05/10/2016
Thứ Tư tuần 27 thường niên.
Bài Ðọc
I: (Năm II) Gl 2, 1-2. 7-14
"Các
đấng đã nhận biết ơn đã ban cho tôi".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh
em thân mến, mười bốn năm sau, tôi lại lên Giêrusalem cùng với Barnaba và có
đem Titô theo. Tôi đã theo ơn mạc khải mà lên đó, và tôi đã trình bày với các đấng
đó về Tin Mừng mà tôi rao giảng nơi các dân ngoại, tôi bàn hỏi riêng với những
bậc vị vọng, vì e rằng mình đang bôn tẩu hoặc đã bôn tẩu luống công chăng.
Trái
lại, khi các đấng ấy thấy rằng tôi được uỷ nhiệm rao giảng Tin Mừng cho người
không chịu cắt bì, cũng như đã uỷ nhiệm cho Phêrô rao giảng cho những người đã
chịu cắt bì, (vì Ðấng đã ban cho Phêrô làm Tông đồ cho những người đã chịu cắt
bì, cũng đã ban cho tôi làm Tông đồ lo cho các dân ngoại), và khi đã nhận biết
ơn đã ban cho tôi, thì Giacôbê, Kêpha và Gioan, là những vị được kể như cột trụ,
đã bắt tay tôi và Barnaba, tỏ tình thông hảo. Thế là chúng tôi đi sang các dân
ngoại, còn các đấng thì đi đến với những người đã chịu cắt bì. Bấy giờ chúng
tôi chỉ còn phải nhớ đến những người nghèo khổ, và đó là chính điều tôi đã định
tâm thi hành.
Nhưng
khi Kêpha đến Antiôkia, tôi đã phản đối ông ngay trước mặt, vì ông làm điều
không phải. Vì chưng trước khi mấy người bên Giacôbê đến, thì ông vẫn dùng bữa
với những người dân ngoại, nhưng khi những người ấy đến, thì ông lẩn lút và tự
lánh mặt đi, bởi sợ những người thuộc giới cắt bì. Những người Do-thái khác đều
giả hình như ông, thậm chí cả Barnaba cũng bị lôi cuốn theo sự giả hình của họ.
Nhưng khi thấy họ không thẳng thắn sống theo chân lý Tin Mừng, tôi đã nói với
Kêpha trước mặt mọi người rằng: "Nếu ông là Do-thái, mà còn sống theo thói
người dân ngoại, chứ không theo thói người Do-thái, thì lẽ nào ông bắt ép người
dân ngoại phải theo thói người Do-thái sao?
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 116, 1. 2
Ðáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế
gian (Mc 16, 15).
Xướng:
1) Toàn thể chư dân, hãy khen ngợi Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người!
- Ðáp.
2) Vì
tình thương Chúa dành cho chúng ta thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của
Chúa tồn tại muôn đời. - Ðáp.
Alleluia:
Mt 4, 4b
Alleluia,
alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng
Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 11, 1-4
"Lạy
Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày kia,
Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa
Người rằng: "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ
ông". Người nói với các ông: "Khi các con cầu nguyện, hãy nói:
"Lạy
Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay
lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ
chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ".
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm: Kinh Lạy Cha
Cầu nguyện là một việc quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu: Ngài
vào sa mạc 40 ngày để ăn chay và cầu nguyện trước khi bắt đầu sứ vụ công khai;
Ngài đã cầu nguyện suốt đêm trước khi tuyển chọn các Tông đồ; trong ba năm rao
giảng Tin Mừng, Ngài cũng đã nhiều lần tìm đến nơi thanh vắng để sống những giờ
phút thân tình với Chúa Cha trong cầu nguyện.
Ðược
nhiều lần chứng kiến Chúa Giêsu chìm sâu trong sự kết hiệp với Chúa Cha, và niềm
mong ước được đi vào sự hiệp thông với Chúa Cha, như Chúa Giêsu, các Tông đồ đã
đến xin Chúa Giêsu dạy họ cầu nguyện, và Ngài đã dạy họ Kinh Lạy Cha.
Trong
Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy các Tông đồ gọi Thiên Chúa là Cha. Thực ra, quan
niệm gọi Thiên Chúa là Cha không chỉ phổ thông trong dân tộc Do Thái: Trong Cựu
Ước, nhờ giáo huấn của các Tiên tri, người Do thái gọi Chúa là Cha: Ngài là Cha
của toàn dân; nhưng cả các dân tộc vùng Tiểu Á ngày xưa cũng gọi các thần minh
là Cha. Tuy nhiên, cách xưng hô Cha, tiếng Do thái là Abba, mà Chúa Giêsu dạy
các Tông đồ hoàn toàn khác hẳn với tiếng Cha của người Do Thái trong Cựu Ước.
Ðó là tiếng thông dụng thường ngày nơi miện con trẻ gọi cha mình. Như thế, tiếng
Cha trong Kinh Lạy Cha là nền tảng mạc khải của Chúa Giêsu và là lời tuyên tín
của Cộng đoàn Giáo Hội do Chúa Giêsu thiết lập, kêu lên với Thiên Chúa.
Kinh
Lạy Cha là kinh quen thuộc đối với người Kitô hữu chúng ta. Mỗi ngày chúng ta đọc
nhiều lần kinh này, thế nhưng chúng ta đã có thái độ thế nào? Người ta có lý để
bảo rằng chúng ta đọc kinh một cách máy móc, thiếu hồn sống. Sỡ dĩ như vậy là
vì chúng ta chưa ý thức đủ tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, chưa đi vào
quan hệ mật thiết với Thiên Chúa, như con cái đối với cha mình.
Ước
gì những giây phút dành riêng để gặp gỡ, tiếp xúc với Chúa, giúp chúng ta càng
thêm gắn bó, yêu mến và dấn thân thực thi thánh ý Chúa trong đời sống chúng ta.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ
Tư Tuần 27 TN2, Năm Chẵn
Bài
đọc: Gal 2:1-2, 7-14;
Lk 11:1-4.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nguyên tắc và
hành động
- Hành động muốn nhất quán phải theo một nguyên tắc, chứ không tùy hứng lúc nào
muốn làm thì làm khi nào không muốn thì không làm. Trong một cộng đòan cũng thế,
có một số nguyên tắc và qui luật tất cả mọi người phải giữ thì mới có sự hòa điệu
trong cộng đòan. Nếu để mặc ai muốn làm gì thì làm thì cộng đòan sẽ bị xáo trộn
và mất trật tự.
- Trong việc giáo dục cũng thế, để việc giáo dục các con trong gia đình có hiệu
quả, cha mẹ cần đồng ý với nhau một số qui tắc và triệt để tuân theo. Nếu cha mẹ
giáo dục tùy hứng và không đồng nhất, con cái dễ bị lẫn lộn không biết cái gì tốt
cái gì xấu, không biết phải theo ai và làm khi nào. Kết quả có thể con cái sẽ sống
buông thả mà không cần theo luật lệ.
- Trong Giáo Hội sơ khai cũng có những vấn đề như thế. Bài đọc I trình bày sự
cách biệt giữa người Do Thái và Dân Ngọai, một bên là Phaolô bên kia là Phêrô,
một số các Tông Đồ, và những người thuộc giới cắt bì. Trong Phúc Âm, khi được
yêu cầu dạy cho các môn đệ biết cách cầu nguyện, Chúa đã dạy cho các ông cách cầu
nguyện trong Kinh Lạy Cha. Kinh này tóm tắt một số các nguyên tắc quan trọng và
cần thiết khi một người cầu nguyện với Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Cần hành động theo
qui tắc để bảo vệ sự hiệp nhất trong Giáo Hội.
1.1/ Ý
ngay lành của Phaolô: Sự hiệp
nhất trong Giáo Hội là một trong những đề tài quan trọng của các Thư Phaolô.
Trong trình thuật hôm nay, thánh Phaolô muốn hiệp thông với Giáo Hội tại Jerusalem
nên ngài, cùng với Barnaba và Titus, lên đó để trình bày cho Phêrô, người lãnh
đạo Gíao Hội, và một số những người có thế giá trong Giáo Hội, về Tin Mừng mà
ngài rao giảng cho Dân Ngọai. Mục đích của ngài là để cho có sự thống nhất
trong đạo lý để đừng gây ngộ nhận cho các tín hữu mới trở lại theo Chúa.
1.2/ Mỗi
người có một sứ vụ khác nhau trong việc rao giảng cùng một Tin Mừng.
- Trong kế họach của Thiên Chúa, Phaolô được Chúa trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng
cho những người không cắt bì (Dân Ngọai); trong khi Phêrô được Chúa trao sứ vụ
rao giảng Tin Mừng cho những người cắt bì (Do Thái). Sứ vụ tuy có khác nhau
nhưng Đấng đã hoạt động nơi ông Phê-rô, biến ông thành Tông Đồ của những người
được cắt bì, cũng đã hoạt động biến Phaolô thành Tông Đồ các Dân Ngoại.
- Phải biết tôn trọng sứ vụ của người khác trong việc rao giảng Tin Mừng: Khi
nhận ra ân huệ Thiên Chúa đã ban cho Phaolô, các ông Giacôbê, Phêrô và Gio-an,
những người được coi là cột trụ, đã bắt tay Phaolô và Barnaba để tỏ dấu hiệp
thông: Phaolô và Barnaba thì lo cho các Dân Ngoại, còn Phêrô, Giacôbê và Gioan
thì lo cho những người được cắt bì. Một điều chung tất cả cùng nêu lên là phải
nhớ đến những người túng thiếu.
1.3/ Để
việc rao giảng Tin Mừng có hiệu quả, những người lãnh đạo phải hành động theo
những nguyên tắc nhất định.
Một ví dụ cụ thể là sự xung đột tường thuật hôm nay: Theo nguyên tắc: “Không
còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà;
nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô”(Gl 3:28-28), nhưng hành động của
các Tông Đồ và đám đông rất khác nhau:
- Hành động của Phêrô: Ông thường dùng bữa với những người gốc Dân Ngoại trước
khi có những người của ông Giacôbê đến; nhưng khi những người này đến, ông lại
tránh né và tự tách ra, vì sợ những người được cắt bì.
- Hành động của đám đông: Những người Do-thái khác cũng theo ông mà giả hình giả
bộ, khiến cả ông Barnaba cũng bị lôi cuốn mà giả hình như họ.
- Hành động của Phaolô: Khi ông Phêrô đến Antiôchia, Phaolô đã cự lại Phêrô
ngay trước mặt, vì ông đã làm điều đáng trách và không đi đúng theo chân lý của
Tin Mừng. Phaolô đã sửa sai Phêrô trước mặt mọi người: "Nếu ông là người
Do Thái mà còn sống như người Dân Ngoại, chứ không như người Do Thái, thì làm
sao ông lại ép người Dân Ngoại phải xử sự như người Do Thái?"
2/
Phúc Âm: Sự quan trọng của
cầu nguyện trong Tin Mừng Luca.
2.1/
Không phải ai cũng biết cách cầu nguyện: Theo phong tục của Do Thái, các Rabbi thường dạy cho các môn đệ
một kinh đơn giản để họ có thể dùng hằng ngày để cầu nguyện. Gioan Tẩy Giả cũng
làm như thế cho các môn đệ của ông. Và hôm nay, một người trong nhóm môn đệ của
Chúa Giêsu cũng đến và nói với Người: "Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu
nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông." Lý do tại sao phải dạy
là vì các môn đệ không biết cách cầu nguyện làm sao cho đúng: cái gì cũng xin,
xin những điều hại cho người khác, chỉ biết ích kỷ xin cho mình …
2.2/
Chúa Giêsu dạy cho môn đệ cách cầu nguyện: Người bảo các ông: "Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: "Lạy
Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, xin Cha cho
chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; xin tha tội cho chúng con, vì chính
chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng
con sa chước cám dỗ."
Quan
sát những lời dạy của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy có những nguyên tắc sau:
(1) Những gì liên quan tới Thiên Chúa: Trước tiên, lời cầu nguyện được dâng lên
Thiên Chúa là Cha chứ không phải bất cứ ai khác; Người luôn yêu thương và quan
tâm đến nhu cầu của con cái mình. Tất cả những gì thuộc Thiên Chúa phải được
con người quan tâm đến trước những nhu cầu của cá nhân con người: xin làm cho
thánh danh Cha vinh hiển chứ không xin làm vinh danh con, xin cho triều đại Cha
mau đến chứ không xin cho triều đại của con đến trước Cha. Cầu nguyện nhưng
cũng nhận ra bổn phận của người con: làm vinh danh Cha và làm cho triều đại Cha
mau đến bằng những công việc và cách sống của mình; để mọi người nhìn thấy và
ngợi khen Cha trên trời.
(2) Những gì liên quan tới con người: cả quá khứ, hiện tại, và tương lai.
- Hiện tại: Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy;
- Quá khứ: Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người
mắc lỗi với chúng con.
- Tương lai: Và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải hành động theo những nguyên tắc nhất định trong đời sống cá
nhân, gia đình, và cộng đòan; để bảo vệ sự hiệp nhất của tập thể. Cần hiểu biết
lý do và sự quan trọng của các nguyên tắc trước khi hành động và dạy người khác
làm như thế.
- Chúng ta cần phải nhận ra và tôn trọng sứ vụ của mọi người trong kế họach cứu
độ của Thiên Chúa.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
05/10/16 THỨ TƯ ĐẦU
THÁNG TUẦN 27 TN
Lc 11,1-4
Lc 11,1-4
Suy niệm: “Hữu sự thì vái tứ phương, vô sự nén hương
chẳng mất”. Hoá ra làm các việc thờ phượng với tâm thức thực dụng không phải là
chuyện mới có đây. Khi “hữu sự” người ta mới “cầu Trời, khấn Phật”. Người ta
đến các đền chùa, nhà thờ để cầu xin nhiều hơn là để cầu nguyện. Ngay các ki-tô
hữu cũng đưa ‘cơ chế xin-cho’ vào mối tương quan giữa Thiên Chúa với mình. Chúa
Giê-su đã mặc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa là Cha và chúng ta phải sống
với Ngài trong tâm tình người con đối với cha mình. Người con có hiếu phải biết
sống thế nào để làm rạng rỡ gia phong. Là con cái Thiên Chúa, chúng ta càng
phải cố gắng hơn nữa để làm cho “danh Cha cả sáng”. Mang tâm thức thực dụng đối
với Chúa: cầu nguyện với Ngài chỉ để ‘xin xỏ’ cho được việc mình, đó không phải
là cách sống của người con ngoan coi Thiên Chúa là Cha của mình.
Mời Bạn: Là
ki-tô hữu, là con cái Thiên Chúa, mối quan tâm duy nhất của chúng ta là làm cho “Danh Cha cả sáng, triều đại
Cha mau đến” bằng
lời cầu nguyện và những việc làm cụ thể hằng ngày. Ngay khi cầu xin cho những
nhu cầu của mình cũng như của anh chị em, chúng ta cũng hướng tới mục tiêu làm
vinh danh Thiên Chúa.
Chia sẻ: Cùng
nhau làm một việc ‘phi lợi nhuận’ để tôn vinh Chúa: chầu Thánh Thể, một hoạt
động bác ái xã hội.
Sống Lời Chúa: Tâm
niệm và thực hành Lời Chúa: “Dù
ăn, dù uống, hay bất cứ làm việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên
Chúa” (1Co
10,31).
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn làm mọi sự cho sáng danh Chúa cho
dầu phải chịu gian khổ và thiệt thòi. Amen.
Xin dạy chúng con cầu nguyện
Ơn cao cả nhất mà chắc chắn Cha muốn ban cho ta
đó là Chúa Thánh Thần. Có Thánh Thần là có niềm vui, sức mạnh, ánh sáng, sự sống.
Suy niệm:
Có nhiều định nghĩa về
con người.
Con người là con vật biết
sử dụng các dụng cụ.
Con người là con vật biết
suy nghĩ đắn đo.
Nhưng như thế vẫn chưa
đủ.
Phải định nghĩa con người
là con vật biết cầu nguyện,
nghĩa là có khả năng lắng
nghe và đáp lời Thiên Chúa.
Con người là sinh vật
biết chuyện trò với Tạo Hoá.
Cầu nguyện không phải là
nói với một sự vật, một ý tưởng,
nhưng là nói với một Ðấng
siêu vượt tôi,
mà lại rất gần gũi thân
thương và biết tôi.
Ðấng ấy nói với tôi và
nghe được lời tôi nói.
Có nhiều tâm tình khi ta
cầu nguyện:
thống hối, tri ân, ca
ngợi, thờ lạy, dâng hiến, nài xin.
Nài xin chẳng phải là
điều hạ giá con người.
Con người cảm nghiệm được
thân phận mong manh,
nên khiêm hạ đi tìm sự
nâng đỡ.
Xin cho chúng con bánh
cần dùng mỗi ngày.
Bánh vật chất, bánh tinh
thần, Bánh Thánh Thể.
Bánh cho chúng con sự
sống.
Xin tha thứ tội chúng
con,
để chúng con được sống
bình an sau những va vấp.
Xin đừng để chúng con sa
chước cám dỗ.
Cơn cám dỗ lớn nhất là
chỉ sống cho mình,
và khép lại trước Thiên
Chúa và anh em.
Quỳ xuống cầu xin là thái
độ của người biết mình,
biết những gì mình có thể
làm được,
và biết những gì nằm
ngoài tầm tay của mình.
Khi tương quan giữa Mỹ và
Irak căng thẳng cực độ,
Tổng thư ký Liên Hiệp
Quốc Kofi Annan đã tới Bagdad
để thuyết phục phía Irak
ký vào bản thoả thuận.
Lúc trở về, ông nói: “Tôi
đặc biệt đã cầu nguyện nhiều.
Ðừng bao giờ đánh giá
thấp sức mạnh của sự cầu nguyện.”
Chẳng phải chỉ cầu nguyện
khi gặp chuyện khó.
Ðể hít thở bình thường
cũng cần đến ơn trên.
Cần có thái độ kiên trì
khi cầu nguyện.
Hãy cứ gõ cửa nhà Chúa
trong đêm mịt mù.
Cần tập đứng đợi, tập
quấy rầy Chúa.
Thế nào Ngài cũng mở cửa
và cho mọi sự ta cần.
Hãy để Ngài tự do cho vào
lúc và theo cách Ngài muốn,
dù điều đó không hợp với
ước mơ của ta.
Lắm khi ta có cảm tưởng
Ngài không nhận lời.
Có thể vì lời nài xin của
ta đầy tính ích kỷ,
hay vì Ngài muốn dành cho
ta một ơn lớn hơn.
Xin Ðức Giêsu dạy ta biết
cách cầu xin,
đưa ta ra khỏi những bận
tâm hẹp hòi về chính mình,
để thấy những nhu cầu lớn
lao của Hội Thánh.
Ơn cao cả nhất mà chắc
chắn Cha muốn ban cho ta
đó là Chúa Thánh Thần.
Có Thánh Thần là có niềm
vui, sức mạnh, ánh sáng, sự sống.
Có khi nào ta nài xin Cha
ban Thánh Thần chưa?
Cầu nguyện:
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
05
Tháng Mười
Sứ Ðiệp Của Một Người Tàn Tật
Hằng
năm tổ chức có tên là "Tự nguyện chịu đau khổ" hành hương đến Lộ Ðức
để chia sẻ kinh nghiệm của họ khi đối đầu với đau khổ. Năm 1982, khách hành
hương đã chú ý đến lời chia sẻ của Jacques Lebreton, một phó tế vĩnh viễn không
tay, mù mắt. Chúng ta hãy lắng nghe chứng từ của ông:
Sau
trận đánh ở El Alamem, tôi và các bạn của tôi đang lo gỡ mìn. Một anh bạn tôi cầm
một quả lựu đạn và vô tình mở chốt. Trong cơn hốt hoảng, anh trao cho tôi. Tôi
cứ tự nhiên cầm lấy quả lựu đạn. Nó đã nổ tung trong tay tôi. Tôi tối tăm mặt
mũi, không nói được nữa. Tôi cảm thấy mình đang chết. Tôi chỉ còn là một người
không tay, không mắt... Tôi toan tự tử.
Trên
giường bệnh ở nhà thương, tôi, một người đã không giữ đạo từ lâu, tôi bắt đầu cầu
nguyện. Tôi xin được rước lễ. Tôi đã hiểu nguyên do sự đau khổ của tôi là tội lỗi
nhân loại: đó là thù oán, kiêu căng, chiến tranh... Và tôi đã tìm lại được sự
an vui và trông cậy.
Tôi
cảm thấy một cái gì tương tự như Chúa Giêsu trong vườn Giêtsêmani. Ngài cũng
không muốn chịu đau khổ. Ngài đã van xin: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin
cho con khỏi uống chén này", nhưng liền sau đó, Ngài lại thưa: "Lạy
Cha, xin vâng theo ý Cha". Sau thảm kịch Golgotha, Ngài đã sống lại. Chính
nhờ mầu nhiệm chết và sống lại mà Chúa Kitô muốn cho chúng ta cùng sống. Tôi đã
đạt đến mức độ không phải là chịu đựng mà là chấp nhận. Chịu đựng là một thất bại.
Chấp nhận là một chiến thắng. Trên giường bệnh, tôi đã khóc, khóc vì sung sướng
với ý nghĩ ấy. Ðiều mà tự nhiên tôi cũng không thể chịu được, nay nhờ ơn Chúa
tôi đã chịu được.
Như
lời văn hào Mauriac nói: "Chúa Giêsu không đến để xóa bỏ đau khổ, nhưng để
cùng hiện diện với những người đau khổ". Tôi đã cảm nghiệm được lời Chúa
phán: "Phúc cho những kẻ khóc lóc, phúc cho những kẻ đau khổ".
Tại
Evreux, tôi được gặp một người đàn bà hoàn toàn bất toại, đến nỗi không thể nói
được. Nhưng nhờ ngón chân cái của bà, bà có thể máy động bàn chữ cái trên một
miếng ván và bà đã tặng cho tôi một bài thơ có tựa đề "Nụ cười".
Tôi
liên tưởng đến một người đàn ông khác, bị điếc lúc 14 tuổi, mù từ lúc lên 16 tuổi.
Trên giường bệnh, lúc hấp hối, người đàn ông 87 tuổi này đã thốt lên như sau:
"Tôi đã trải qua một cuộc đời tốt đẹp".
Ông
Jacques Lebreton kết luận như sau: "Tôi, một người không tay, không mắt,
tôi cũng thấy đời tươi đẹp. Cuối cùng, sự tàn tật lớn lao nhất là bị chia lìa với
Thiên Chúa. Tôi không thể nói như vậy, nếu tôi lành lặn với đôi mắt và đôi tay.
Nhưng tôi có thể nói như vậy vì tôi biết thế nào là sống xa Chúa. Và hôm nay,
sau một chặng đường dài, tôi lớn tiếng kêu lên với tất cả các người anh em của
tôi rằng: Thiên Chúa hằng sống. Ðức Kitô đã sống lại".
Ðã có
khoảng 6,000 vụ lành bệnh lạ lùng được ghi nhận tại Lộ Ðức, trong số này chỉ có
64 vụ được Giáo Hội công nhận là phép lạ. Nhưng phép lạ cả thể nhất của Lộ Ðức
cũng như của những trung tâm Thánh Mẫu khác: chính là phép lạ của lòng tin. Và
trong những phép lạ của lòng tin ấy, kỳ diệu hơn cả vẫn là niềm tin, sự chấp nhận,
tinh thần lạc quan của chính những người đau khổ. Trong niềm đau tột cùng trong
thân xác cũng như tâm hồn, những con người ấy vẫn còn thấy được ý nghĩa của cuộc
sống, tình yêu cao cả của Chúa. Ðó chính là phép lạ mà Chúa vẫn tiếp tục thực
hiện qua những người có lòng tin. Và đó cũng là phép lạ mà chúng ta không ngừng
kêu cầu Chúa thực hiện.
Nhìn
lên thập giá Chúa, trong niềm hiệp thông với Mẹ Ngài, chúng ta hãy cầu xin Chúa
ban cho chúng ta được tiếp tục tin yêu, được tiếp tục nhìn thấy ánh sáng phục
sinh giữa những đêm tối của khổ đau, thử thách. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện
cho không biết bao nhiêu người đang quằn quại trong đau đớn của thể xác, trong
cô đơn của tâm hồn. Xin cho họ được nâng đỡ, ủi an và tìm được niềm tin.
Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét