09/10/2016
Chúa Nhật tuần 28 thường niên năm C
(phần I)
Bài Ðọc I: 2 V 5, 14-17
"Naaman trở lại
gặp người của Thiên Chúa và ông tuyên xưng Chúa".
Trích sách Các Vua
quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy,
Naaman, quan lãnh binh của vua xứ Syria, xuống tắm bảy lần ở sông Giođan như lời
tiên tri, người của Thiên Chúa dạy, da thịt ông lại trở nên tốt như da thịt của
đứa trẻ, và ông được sạch.
Sau đó, ông và đoàn
tuỳ tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ðến nơi, ông đứng trước mặt người của
Thiên Chúa và nói: "Thật tôi biết không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn
vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel. Vì thế, tôi xin ông nhận lấy phần phúc của
tôi tớ ông".
Tiên tri trả lời rằng:
"Có Chúa hằng sống, tôi đang đứng trước mặt Người: Thật tôi không dám nhận
đâu". Naaman cố nài ép, nhưng tiên tri không nghe. Naaman nói thêm rằng:
"Tuỳ ý ông, nhưng tôi xin ông ban phép cho tôi, là đầy tớ của ông, được chở
một ít đất vừa sức hai con la chở được, vì từ nay ngoài Chúa, tôi tớ của ông sẽ
chẳng dâng của lễ toàn thiêu hoặc hy lễ cho thần minh nào khác".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4
Ðáp: Chúa
đã công bố ơn cứu độ của Người trước mặt chư dân (c. 2b).
Xướng: 1) Hãy ca tụng
Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người
đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. -
Ðáp.
2) Chúa đã công bố
ơn cứu độ của Người; trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ
lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa
cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng
Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca! - Ðáp.
Bài Ðọc II: 2 Tm 2, 8-13
"Nếu chúng ta
kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Ðức Kitô".
Trích thư thứ hai của
Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, con
hãy nhớ rằng Chúa Giêsu Kitô bởi dòng dõi Ðavít, đã từ cõi chết sống lại, theo
như Tin Mừng cha rao giảng. Vì Tin Mừng đó mà cha phải đau khổ đến phải chịu xiềng
xích như một kẻ gian ác, nhưng lời của Thiên Chúa đâu có bị xiềng xích! Vì thế,
cha cam chịu mọi sự vì những kẻ được tuyển chọn, để họ được hưởng ơn cứu độ
cùng với vinh quang trên trời trong Ðức Giêsu Kitô.
Ðây cha nói thật: Nếu
chúng ta cùng chết với Người, thì chúng ta cùng sống với Người. Nếu chúng ta
kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Người. Nếu chúng ta chối bỏ
Người, thì Người cũng sẽ chối bỏ chúng ta. Nếu chúng ta không tin Người, Người
vẫn trung thành, vì Người không thể chối bỏ chính mình Người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia!
- Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh
quang trên các tầng trời! - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 17, 11-19
"Không thấy ai
trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi Chúa Giêsu đi
lên Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa. Khi Người vào một
làng kia, thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng:
"Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi". Thấy họ, Người bảo họ rằng:
"Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế". Trong lúc họ đi đường, họ
được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở
lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ
ơn Người, mà người ấy lại là người xứ Samaria.
Nhưng Chúa Giêsu
phán rằng: "Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín
người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại
bang này". Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì
lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Ðược ơn cứu độ, được tình thương của Chúa cứu
thế
Ðể chuẩn bị khánh nhật truyền giáo cử hành vào Chúa
nhật sau, chúng ta sung sướng được nghe những bài Kinh Thánh hôm nay. Bài đọc
sách Các Vua và bài Tin Mừng Luca rõ ràng nói đến hai người lương dân đã nhận
được ơn của Chúa; còn trong bài thư Phaolô, chúng ta phải chắc chắn công nhận
có lời tạ ơn Thiên Chúa đã ban Tin Mừng cứu độ cho lương dân.
Nhưng nếu Chúa muốn dùng chúng ta để cho lương dân
nhận biết Người, thì Người cũng muốn dùng họ để thêm lòng tin cậy mến cho chúng
ta. Thế nên những bài Kinh Thánh hôm nay không phải chỉ nói lên hành động của
Chúa đối với dân ngoại; mà cũng muốn dạy bảo chúng ta thêm nhờ những hành động
này. Bởi vì trước mặt Chúa mọi người đều liên đới và phải bổ khuyết cho nhau để
làm nên thân thể hoàn toàn của Ðức Giêsu Kitô.
Chúng ta hãy lần lược đọc các bài Kinh Thánh để đón
nhận mọi giáo huấn của Chúa.
1. Một
Người Ðược Ðức Tin
Câu chuyện Naaman, người xứ Syri, đã được nhiều người
biết. Thiết tưởng chẳng cần phải dài dòng thuật lại rằng: Ông là vị tướng chỉ
huy toàn thể quân lực Syri, được vua Syri tín cẩn, nhưng lại mắc bệnh phong
cùi. Nghe tin ở đất Giuđa có vị tiên tri nổi danh làm phép lạ. Ông xin thư vua
Syri đến đất Do Thái để gặp nhà tiên tri. Êlisê bảo ông cứ xuống sông Hòa Giang
tắm 7 lần thì sẽ được khỏi bệnh. Thoạt đầu ông không muốn nghe vì nghĩ sông Hòa
Giang của Do Thái có gì sạch hơn sông ở Syri. Nhưng, sau nghĩ lại, ông đã vâng
lời xuống sông tắm 7 lần và đã được sạch... đang khi ấy ở đất Do Thái có biết
bao người bị phong cùi mà không được chữa khỏi như ông. Trường hợp của ông nói
lên lòng thương - và phải nói là ưu ái nữa - của Thiên Chúa đối với lương dân.
Bài học hôm nay chỉ nhắc sơ đến việc Naaman được chữa
lành. Những gì xảy ra sau đó mới là trọng tâm. Chúng ta thấy Naaman được sạch rồi
đã cùng đoàn tùy tùng trở lại gặp nhà tiên tri. Ông nói: bây giờ tôi đã biết:
trên khắp cả mặt đất chẳng có chúa nào khác ngoài Chúa của Israel.
Naaman đã bỏ tà thần để suy phục Thiên Chúa. Ông đã
được đức tin sau khi được lành bệnh. Từ nay ông trở thành dân của Chúa. Và chắc
chắn đức tin của ông dứt khoát, mạnh mẽ hơn nhiều người Do Thái. Ðể chứng tỏ niềm
tin này, trước hết ông xin phép dâng chút lễ mọn cho nhà tiên tri, tức là người
của Chúa, theo thông lệ thời bấy giờ. Không phải ông muốn cám ơn Êlisê vì đã chữa
ông khỏi bệnh. Ý nghĩa gói ghém trong việc muốn dâng tặng lễ vật là để nói lên
niềm tin Êlisê là tiên tri, tức là người của Chúa. Naaman muốn cư xử như mọi
tín hữu. Những người này khi đến với các tiên tri vẫn dâng cho các ngài một
chút lễ mọn để nói lên niềm tin công nhận và tôn trọng những người được Chúa chọn.
Êlisê từ chối. Có lẽ vì tế nhị, hoặc vì muốn người
tân tòng hiểu đạo một cách thuần túy. Cũng có thể Êlisê muốn thử đức tin của
Naaman, vì theo lời nói tiếp sau của ông này, chúng ta thấy Naaman có vẻ sợ nhà
tiên tri chưa coi mình như là một tín hữu thường. Ông nói: "Nếu không, thì
xin cho tôi chở về một xe đất cặp la kéo được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng
lễ cho một thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa, Chúa của Israen". Bởi vì
theo quan niệm thời bấy giờ, đất nước nào thì thần linh ấy. Naaman đã tin Chúa
của Israen thì phải thờ Ngài trên đất của Ngài. Ðất cát xứ Syri không xứng đáng
với Ngài nữa vì là đất của dân ngoại và đã ra nhơ nhớp vì tà thần. Nay trở về
quê quán, Naaman phải đem một ít đất Do Thái về để dựng bàn thờ mới trên đất ấy
mà thờ phượng Thiên Chúa. Nếu Êlisê cho phép làm như vậy, Naaman mới chắc chắn
nhà tiên tri đã tin mình và coi mình như tín hữu. Và vì thế lời xin của Naaman
còn là một lời tuyên xưng đức tin chân chính.
Chúng ta phải cảm phục ông, cũng như chúng ta thường
cảm phục đức tin của những người mới trở lại. Chúng ta thấy họ sau khi đã nhận
biết Chúa thì thành khẩn muốn theo Chúa cho đến cùng. Họ muốn là những tín hữu
một trăm phần trăm, khiến chúng ta, những người "đạo cũ, đạo dòng" phải
suy nghĩ.
Câu chuyện Naaman và đức tin của ông đã được Ðức
Giêsu nhắc lại để nêu gương cho môn đệ của Người. Chúng ta còn phải đọc đi đọc
lại cũng với nhiều gương sáng khác để thấm thía những bài học mà Chúa muốn dùng
lương dân để nói với chúng ta. Cũng trong chiều hướng đó, phụng vụ hôm nay còn
muốn chúng ta đọc thêm đoạn Tin Mừng Luca.
2. Một
Ðức Tin Tiến Bộ
Hôm ấy, Ðức Giêsu đang trên đàng đi lên Giêrusalem.
Ðối với tác giả Luca, đây là cuộc hành trình đầy ý nghĩa. Ðức Giêsu đi lên
Giêrusalem không phải chỉ để chịu chết mà đồng thời cũng là được vinh thăng. Do
đó từ ngữ "đi lên" Giêrusalem đã được lựa chọn một cách tính toán và
hữu ý. Ðây là một cuộc đi lên. Và như chính Ðức Giêsu nói, khi nào được
"đưa lên", Người cũng kéo tất cả lên với Người. Con đường đi lên
Giêrusalem vì thế vừa là đàng để Chúa đi lên, và đồng thời cũng là đàng để
chúng ta đi lên với Chúa là sự thật và là sự sống. Ðó là con đường của Kitô
giáo, của hết thảy chúng ta khi muốn sống đạo.
Tác giả Luca còn xác định thêm, khi đã lên
Giêrusalem, Ðức Giêsu và môn đệ của Người "đã ngang qua Samari và
Galilê". Nói rõ ra, thì Người đã không chọn một trong hai con đường thời bấy
giờ dẫn từ Galilê xuống Giuđêa và đi qua Samari. Người đi con đường riêng khác
với mọi người và lần theo bờ sông Hòa Giang; bởi vì Người muốn xuống Giuđêa trước
rồi mới đi bọc lên để sau này Gioan có thể viết rằng: "Ơn giải thoát khơi
nguồn tự Do Thái" (4,22). Nhưng Luca vẫn nhấn mạnh điều này, là khi còn sống,
Ðức Giêsu đã tiếp xúc với dân Samari. Hơn nữa, Người còn ban đức tin cho dân
này, dân mà Do Thái vẫn coi như dân ngoại và không đáng được vào sổ dân Chúa.
Và như vậy Luca làm như vậy để phản đối mọi khuynh hướng chỉ muốn giữ đức tin
cho người Do Thái. Theo người, chính Do Thái phải mở mắt ra mà xem công việc của
Chúa làm nơi lương dân như câu chuyện người sắp kể.
Vậy, trên đường đi lên Giêrusalem, Ðức Giêsu vào một
làng kia. Mười người phung cùi muốn đón gặp nhưng theo luật dạy chỉ dám đứng lại
đàng xa. Họ là thành phần ô uế của xã hội, không được đến gần ai kẻo làm dơ nhớp
người ấy. Nhưng họ tin Ðức Giêsu. Họ nghĩ Người có thể chữa họ khỏi bệnh. Thế
nên họ cất tiếng thưa: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi". Ðối
với họ, danh từ "Thầy" rất phong phú. Họ không nghĩ đến khả năng giáo
huấn của Ðức Giêsu đâu. Họ trông chờ quyền năng ở nơi Người. Họ đã nghe nói Người
làm nhiều phép lạ. Người là Thầy theo nghĩa ấy. Người là tiên tri của Chúa như
Naaman đã nghĩ như vậy về Êlisê.
Ở đây, mười người phong cùi còn xưng đích danh Ðức
Giêsu. Họ không sợ "phạm húy". Họ muốn nói lên lòng tín nhiệm muốn
kéo Người lại gần mình, như người trộm lành sau này cũng kêu tên Ðức Giêsu như
thế để được chia phần số phận với Người, vì thực ra âm thầm họ ý thức được bệnh
tình của họ chỉ có lòng thương xót của Thiên Chúa mới chữa được. Họ như nói lên
niềm tin của dân Chúa đang trông chờ ơn cứu độ lòng Chúa thương xót, tức là nhờ
Chúa là Ðấng thương xót.
Chắc chắn Ðức Giêsu đã coi lời họ xin là biểu thị
lòng tin, nên bảo họ: "Hãy đi trình diện với các tư tế". Người bị bệnh
phong cùi chỉ đi trình diện các tư tế khi đã khỏi bệnh để được các bậc nắm giữ
pháp luật xác nhận là đã lành sạch. Bảo họ đi trình diện tức là Ðức Giêsu đã
cam kết chữa họ. Thế mà Người chỉ làm phép lạ khi thấy lòng tin của người ta.
Do đó Người đã chắc chắn về lòng tin của 10 bệnh nhân này.
Và quả thực, họ tin Người đến nỗi lập tức đã ra đi
trình diện khi chưa thấy mình sạch. Ðó là niềm tin có thể dời núi chuyển non,
như Lời Chúa đã hứa. Và thật vậy, trong khi họ đi họ đã được "sạch",
tức là được khỏi bệnh. Chúng ta cảm phục lòng tin của họ; nhưng thiết tưởng
chúng ta phải kính yêu Chúa Giêsu hơn nữa. Người đã chữa 10 kẻ phong cùi khỏi bệnh
dễ dàng như vậy và nhất là khiêm tốn như thế. Khác hẳn với những tên tự xưng là
cao tay làm phép lạ nhưng thật sự chỉ là những tên bịp bợm. Nhưng chúng ta hãy
trở về với 10 người phong cùi.
Cả bọn đã được sạch bệnh. Nhưng chỉ có một người lập
tức quay đầu trở lại gặp Ðức Giêsu. Anh ta lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh gục
mặt dưới chân Ðức Giêsu mà tạ ơn. Anh làm một hành vi thờ phượng. Anh công nhận
Ngài là Chúa. Trong khi 9 người kia đi đâu? Nghĩ rằng họ đã trở về nhà mình thì
tệ quá. Tác giả Luca để cho chúng ta đoán. Tôi nghĩ họ đã tiếp tục đi trình diện
các tư tế. Họ tiếp tục làm bổn phận của mình. Họ có đức vâng lời "tối mặt".
Ðó là những ý nghĩ tốt nhất cho họ. Nhưng ở đây, những
ý nghĩ đó vẫn không bào chữa được cho họ. Họ ích kỷ vì chỉ nghĩ đến mình, muốn
cho mình được công nhận ngay để được sống như mọi người; đang khi lẽ ra thấy
mình được sạch như vậy, họ phải nhận ra ơn Chúa, phải tạ ơn Người, phải trở lại
nguồn mạch đã ban ơn cho mình. Há Chúa đã chẳng cho thấy Ngài mang ơn cứu độ đến
sao? Ngài không đáng tìm đến hơn các tư tế vô vị kia sao?
Chỉ có một người đã nhận ra như vậy. Người ấy thấy rằng
ơn cứu độ bây giờ ở nơi Ðức Giêsu. Người ấy trở lại thờ lạy Người. Ðền thờ Chúa
chân thật từ nay không còn nằm nơi có tư tế đạo cũ nữa. Ðền thờ ấy bây giờ là
chính Chúa Giêsu. Thành ra đã thực hiện Lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ xứ
Samaria trong sách Tin Mừng Gioan: Ơn giải thoát khơi nguồn tự Do Thái... nhưng
sẽ đến giờ - và là ngay bây giờ -, những kẻ thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng
Cha trong Thần Khí và Sự Thật.
Việc một người trong số 10 người được khỏi bệnh trở
lại thờ lạy Ðức Giêsu phải chăng muốn ám chỉ những điều ấy? Và người ấy lại là
một người Samaria dị chủng duy nhất. Tác giả Luca đợi đến lúc này mới nói lên
quốc tịch của người ấy. Chín người kia là Do Thái. Chúa Giêsu nói: "Không
phải là cả 10 người được sạch ư? Chín người kia đâu?". Có một màu sắc đau
xót và phiền trách trong câu hỏi này. Nó nói lên lòng của tác giả Luca khi thấy
Chúa mang ơn cứu độ đến cho cả Do Thái lẫn Hy Lạp, thế mà kìa xem dường như chỉ
có dân ngoại chen vào nhà Chúa.
Chúa Giêsu bảo người kia để kết luận: "Hãy chỗi
dậy mà đi. Lòng tin của ngươi đã cứu ngươi". Chúng ta tự nhiên muốn hỏi,
phải chăng lời này ám chỉ rằng những người kia không được khỏi bệnh? Không chắc.
Tôi dám nghĩ Chúa Giêsu đâu có hẹp hòi gì! Người chẳng cần rút lại một ơn đã
ban. Nhưng có thân thể lành mạnh mà không được vào Nước Trời thì nào ích gì? Ðiều
cốt yếu mà người Samaria kia đã được là "được cứu", tức là được ơn cứu
độ, được tình thương của Chúa cứu thế. Người bảo anh ta: Hãy chỗi dậy mà đi đi.
Những từ ngữ này gợi đến mầu nhiệm phục sinh sống lại, chỗi dậy khỏi sự chết và
đời sống cũ; và nhắc chúng ta nhớ đến việc Ðức Giêsu đang đi lên Giêrusalem để
được vinh hiển. Ðó là con đường mà người Samari, tức là lương dân từ nay sẽ đi
để sống đạo, sống đời sống Kitô hữu để theo Ðức Kitô đến vinh quang.
Tất cả những tư tưởng dồi dào này, chúng ta cần suy
niệm thêm để thấy mình nơi người Samari có phúc kia. Chúng ta đã có đức tin.
Nhưng đức tin này cần tiến bộ, mới cứu được chúng ta. Chín người Do Thái kia
cũng đã có lòng tin khi kêu xin Chúa chữa và vâng lời đi trình diện các tư tế.
Nhưng rồi đức tin của họ đã đi vào tập quán, suy nghĩ theo thói quen và không tỉnh
thức nhận ra mạc khải mới của Chúa. Họ dùng đức tin để phục vụ mình nên họ đã
quên và bỏ Chúa. Những người như họ cần đọc lại bài Tin Mừng hôm nay; và cũng
có thể đọc thêm bài thư Phaolô, để dễ thấm thía thâm tín hơn.
3. Một
Sự Tiến Bộ Không Nản Chí
Quả vậy, trong bài thư này thánh Phaolô nói đến lòng
tin của người. Không những người đã tin Ðức Giêsu Kitô phục sinh từ kẻ chết và
người hằng rao giảng Tin Mừng ấy cho lương dân để họ cũng được cứu chuộc; nhưng
ngay lúc này đây, đang khi bị giam cầm tù tội như một kẻ gian phi, người vẫn
không bớt niềm tin ấy. Ngược lại, lòng tin của người vẫn mạnh, vẫn tiến. Người
chịu đựng tất cả những đau khổ hiện tại cho phần rỗi của những người được Chúa
chọn. Tức là đang khi bị cầm tù, người vẫn làm tông đồ, người vẫn rao giảng đức
tin bằng chính cách chịu đau khổ. Do đó người có thể viết: người bị cầm tù
nhưng Tin Mừng của Ðức Kitô, lời cứu độ của Thiên Chúa chẳng hề bị cầm chân.
Người nêu gương cho tất cả chúng ta luôn phải đưa đức tin đi xa hơn, làm cho đức
tin ấy tiến bộ, ngay cả khi bị thử thách và chúng ta sẽ có thể nói như Phaolô ở
một đoạn khác: tôi biết tôi đã tin vào ai?
Không phải chúng ta chỉ tin vào Thiên Chúa duy nhất
như Naaman trong bài sách Các Vua; và cũng không phải chúng ta chỉ tin vào Ðức
Giêsu có quyền làm phép lạ như 10 người bị bệnh phong cùi trong bài Tin Mừng,
chúng ta tin Ðức Giêsu là Thiên Chúa như người Samari kia, và nhất là chúng ta
tin Ðức Giêsu đã chết và sống lại vì ta như thánh Phaolô nói trong bài thư hôm
nay. Do đó, dù khi có bệnh hay không có bệnh, dù được khỏi hay không được khỏi
bệnh, dù bị rơi vào bất cứ hoàn cảnh rủi ro nào, chúng ta vẫn tin và vẫn rao giảng
Chúa Giêsu Kitô. Người kết hiệp với chúng ta trong thánh lễ này. Người đưa
chúng ta vào đường lối của Người để như Người đã đi lên mầu nhiệm Tử Nạn Phục
Sinh thế nào, chúng ta cũng chỗi dậy và đi với Người cho đến hạnh phúc muôn đời.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời
Chúa Mỗi Ngày
Chúa
Nhật 28 Thường Niên, Năm C
Bài
đọc: 2 Kgs 5:14-17; 2 Tim 2:8-13; Lk
17:11-19.
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ: Lòng biết ơn.
Không ai thích người
vô ơn; nhưng nhiều khi chính chúng ta lại là những người vô ơn với Thiên Chúa,
với cha mẹ, và với tha nhân. Để biết ơn, chúng ta cần phải nhận ra ơn, chứ đừng
bao giờ nghĩ mọi sự phải xảy ra như vậy: Thiên Chúa phải ban ơn, cha mẹ phải
săn sóc con cái, các nhà lãnh đạo phải lo cho dân... Công ơn mình đang hưởng có
thể bị lấy mất bất cứ lúc nào. Có những người sợ phải biết ơn vì họ sợ sẽ phải
đền ơn; vì thế họ vô ơn. Họ quên đi rằng khi con người biết ơn, họ sẽ được lãnh
nhận nhiều ơn hơn, và cuộc đời họ sẽ thăng tiến. Người vô ơn sẽ càng ngày càng
lụi bại dần, và sẽ bị mọi người xa lánh.
Các bài đọc hôm nay
tập trung trong hai khía cạnh quan trọng của việc biết ơn: (1) nhận ra những gì
ân nhân đã làm cho mình; (2) cám ơn bằng việc làm cụ thể. Trong bài đọc I, tướng
Syria là Naaman nhận ra Thiên Chúa của Israel là Người đã chữa ông khỏi bệnh
cùi. Ông trở lại cám ơn ngôn sứ Elisha như khí cụ Thiên Chúa dùng để chữa lành,
và cam kết từ nay sẽ không thờ phượng một Thiên Chúa nào khác. Trong bài đọc
II, Phaolô nhận ra những gì Đức Kitô đã làm cho con người và cho chính bản thân
ông trên đường đi Damascus. Ông khuyên môn đệ Timothy trung thành chịu đau khổ
để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Đức Kitô cho mọi người để họ cũng được hưởng sự
sống muôn đời. Trong Phúc Âm, người bệnh phong xứ Samaria là người duy nhất
trong 10 người đã nhận ra ơn lành Chúa Giêsu đã làm cho ông. Ông trở lại cám ơn
Chúa Giêsu, và ông nhận được thêm ơn lành cứu độ.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tôi tớ ngài sẽ không còn dâng hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa.
1.1/ Tướng Naaman nhận
ra Thiên Chúa của Israel đã chữa bệnh cho mình: Trước khi Naaman, tướng Syria, vâng lời dìm mình 7 lần trong sông Jordan,
ông đã trải qua cuộc thử thách nội tâm: Tại sao ngôn sứ Elisha không chịu ra
đón tiếp ông? Tại sao khinh thường ông đến độ chỉ sai đầy tớ ra đón ông với một
mệnh lệnh đơn giản: “Xuống sông Jordan dìm mình 7 lần sẽ được sạch.” Tại sao phải
dìm mình 7 lần trong sông Jordan của người Do-thái, trong khi có biết bao con
sông ở Syria sạch sẽ hơn nhiều? Và ông đã giận dữ bỏ ra về...
Đoàn tùy tùng phải mở
trí cho ông để ông nhận ra những vô lý của ông: Chính ông là người cần nhận ơn
từ người của Thiên Chúa chứ không ngược lại. Đã vất vả qua Do-thái rồi, giờ chỉ
cần nghe lời người của Thiên Chúa, khiêm nhường dìm mình 7 lần trong sông
Jordan là được sạch. Tại sao ông không chịu làm công việc quá dễ dàng như thế để
khỏi phải chịu một chứng bệnh nan y suốt đời?
Và ông đã nhận ra sự
vô lý của mình, ông khiêm nhường làm theo lời của ngôn sứ Elisha: “ông xuống
dìm mình bảy lần trong sông Jordan, theo lời người của Thiên Chúa. Da thịt ông
lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Ông đã được sạch.”
1.2/ Tướng Naaman tuyên
thệ sẽ không thờ bất cứ thần nào ngoại trừ Thiên Chúa của Elisha: Khi tướng Naaman nhận ra đã được lành bệnh, ông thân
hành trở lại đứng trước mặt ngôn sứ Elisha, người của Thiên Chúa, tuyên xưng:
“Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở
Israel.” Ông không những đã được Thiên Chúa chữa lành phần xác là cho khỏi bệnh
phong, ông còn được chữa lành phần hồn qua việc nhận ra Thiên Chúa của Israel
là Thiên Chúa duy nhất, và bổn phận của ông là chỉ thờ phượng một Thiên Chúa
này mà thôi.
Khi Naaman dâng lễ vật
để tỏ lòng biết ơn, ngôn sứ Elisha không lãnh nhận, vì ngôn sứ biết rõ việc chữa
lành là ơn của Thiên Chúa dành cho tướng Naaman, không phải do bởi ông. Ông
không thể nhận quà tặng, vì như thế là đánh cắp công ơn của Thiên Chúa, và có thể
làm cho người nhận ơn hiểu lầm. Đây phải là một bài học quan trọng cho chúng
ta: Tất cả là hồng ân của Thiên Chúa. Đừng bao giờ đánh cắp làm của mình. Cần
phải nói cho người được ơn biết rõ lý do để họ cám ơn Thiên Chúa.
Tại sao Naaman muốn
xin mang về hai xe đất? Có lẽ Naaman muốn dùng đất đó để xây dựng bàn thờ kính
Thiên Chúa, vì theo như lời ông nói: “Tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn
thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa.”
2/ Bài đọc II: Đức Kitô, vị đại ân nhân của loài người.
1.1/ Phaolô nhận ra những
gì Đức Kitô đã làm cho loài người và cho chính ông: Để hiểu những gì Phaolô nói, chúng ta cần luôn trở về
với biến cố quan trọng xảy ra trong cuộc đời Phaolô trên đường đi Damascus.
Phaolô đã nhận ra những ơn Thiên Chúa ban cho ông:
- Ơn phần hồn: cho
ông nhìn thấy chính Chúa phục sinh; giúp ông thay đổi não trạng kiêu ngạo để biết
nhìn nhận: con người được cứu độ do bởi ơn thánh chứ không do bởi việc cố gắng
giữ Lề Luật. Sự sống lại có thật; và như thế, tất cả những Lời dạy dỗ của Đức
Kitô là sự thật.
- Ơn phần xác: ông
được chữa khỏi mù và khỏi bị phạt chết.
Phaolô cũng nhận ra
Đức Kitô là vị đại ân nhân của loài người, qua lời Phaolô khuyên môn đệ
Timothy: “Anh hãy nhớ đến Đức Giêsu Kitô, Đấng đã sống lại từ cõi chết.” Ngài
đã chết thay cho con người, Ngài đã tha mọi tội cho con người. Ngài đã mang lại
cho con người sự sống đời đời đã bị đánh mất bởi tội.
1.2/ Phaolô cam chịu mọi
sự để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn: Một khi Phaolô đã nhận ra tất cả các ơn Đức Kitô đã
làm cho ông, ông quyết định dành trọn cuộc đời còn lại để báo đáp bằng cách chu
toàn trọn vẹn sứ vụ Đức Kitô trao phó cho ông là rao giảng Tin Mừng. Phaolô có
kinh nghiệm rất rõ trong ba cuộc hành trình, ông phải chịu nhiều đau khổ để
mang Tin Mừng đến cho mọi người và để chứng minh lòng trung thành của ông với Đức
Kitô.
Một trong những điểm
quan trọng của thần học Phaolô là “Hãy bắt chước Phaolô như Phaolô bắt chước Đức
Kitô.” Chúa Giêsu không có tội nhưng Ngài sẵn sàng chịu đựng đau khổ cho phần rỗi
linh hồn của mọi người. Thánh Phaolô cũng sẵn sàng chịu đau khổ như một tên
gian phi vì rao giảng Tin Mừng, “để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn,
để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô, và được hưởng vinh quang
muôn đời.” Ngài viết Thư này cho Timothy khi đang bị xiềng xích tại Roma, để
khuyên nhủ Timothy cũng phải sẵn sàng chịu đựng đau khổ để rao giảng Tin Mừng.
Ngài khuyên Timothy noi gương ngài đừng để Lời của Thiên Chúa bị xiềng xích.
Người ta có thể cầm tù người rao giảng; nhưng không ai có thể cầm tù Lời của
Thiên Chúa, vì đó là Lời tồn tại muôn đời.
Chỉ trong gian nan một
người mới biết ai là người trung thành với mình. Người trốn chạy bạn hữu khi gặp
gian khổ không phải là bạn nghĩa thiết. Chúa Giêsu từng nói với các môn đệ: “Ai
tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, Thầy cũng tuyên xưng người ấy trước mặt
Cha Thầy. Ai chối Thầy trước mặt người đời, Thầy cũng chối bỏ người ấy trước mặt
Cha Thầy” (Mt 10:32-33). Thánh Phaolô lặp lại lời tuyên xưng ấy với một nghĩa
tương tự: “Đây là lời đáng tin cậy: Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống
với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối
bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta.”
3/ Phúc Âm:
“Chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có
người ngoại bang này?"
3.1/ Người cùi Samaria
nhận ra Chúa Giêsu đã chữa lành cho anh: Trên
đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samaria và
Galilee. Khi Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người.
Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: "Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương
chúng tôi!"
Mấy phong tục của
người Do-thái chúng ta cần hiểu trước khi phân tích trình thuật này:
- Người Do-Thái rất
chú trọng đến vấn đề thanh sạch bên trong cũng như bên ngoài; vì thế, những người
phong cùi không được ở chung với dân chúng; mà phải sống cách biệt bên ngoài
làng của dân ở (Lev 13:46, Num 5:2). Họ không được phép tiếp xúc trực tiếp với
dân, và phải dừng lại và la lớn để mọi người biết sự có mặt của họ mà tránh đi
(Lev 13:45).
- Ngày xưa không có
y sĩ như bây giờ. Để chứng tỏ đã hết bệnh phong cùi, họ phải được xem xét cẩn
thận bởi các tư tế. Khi nào các tư tế tuyên bố họ đã sạch; bấy giờ họ có thể trở
về sinh hoạt bình thường với dân trong làng (Lev 14:2-3). Đó là lý do tại sao Đức
Giêsu bảo họ: "Hãy đi trình diện với các tư tế."
Chúa Giêsu thử thách
cả 10 người khi bảo họ đi trình diện với các tư tế, vì khi họ đi, chưa ai trong
họ được sạch cả. Chỉ đang khi đi thì họ mới nhận ra họ đã được sạch.
3.2/ Người Samaria được
sạch trở lại cám ơn Chúa Giêsu.
Một người trong bọn,
thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta
sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Chúa Giêsu nhận ra ngay anh ta là người
Samaria và 9 người kia là người Do-thái. Đức Giêsu nói: "Không phải cả mười
người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại
tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?"
Biết ơn là xứng đáng
đón nhận thêm ơn. Chúa Giêsu nói với anh ta: "Đứng dậy về đi! Lòng tin của
anh đã cứu chữa anh." Anh không chỉ được thanh sạch bên ngoài, anh còn được
thanh sạch cả bên trong. Chính vì lòng tin mà anh đã xứng đáng được hưởng ơn cứu
độ.
Tại sao con người vô
ơn? Có nhiều lý do: (1) vì con người không chịu suy nghĩ để nhận ra ơn, họ nghĩ
mọi sự trên đời tự nhiên mà có mà không cần suy nghĩ tại sao nó có; (2) họ giả
sử tất cả mọi người phải hành động như vậy: là Thiên Chúa phải ban ơn; là cha mẹ
phải nuôi nấng con cái; là thầy phải dạy dỗ học sinh; và (3) họ sợ nếu nhận ra
ơn, họ phải trả ơn; vì thế, họ vô ơn với Thiên Chúa, với cha mẹ, và với mọi người
chung quanh. Những con người vô ơn bạc nghĩa sẽ không sống nổi trong cuộc đời,
vì họ sẽ bị Thiên Chúa và mọi người khai trừ.
ÁP DỤNG
TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải biết
dùng trí khôn để nhận ra ơn và dùng trí nhớ để đếm tất cả những ơn lành đã nhận
được. Lười biếng và vô tâm làm con người không nhận ra những ơn lành lãnh nhận.
- Biết ơn là điều kiện
để nhận thêm ơn, nhiều khi những ơn đó còn cao cả hơn những ơn đã lãnh nhận.
Người vô ơn không nhận được thêm ơn.
- Không phải chỉ biết
ơn suông, nhưng còn phải nói lời cám ơn và tìm dịp để đền ơn.
- Con người không thể
làm ơn cho Thiên Chúa, họ chỉ có thể làm cho tha nhân và được Thiên Chúa kể là
làm cho chính Ngài. Những gì con người làm cho tha nhân không chỉ đáp đền ơn
Thiên Chúa ở đời này, mà còn trở nên công trạng giúp cho con người ở đời sau.
Vì thế, hãy ra sức giúp đỡ tha nhân bao nhiêu có thể làm được.
- Chúng ta phải biết
ơn cha mẹ, những người đã cưu mang, nuôi nấng, và dạy dỗ chúng ta trong suốt một
phần tư của cuộc đời. Khi cha mẹ về già và không còn tự săn sóc mình được nữa,
chúng ta phải phụng dưỡng và săn sóc các ngài. Đừng cho vào các nhà hưu dưỡng rồi
tự an ủi: “chính phủ sẽ săn sóc các ngài tốt hơn ta.”
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
09/10/16 CHÚA NHẬT TUẦN
28 TN – C
Lc 17,11-19
Lc 17,11-19
Suy
niệm: Khi lòng biết ơn chứng
tỏ sự trưởng thành nơi một con người, thì sự vô ơn bộc lộ tình trạng ấu trĩ về
nhân cách. Mười người phung cùi được lành sạch, thế mà chỉ có một người trưởng thành
trở lại cám ơn Chúa. Khi hỏi “Còn chín người kia đâu?” Chúa muốn nhắc
nhở chúng ta đừng dừng lại nơi quà tặng, mà còn phải biết vươn xa hơn đến người
tặng quà là chính Chúa, Đấng ban ân sủng cho họ. Điều Chúa muốn chúng ta lưu
tâm hơn nữa, đó là lòng biết ơn của người Sa-ma-ri là lòng biết ơn của người có
đức tin. Anh ta trở lại cám ơn Chúa Giê-su với một chi tiết được Tin Mừng lưu
ý: “anh ta
sấp mình dưới chân Chúa Giê-su mà tạ ơn.” Trong Thánh Kinh, sấp mình là cử chỉ
người ta chỉ làm trước mặt Thiên Chúa mà thôi. Anh ta sấp mình tạ ơn Chúa bởi
nhận ra Thiên Chúa nơi con người Giê-su Na-da-rét. Người phong cùi không tạ ơn
Chúa Giê-su vì Ngài là một thầy thuốc tài năng, anh còn nhận biết và tuyên xưng
Ngài chính là Thiên Chúa, Đấng có quyền năng tha tội cho anh.
Mời Bạn: Bạn có muốn trưởng
thành trong nhân cách và trong đức tin không? Vậy bạn hãy tập cám ơn Chúa mỗi
ngày, trong mỗi biến cố.
Sống Lời Chúa: Đọc kinh Cám Ơn hoặc
dâng lời tạ ơn Chúa mỗi tối trước khi ngủ.
Cầu
nguyện: Lạy Mẹ Ma-ri-a, Mẹ đã cất
lời ca ngợi tạ ơn Thiên Chúa vì được Chúa ở cùng. Xin cho chúng con theo gương
của Mẹ, biết dâng lời cảm tạ ơn Chúa hằng ngày, đặc biệt trong những biến cố
đời con.
CHÍN NGƯỜI KIA ĐÂU
Ðời tôi là quà tặng của Chúa cho tôi. Ước gì nó
thành quà tặng của tôi cho mọi người.
Suy niệm:
Mười người phong đón gặp
Ðức Giêsu.
Họ chỉ dám đứng xa, nài
xin Ngài thương xót.
Ðức Giêsu không chữa cho
họ ngay,
Ngài muốn thử thách lòng
tin của họ.
Ngài bảo họ hãy đi trình
diện với các tư tế
như thể họ đã được khỏi
bệnh rồi.
Mười người phong đã vâng
phục lên đường,
và chính trên đường đi,
tất cả được khỏi bệnh.
Niềm vui bất ngờ ùa vào
lòng mọi người.
Cả nhóm tiếp tục cuộc
hành trình,
trừ một người phong ở vùng
Samari.
Lòng biết ơn đối với Ðức
Giêsu khiến anh quay lại,
sấp mình dưới chân Ngài
mà tạ ơn.
Chín người kia đâu?
Ðức Giêsu ngạc nhiên đặt
câu hỏi.
Chắc họ đã đi trình diện
các tư tế như lời Ðức Giêsu,
nhưng họ quên Ðấng mới
ban ơn cho họ.
Họ vui mừng ngừng lại ở
quà tặng,
nhưng không vươn tới
người tặng quà.
Họ đã có lòng tin nên
được khỏi bệnh,
nhưng họ lại thiếu lòng
biết ơn cần thiết.
Lòng biết ơn khiến lòng
tin trở nên sâu xa hơn,
vì là gặp lại chính Ðấng
đã ban tặng.
Chín người kia đâu?
Ðức Giêsu không làm phép
lạ để được biết ơn.
Ngài mong những người kia
trở lại để gặp họ,
và trao cho họ chính con
người Ngài.
Ðiều này còn quý hơn cả
ơn được khỏi bệnh.
Ơn lành bệnh chỉ là nhịp
cầu
để ta gặp gỡ Ðấng ban ơn,
và lớn lên trong niềm tin
cậy mến.
Chín người kia đâu?
Có khi tôi thường thuộc
về nhóm chín người.
Tôi quá quen với những ơn
Chúa ban,
đến độ thấy đó là chuyện
bình thường,
đến độ không thấy cần
phải tỏ lòng biết ơn.
Thật ra, biết ơn phải là
tâm tình chủ yếu
chi phối lời cầu nguyện
và cuộc sống của tôi.
Toàn bộ đời tôi là một
hồng ân, một quà tặng.
Tôi muốn sống đời tôi như
một lời tạ ơn không ngừng.
Tạ ơn là mãn nguyện về
những gì đã lãnh nhận,
là thấy mình được bao bọc
bởi Tình Yêu,
và muốn làm mọi sự để đáp
lại Tình Yêu đó.
Người phong vùng Samari
đã trở lại tôn vinh Thiên Chúa,
vì Ngài đã chữa anh lành
bệnh qua Ðức Giêsu.
Chúng ta cũng đã nhận
được biết bao ơn Chúa
từ tay những người xa lạ
hay thân quen.
Xin cám ơn cuộc đời, cám
ơn mọi người.
Ðời tôi là quà tặng của
Chúa cho tôi.
Ước gì nó thành quà tặng
của tôi cho mọi người.
Cầu nguyện:
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
9
THÁNG MƯỜI
Vừa
Phong Phú Vừa Nguy Hiểm
Chúng
ta thấy rằng lòng đạo đức bình dân là một cái gì vừa phong phú vừa nguy hiểm.
Vì thế, các mục tử của Giáo Hội cần phải ý tứ để kiểm soát những sự lạm dụng.
Nhưng các ngài cần thi hành công việc mục vụ của mình với lòng kiên nhẫn cao độ.
Như thánh Augustinô đã lưu ý vào thời của ngài, khi đứng trước một số hình thức
tôn sùng các thánh: "Chúng ta dạy điều đúng đắn, song chúng ta cũng cần phải
biết bao dung đối với những điều lệch lạc" (Contra Faustum 20,21 : CSEL
25,263).
Điều
quan trọng là phải nhận ra nhu cầu sùng ngưỡng sâu xa nơi con người – nhu cầu ấy
tự bộc lộ ra bằng những cách thế khác nhau. Chúng ta phải cố gắng để không ngừng
tinh luyện nó và làm cho nó thấm đẫm Tin Mừng của Đức Kitô. Đây là cung cách mà
xưa nay Giáo Hội vẫn áp dụng khi đứng trước sự thách đố của các nền văn hóa bản
địa ngoài Kitô giáo cũng như khi đứng trước lòng đạo đức và những hình thức
sùng ngưỡng bình dân.
Đó là
cách mà Giáo Hội đã làm khi tiếp nhận những làn sóng người mới tòng giáo sau sắc
chỉ của Constantine. Đó cũng là cách mà Giáo Hội đã làm để Kitô hoá các dân man
di ở châu Âu. Đó cũng là những gì đã xảy ra khi Giáo Hội cần rao giảng Tin Mừng
cho các dân tộc ở tân thế giới. Ngày hôm nay Giáo Hội cũng phải tiếp tục làm thế
nếu muốn thích ứng sứ điệp Kitô giáo với các đặc tính và các truyền thống của
các dân tộc khác nhau.
Chúng
ta không bao giờ được quên chuẩn mực mà Đức Gregory Cả đưa ra cho Thánh
Augustinô thành Canterbury, vị Tông Đồ của nước Anh: "Không được phá hủy
các đền thờ ngoại giáo, nhưng phải thanh tẩy và thánh hiến các đền thờ ấy cho
Thiên Chúa; cũng phải làm như thế đối với các tập tục tôn giáo mà dân chúng đã
quen cử hành để đánh dấu các biến cố trong đời họ" (Gregory Cả, Regesta
Pontificum, 1848, thư đề ngày 10 tháng 7, 601).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
09 -10
Chúa
Nhật XXVIII Thường Niên
2V
5,14-17; 2Tm 2,8-13; Lc 17,11-19.
Lời
suy niệm “Không phải cả mười người đều được sạch sao?
Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà
chỉ có người ngoại bang này?”
Qua
câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho mười người phung hủi được lành, nhưng chỉ
có người ngoại bang trở lại tôn vinh Thiên Chúa còn chín người kia không trở lại
tôn vinh Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nhắc nhở mỗi người Kitô hữu hôm nay, luôn cần
phải biết tạ ơn Thiên Chúa trong từng giây phút sống của mình, vi muôn hồng ân
của Chúa đang ban xuống trên chúng ta cả hồn lẫn xác. Chúng ta chỉ cần nhìn lại
số phận và hoàn cảnh của những con người đang sống chung quanh với chúng ta
trên trái đất này; với nhìn lại chính mình, gia đình mình và con cái của mình;
thì sẽ thấy được muôn ơn lành Chúa đã ban, để luôn phải luôn tạ ơn Thiên Chúa.
Lạy
Chúa Giêsu. Xin Chúa cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn nhận ra
tình yêu thương của Chúa đã dành để cho mình, để luôn biết tạ ơn Thiên Chúa và
tôn vinh Ngài.
Mạnh
Phương
09
Tháng Mười
Cầu Nguyện Là Hơi Thở Của Linh Hồn
Thời
Cách Mạng Pháp 1789, những người xây dựng chế độ mới muốn đánh đổ tất cả những
gì mà họ gọi là tàng tích của mê tín dị đoan. Họ hỏi những người nông dân có muốn
từ bỏ tôn giáo của họ không. Một người dân quê mùa chất phác đã trả lời như
sau: "Bao giờ các ông làm cho sao trời rơi xuống thì chúng tôi sẽ thôi cầu
nguyện".
Tự
đáy tâm hồn mình, con người luôn luôn khát khao và đi tìm Thiên Chúa. Cầu nguyện,
dưới hình thức này hay hình thức khác, là hơi thở của tâm hồn. Người ta có thể
trói buộc tay chân con người, người ta có thể khóa chặt miệng lưỡi con người,
nhưng không ai có thể ngăn cản con người cầu nguyện.
Cầu
nguyện là nhựa sống của tâm hồn. Con người có thể chết dần trong thân xác vì bệnh
tật, đau đớn hay bị hành hung, nhưng chính sự cầu nguyện nối kết tâm hồn con
người với Thiên Chúa và đem lại cho con người sức sống vượt lên trên mọi thử
thách và chết chóc.
(Lẽ
Sống)






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét