ là đời sống đạo.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho
tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được sự phong phú của kho tàng trên trời là chính
Đức Giê-su, Đấng chúng con phải tin thờ.
Lương thực thường tồn
Đức Giêsu mong nuôi được
nhiều người hơn, nuôi được mọi người. Không phải chỉ nuôi bằng thức ăn trần thế
là bánh và cá, mà nuôi bằng giáo huấn của mình, bằng chính con người mình.
Suy
niệm:
Xóa
đói giảm nghèo, giảm số trẻ em suy dinh dưỡng,
nâng
chiều cao của giới trẻ Việt Nam lên bằng các nước trong vùng,
đó
là mối quan tâm của những người mang trách nhiệm,
vì
sức khỏe thân xác cần thiết cho sự phát triển toàn diện con người.
Làm
sao để con người lớn lên cân đối về mọi mặt,
đó
là mục tiêu tối hậu của mọi công tác giáo dục.
Đức
Giêsu đã làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám đông.
Ngài
quan tâm đến nhu cầu của thân xác họ.
Nhưng
Ngài cũng biết rằng không thể làm phép lạ như thế mãi.
Hơn
nữa, phép lạ này chỉ giúp họ khỏi đói trong vài giờ,
và
đây là cái đói của thân xác.
Phép
lạ này dù lớn, nhưng chỉ nuôi được một đám đông vài ngàn người,
vẫn
còn bao người trên thế giới cần được nuôi ăn.
Đức
Giêsu mong nuôi được nhiều người hơn, nuôi được mọi người.
Không
phải chỉ nuôi về thân xác, mà nhất là về tinh thần.
Không
phải chỉ nuôi bằng thức ăn trần thế là bánh và cá,
mà
nuôi bằng giáo huấn của mình, bằng chính con người mình.
Sau
phép lạ bánh hóa nhiều, khi đám đông định tôn Đức Giêsu lên làm vua,
chắc
họ đã nghĩ đến sự bảo đảm về mặt vật chất mà Ngài mang lại.
Lúc
nào cũng có bánh ăn no nê,
đó
là ước mơ của nhiều người nghèo thời ấy.
Nhưng
Đức Giêsu đã từ chối đứng lên khởi nghĩa giành độc lập.
Ngài
không phải là một Mêsia làm chính trị.
Bánh
và cá mà Ngài giúp họ tạm thời vượt qua cơn đói
chỉ
là thứ lương thực mau hư nát dành cho xác thân (c. 27).
Lương
thực đó là dấu chỉ cho một thứ lương thực khác Ngài sắp ban.
Đó
là lương thực thường tồn đem lại sự sống vĩnh cửu (c. 27).
Hẳn
nhiên, lương thực sau này quan trọng hơn nhiều.
Theo
Mẹ Têrêsa Calcutta, người nghèo hôm nay cần cơm bánh,
nhưng
còn cần những thức ăn tinh thần khác nữa.
Cái
đói của thân xác không cồn cào bằng cái đói tinh thần.
Con
người đói công bằng và hạnh phúc, đói yêu thương và kính trọng.
Con
người khát niềm vui và bình an, cảm thông và sự thật.
Cầu
nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
có
một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm,
ngọn
đèn đỏ mời con dừng bước chân,
và
nhắc con về sự hiện diện của Chúa.
Con
mong sự hiện diện ấy lan tỏa khắp nơi,
để
đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ.
Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp,
nơi
lớp học tình thương lúc chiều tà,
nơi
những trung tâm phục hồi nhân phẩm,
nơi
bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ,
nơi
khách sạn năm sao, noi quán bia đầu ngõ,
nơi
các tiệm cho mướn băng video,
noi
tình yêu trong ngần của đôi bạn trẻ...
Nhưng lạy Chúa, trước hết,
xin cho đời con là một ngọn đèn,
xin
cho chúng con là những ngọn đèn màu đỏ,
mời
người ta dừng lại, trầm tư,
và
gặp được Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
11
Tháng Tư
Ðám Cưới Vĩ Ðại Nhất
Một
trong những đám cưới được xem là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại đó là đám
cưới của Alexandre Ðại đế với công chúa Roxane của Ba Tư vào thế kỷ thứ tư trước
công nguyên.
Khi
quyết định một người Á châu, dĩ nhiên, Alexandre theo tiếng gọi của con tim.
Nhưng qua cuộc hôn nhân này, ông muốn biểu tỏ ý muốn thống nhất tất cả lãnh thổ
đã được chinh phục từ Ðông sang Tây. Ông cũng hy vọng có một người con nối dõi
với hai dòng máu Ðông Tây để thống nhất hai phần đất của địa cầu.
Ðám
cưới được cử hành trong vòng bảy ngày, bảy đêm. Nơi nơi đều có yến tiệc. Và để
tăng thêm phần long trọng, Alexandre đã cho tổ chức những cuộc tranh tài thể
thao: thế vận hội đã được khai sinh từ đó. Chính Ðại đế là người đích thân trao
giải thưởng cho những người thắng cuộc. Thông thường hoàng đế trao tặng những
chiếc cúp bằng vàng. Nhưng, người được coi là đoạt được nhiều giải thưởng nhất
trong cuộc thi thế vận hội đầu tiên ấy chỉ nhận được có mỗi một cành lá.
Alexandre Ðại đế giải thích như sau: chỉ có vinh hiển mới có thể tưởng thưởng
được người xuất sắc nhất.
Có một
hôn lễ còn vĩ đại gấp bội so với hôn lễ của Alexandre Ðại đế với công chúa
Roxane: đó là hôn lễ của Trời với Ðất, của Thiên Chúa với Nhân Loại. Ðây là cuộc
hôn lễ mà loài người đã chờ đợi từ khi có mặt trên trái đất. Hôn lễ ấy diễn ra
qua việc Con Thiên Chúa xuống thế mặc lấy xác phàm. Ngài đến không kèn không trống,
không quân đội, không thế vận hội. Ngài không mang lại các cúp vàng, Ngài không
chỉ trao cành lá vinh thắng cho một người, nhưng cho tất cả mọi người. Ai cũng
có thể chiến thắng cho cuộc sống của mình và ai cũng có thể nhận lãnh cành lá
vinh hiển ấy.
Ai
trong chúng ta cũng có một phần thưởng vô giá, ai trong chúng ta cũng là người
đoạt giải nhất và ai trong chúng ta cũng nhận được cành lá vinh hiển của sự sống
đời đời.
Với
Chúa Giêsu là Ðấng đã thắng thế gian và đang tiếp tục chiến đấu bên cạnh chúng
ta, chúng ta tin chắc rằng chúng ta cũng sẽ chiến thắng.
Lẽ Sống





Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét