18/10/2016
Thứ Ba tuần 29 thường niên
THÁNH LUCA, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG.
Lễ kính.
* Thánh Luca, “người thầy
thuốc yêu quý” là bạn đồng hành của thánh Phaolô và cũng là tác giả sách Tin Mừng,
trong sách này người đã trình bày lòng nhân hậu của Chúa Kitô rõ ràng hơn ai hết.
Người cũng viết sách Công vụ, tường thuật lại sự tiến triển của Hội Thánh sau
ngày Hiện Xuống. Qua ngòi bút của con người thông thạo văn chương chữ nghĩa như
người, Tin Mừng trở thành một bài thánh ca tạ ơn trong bầu khí vui tươi và lạc
quan phấn khởi.
Bài Ðọc I: 2 Tm 4, 9-17a
"Chỉ còn một mình Luca ở với
cha".
Trích thư thứ hai của Thánh
Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, Ðêma đã lìa bỏ
cha, bởi nó yêu chuộng sự đời này, và đã trẩy sang Thêxalônica, còn Crescens
thì đi Galata, Titô đi Ðalmatia. Chỉ còn một mình Luca ở với cha. Con hãy đem
Marcô đi và dẫn tới đây với con, vì anh ấy có thể giúp ích để cha chu toàn sứ vụ.
Còn Tykicô, thì cha đã sai đi Êphêxô rồi. Cái áo khoác cha để quên tại nhà ông
Carpô ở Troa, khi con tới, hãy mang đến cho cha, cả những cuốn sách và nhất là
những mảnh da thuộc để viết.
Anh thợ đồng Alexanđrô làm cho
cha phải chịu nhiều điều khốn khổ. Chúa sẽ trả báo cho nó tuỳ theo công việc nó
đã làm. Cả con nữa, con cũng phải xa lánh nó, vì nó kịch liệt phản đối lời giảng
dạy của chúng ta.
Lần đầu tiên cha đứng ra biện hộ
cho cha, thì chẳng ai bênh đỡ cha, trái lại mọi người đều bỏ mặc cha: xin chớ
chấp tội họ. Nhưng Chúa đã phù hộ cha và ban sức mạnh cho cha, để nhờ cha mà lời
rao giảng được hoàn tất, và tất cả các Dân Ngoại được nghe.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 10-11. 12-13ab.
17-18
Ðáp: Lạy Chúa, con cái Chúa làm cho loài người nhận biết vinh
quang cao cả nước Chúa (c. 12).
Xướng: 1) Lạy Chúa, mọi công việc
của Chúa hãy chúc tụng Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài.
Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng. - Ðáp.
2) Ðể con cái loài người nhận biết
quyền năng, và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Chúa là nước vĩnh cửu muôn đời,
chủ quyền Chúa tồn tại qua muôn thế hệ. - Ðáp.
3) Chúa công minh trong mọi đường
lối của Người, và yêu thương trong mọi kỳ công Người tác tạo. Chúa ở gần những
kẻ kêu cầu Người, những kẻ kêu cầu Người với lòng thành thật. - Ðáp.
Alleluia: Ga 15, 16
Alleluia, alleluia! - Chúa phán:
"Chính Thầy đã chọn các con, để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa
trái các con tồn tại". - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 10, 1-9
"Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt
thì ít".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi
hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người đến các thành và
các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: "Lúa chín đầy đồng
mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người.
Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng
mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường.
"Vào nhà nào, trước tiên
các con hãy nói: "Bình an cho nhà này". Nếu ở đấy có con cái sự bình
an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại
trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ
đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ. Khi vào thành nào mà
người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các
bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: Nước Thiên Chúa đã đến gần các
ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Diễn Văn Truyền Giáo
Giáo Hội mời gọi chúng ta đọc và
suy niệm những câu đầu tiên của chương 10 Phúc Âm theo thánh Luca. Ðây là bài
diễn văn truyền giáo số 2. Bài diễn văn truyền giáo số 1 là chương 9, Phúc Âm
thánh Luca. Trong bài diễn văn truyền giáo số 2, Chúa Giêsu ngỏ lời căn dặn bảy
mươi hai môn đệ mà Ngài sai đi từng nhóm hai người một để làm như một cộng đoàn
làm việc chung với nhau, chứ không phải một cách riêng rẽ. Con số mười hai tông
đồ nhắc đến mười hai chi họ Israel; con số bảy mươi hai môn đệ nhắc đến chi tiết
nơi chương 10 sách Sáng Thế: "Khi tất cả các dân nước trên mặt đất".
Như thế, chúng ta có thể nói rằng
bài diễn văn truyền giáo số 2 của Chúa Giêsu trong đoạn Phúc Âm thánh Luca mà
hôm nay chúng ta suy niệm là những lời căn dặn của Chúa Giêsu cho tất cả mọi thành
phần Giáo Hội Dân Chúa đến từ khắp mọi nơi không phân biệt màu da, chủng tộc,
tiếng nói. Tất cả mọi người đồ đệ của Chúa đều phải là những nhà truyền giáo,
những chứng nhân của Chúa và phải tuân giữ những gì Chúa căn dặn nơi chương 10
này.
Những lời dặn dò trên của Chúa
Giêsu thật là cặn kẽ, cụ thể, với những chi tiết hết sức thực tế. Dĩ nhiên,
tinh thần phải có khi thực hiện những việc làm trên là điều quan trọng hơn. Thời
đại đã thay đổi, thời chúng ta đang sống khác với thời của Chúa Giêsu. Những hành
động cụ thể của một thời đã thay đổi, chẳng hạn như ngày xưa đi bộ, cầm gậy thì
ngày nay đã có các phương tiện giao thông liên lạc khác, nhưng tinh thần của những
hành động cụ thể mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ có không bao giờ thay đổi. Trong
những giây phút ngắn ngủi suy niệm này chúng ta không thê� nào suy niệm tất cả mọi khía cạnh của tinh thần truyền giáo nơi
môn đệ của Chúa.
Ước chi mỗi người chúng ta tìm
thì giờ rảnh rỗi trong ngày, trong tuần đê� trở lại suy niệm thêm về những lời căn dặn của Chúa nơi chương
10 Phúc Âm thánh Luca.
Chúng ta hãy nhớ lại những lời đầu
tiên Chúa Giêsu nói trong đoạn Phúc Âm hôm nay: "Lúa chín đầy đồng mà thợ
gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người, các
con hãy ra đi". Qua câu đầu tiên này của đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc chúng
ta điểm khởi đầu căn bản của mọi hoạt động truyền giáo: trước hết là nhận thức
nhu cầu của anh chị em chung quanh, thứ hai là đưa nhu cầu đó vào trong lời cầu
nguyện của chính mình và thứ ba là sẵn sàng để được sai và hăng say ra đi khi
được trao phó cho sứ mạng. Chúng ta hãy tự vấn xem chính mình đã có những tư tưởng
căn bản này chưa? Những quan tâm truyền giáo làm chứng cho Chúa có được chúng
ta đưa vào trong lời cầu nguyện của chính mình chưa? Trong cuộc đối thoại giữa
mình với Thiên Chúa chưa?
Lạy Chúa,
Này con đây đã sẵn sàng, Chúa muốn
con làm gì xin hãy phán và con xin lắng nghe. Xin ban ơn biến đổi mỗi người
chúng con trở thành những chứng nhân đích thực của Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Thánh Lucas Thánh Sử (Ngày 18 tháng 10)
Bài đọc: 2 Tim 4:9-17a; Lk 10:1-9.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành viết và rao giảng Tin Mừng.
Thánh Lucas không phải là người
Do-thái. Ngài được đề cập riêng khỏi những người Do-thái (Col 4:14), và kiểu mẫu
viết văn chứng tỏ ngài là người Hy-lạp. Vì thế, ngài không thể nào bị đồng nhất
với ngôn sứ Lucius của Acts 13:1 hay Lucius của Romans 16:21, người đồng hương
của Phaolô. Epiphanius không đúng khi gọi ngài là một trong số 72 môn đệ. Ngài
cũng không phải là người đồng hành với Cleopas trên hành trình Emmaus. Thánh
Lucas có kiến thức nhiều về Bản Bảy Mươi (Septuagint) và truyền thống Do-thái
mà ngài thu nhận được hoặc khi ngài đang là một tân tòng Do-thái hay sau khi
ngài đã trở thành một Kitô hữu, qua việc giao tiếp với các tông-đồ và các môn đệ.
Ngài sinh sống tại Antioch, thủ
đô của Syria. Ngài là một y sĩ, và Phaolô đã gọi ngài là “một y sĩ đáng yêu nhất”
(Col 4:14). Thánh Lucas xuất hiện lần đầu tại Troas khi ngài gặp thánh Phaolô
(Acts 16:8). Từ đó, ngài trở thành người bạn đồng hành cùng rao giảng Tin Mừng
với Phaolô và viết Tin Mừng Thứ Ba cùng Công Vụ Tông Đồ. Ngài là bạn trung
thành với Phaolô trong lần Phaolô bị giam lần cuối cùng như trình thuật hôm nay
viết (2 Tim 4:7-11). Ba lần ngài được đề cập đến trong các Thư của Phaolô (Col
4:14; Phi 24; 2 Tim 4:11), ngài được kể tên cùng với Marcô. Điều này chứng minh
Lucas quen thuộc với Marcô và Tin Mừng của ông. Lucas chắc cũng nhiều lần có cơ
hội gặp Phêrô và giúp ông trong việc viết các Thư Phêrô bằng tiếng Hy-lạp.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chỉ còn một mình anh Lucas ở với tôi.
1.1/ Phaolô hoàn toàn tin tưởng nơi
sự quan phòng của Thiên Chúa. Sau khi đã làm chứng cho Đức
Kitô tại Jerusalem, Ngài đã hiện ra với ông trong một thị kiến ban đêm để an ủi
và cho ông biết ông sẽ làm chứng cho Ngài tại Roma nữa; đồng thời Ngài cũng cho
ông biết những gian nan nguy hiểm đang chờ ông tại Roma.
Phaolô viết thư này cho môn đệ
Timothy khi ông đang bị giam trong tù tại Roma, với mục đích để khích lệ tinh
thần cho Timothy sẵn sàng làm chứng cho Đức Kitô. Phaolô không cho là ông xứng
đáng với triều thiên dành cho người công chính bằng những công việc ông làm;
nhưng Phaolô muốn nhấn mạnh đến niềm tin trung thành nơi Đức Kitô. Ngài là Thẩm
Phán Chí Công, Ngài là Đấng sẽ tuyên bố Phaolô là người công chính, và sẽ trao
phần thưởng là triều thiên công chính cho ông.
Đoạn văn này là bằng chứng cho
những người hiểu lầm học thuyết của Phaolô khi ông nói con người được công
chính nhờ đặt niềm tin nơi Đức Kitô, mà không cần phải làm gì để chứng tỏ niềm
tin. Phaolô chứng minh niềm tin của ông vào Thiên Chúa bằng việc hoàn tất sứ vụ
rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại mà Đức Kitô đã trao cho ông, và giờ đây, ông
còn sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho Tin Mừng ông rao giảng trên đất Rôma của
Dân Ngoại.
1.2/ Phaolô có thể vượt qua mọi trở
ngại là nhờ ông vững tin nơi Thiên Chúa: Nhìn lại cuộc đời rao giảng Tin Mừng của Phaolô, chúng ta không
khỏi ngạc nhiên về sự kiên trì phi thường của ông, khi phải đương đầu với những
đau khổ bên trong cũng như bên ngoài, như trong trình thuật hôm nay, ông viết:
“Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người
đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ.” Tuy phải chịu đau khổ như thế, nhưng ông
đã noi gương Đức Kitô, chẳng những không trách cứ họ, mà còn cầu nguyện cho họ
nữa.
Phaolô nhận ra sức mạnh để chịu
đựng và sự thành công trong việc rao giảng Tin Mừng không đến từ con người yếu
đuối của ông; nhưng nhờ ông đặt niềm tin trọn vẹn nơi Đức Kitô. Ông viết: “Có
Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng
được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã
thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc,
sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. Chúc tụng Người vinh hiển
đến muôn thuở muôn đời. A-men.”
2/ Phúc Âm: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông."
2.1/ Khác biệt về văn bản: Theo Lucas, Chúa Giêsu không chỉ chọn 12 Tông-đồ, nhưng còn nhiều
môn đệ khác, để huấn luyện và sai đi rao giảng Tin Mừng. Trong Lucas, có hai lần
sai đi: Lần thứ nhất, Chúa Giêsu sai 12 tông đồ (Lk 9:1-6; Mt 10:1, 7-16; Mk
6:7-13). Lần thứ hai, chỉ có trong Lucas, theo trình thuật hôm nay: “Chúa chỉ định
bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất
cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến.”
2.2/ Môn đệ là sứ giả mang Tin Mừng.
(1) Phải ý thức sứ vụ cuả mình:
Chúa Giêsu biết những nguy hiểm người môn đệ phải đương đầu khi Ngài nói với
các ông: “Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói.” Hai điều
Ngài muốn đề phòng cho các ông:
- “Đừng mang theo túi tiền, bao
bị, giày dép”: Đây là những thứ ngăn cản việc rao giảng Tin Mừng. Lo lắng quá
nhiều về phương diện sinh sống sẽ ngăn cản các ông dành mọi cố gắng cho việc
rao giảng Tin Mừng.
- “Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường”:
Chúa Giêsu không dạy các môn đệ bất lịch sự hay sống cách biệt. Ngài chỉ muốn
các môn đệ biết tính khẩn cấp của việc rao giảng Tin Mừng để các ông đừng trò
chuyện vô ích dọc đường, làm mất thời gian rao giảng (cf. 2 Kgs 4:29).
(2) Chấp nhận Tin Mừng là điều
kiện để có bình an: Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ: “Vào bất cứ nhà nào, trước
tiên hãy nói: "Bình an cho nhà này!"” Điều này chứng tỏ Tin Mừng cứu
độ được trao cách nhưng không cho mọi người. Theo Lucas, sự bình an này được
liên kết với ơn cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho mọi người (cf. 1:79, 2:14-29,
7:50, 8:48, 12:51, 19:38). Chấp nhận Tin Mừng là có bình an: “Nếu ở đó, có ai
đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không
thì bình an đó sẽ trở lại với anh em.” Điều Chúa Giêsu muốn ám chỉ ở đây là sự
bình an trong các môn đệ có năng lực làm cho người khác cũng cảm thấy được bình
an.
2.3/ Môn đệ là sứ giả của Nước Trời.
(1) Đừng tìm kiếm những sự thế
gian: Nhiều người nói “nếu không đem theo tiền bạc và bao bị thì lấy gì mà ăn.”
Nói như thế là khinh thường sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài coi các môn đệ
là những người làm cho Ngài, và “thợ làm đáng được trả công đời này” (1 Tim
5:18; cf. 1 Cor 9:7-14). Tuy nhiên, Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh: “người ta cho ăn
uống thức gì, thì anh em dùng thức đó.” Người rao giảng không được đòi hỏi, họ
phải có khả năng ăn thức ăn của địa phương dâng tặng. Họ cũng không thể sống
theo luật Kosher của Do-thái nữa. Người môn đệ cũng “đừng đi hết nhà nọ đến nhà
kia” để tìm lợi nhuận vật chất hay chỗ ăn ở sung sướng hơn.
(2) Làm cho triều đại Thiên Chúa
mau đến: Chúa Giêsu nhắc lại bổn phận chính của người môn đệ: “Hãy chữa những
người đau yếu trong thành, và nói với họ: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần
các ông."” Triều đại của Thiên Chúa đã đến với sự xuất hiện của Đức Kitô
và các môn đệ loan báo Tin Mừng này đến cho mọi người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta hãy noi gương hai
thánh Lucas và Phaolô để biết hy sinh dành trọn cuộc đời cho việc rao giảng Tin
Mừng.
- Chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn
trong việc rao giảng Tin Mừng vì đó là những giá trị ngược lại với những giá trị
của thế gian; nhưng ai bền vững đến cùng sẽ được cứu thoát.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên,
OP
18/10/16 THỨ BA TUẦN 29
TN
Th. Lu-ca, tác giả sách Tin Mừng
Lc 10,1-9
Th. Lu-ca, tác giả sách Tin Mừng
Lc 10,1-9
Suy niệm: H.Y Ph.Xav. Nguyễn Văn Thuận đã cảm nghiệm sâu
xa thân phận của người môn đệ Đức Ki-tô được sai đi đơn côi “như chiên đi vào giữa bầy sói”,
không thể bám víu vào bất cứ một sự hỗ trợ thông thường nào người ta có thể có:
không “túi
tiền, bao bị, giày dép…” Thế
nhưng lời nói đầu tiên và luôn luôn ở trên môi miệng người môn đệ bao giờ cũng
là lời nói đem lại bình an. Chính vì thế, Ngài đã chia sẻ: “Bị nhục mạ, bắt bớ, đuổi từ
thành này sang thành khác là dấu Chúa thương con, Chúa chọn con làm tông đồ
thật. Tôi tớ không hơn chủ, môn đệ không hơn Thầy. Họ đối xử với Thầy thế nào
thì họ cũng sẽ đối xử với các con như vậy’’ (Đường Hy Vọng).
Mời Bạn: Không
phải chỉ các linh mục, tu sĩ, mà mọi tín hữu, qua bí tích Rửa Tội và Thêm Sức,
đều là môn đệ và được sai đi với sứ mạng loan báo Tin Mừng bằng chính đời sống
đơn sơ, khó nghèo và yêu thương, tha thứ. Bạn thử nhìn lại mình xem đã thể hiện
được đến mức nào hình ảnh người môn đệ “không túi tiền, bao bị, giày dép” mà
miệng luôn tươi cười nói lời chúc bình an?
Sống Lời Chúa: Dành
ít phút suy niệm câu: “Phúc
thay anh em vì Thầy mà bị người ta sỉ vả bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.
Anh em hãy vui mừng hơn hở vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn
lao’’ (Mt
5,12).
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin dạy con biết
yêu mến và thực hành đức đơn sơ vì nhân đức này giúp con sống khiêm nhường đưa
con lại gần tinh thần Chúa hơn để con lôi kéo cứu vớt các linh hồn.
(Th. Gioan XXIII)
Sai thợ ra gặt lúa
Dù không thể viết được những câu chuyện tuyệt đẹp
như thánh Luca, nhưng chúng ta vẫn có thể kể câu chuyện đời mình cho người
khác, câu chuyện đầy ắp ân sủng Thiên Chúa và chan chứa niềm vui tri ân.
Suy niệm:
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít.
Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.”
(c. 2).
Trong hành trình truyền giáo cuối cùng với thánh
Phaolô (Cv 20, 5),
Luca hẳn đã thấy những cánh đồng lúa chín ở mọi nơi,
đang chờ nhiều người gặt hái gấp, kẻo lúa bị hư hoại.
“Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi…” (c. 3).
Dù chưa bao giờ gặp mặt Đức Giêsu,
nhưng Luca đã nghe được tiếng gọi sai đi của Ngài.
Ông đã là cộng tác viên ở bên thánh Phaolô khi người ở
tù (Plm 24),
và đã một mình ở lại khi người bị giam lúc cuối đời (2
Tm 4, 11).
Là người dân ngoại được đón nhận Tin Mừng,
Luca muốn trao lại Tin Mừng đó cho những người dân
ngoại khác.
Vừa có học thức và khiếu văn chương, lại vừa là y sĩ
(x. Cl 4, 14),
Luca đã dùng tài năng của mình để phục vụ cho Lời Chúa
(x. Lc 1, 2).
Người ta cho rằng Luca là một họa sĩ đã vẽ chân dung
Đức Mẹ,
nay được tôn kính ở Đền thờ Đức Bà Cả tại Rôma.
Nhưng điều chắc chắn hơn nhiều là Luca đã vẽ chân dung
Đức Giêsu,
khi thánh nhân cầm bút viết sách Tin Mừng cho dân
ngoại.
Qua việc nghe lời giảng của các tông đồ, qua tìm hiểu
và chiêm niệm,
Luca trở nên người hiểu rất sâu về trái tim nhân từ
của Thầy Giêsu.
Không hiểu Thầy Giêsu thì không thể viết được cuốn Tin
Mừng như thế.
Luca cho ta thấy một Giêsu say mê cầu nguyện,
từ khi Ngài chịu phép rửa của Gioan đến khi chịu treo
trên thập tự.
Cầu nguyện là giây phút Ngài có thể nói lên tiếng Abba
với Cha.
Giây phút riêng tư ấy, cả môn đệ cũng không khuấy động
được.
Luca còn cho thấy một Giêsu cương quyết lên
Giêrusalem, vì đó là ý Cha.
“Hôm nay, ngày mai, và ngày mốt, tôi phải tiếp tục
đi…” (13, 33).
Ngài đi đến nơi khổ đau và cái chết đang chờ đợi (Lc
9, 51 -19, 27).
Tin Mừng của Luca tràn ngập khuôn mặt của người nghèo,
nghèo sức khỏe, nghèo tiền bạc, nghèo phẩm giá, nghèo
đời sống tâm linh.
Đức Giêsu đã chữa bệnh và trừ quỷ, chúc lành và tha
thứ.
Ngài đem đến cuộc cách mạng của Thiên Chúa, cho người
nghèo nên giàu,
đem tình thương tha thứ vô bờ của Thiên Chúa cho tội
nhân
đem sự bình đẳng cho các phụ nữ để họ trở nên người
cộng tác (8, 2-3).
Vì thế Tin Mừng của Luca cũng tràn ngập niềm vui,
từ niềm vui của Dacaria, của Gioan trong bụng mẹ, của
các mục đồng,
đến niềm vui của các môn đệ sau khi Đức Giêsu thăng
thiên (24, 52).
Thánh sử Luca là một người dân ngoại được ơn viết Sách Thánh.
Chúng ta cũng là dân ngoại được ơn lãnh nhận đức tin.
Dù không thể viết được những câu chuyện tuyệt đẹp như
thánh Luca,
về người cha nhân hậu hay về hai môn đệ đi Emmaus,
nhưng chúng ta vẫn có thể kể câu chuyện đời mình cho
người khác,
câu chuyện đầy ắp ân sủng Thiên Chúa và chan chứa niềm
vui tri ân.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng
chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống
đã âm thầm chịu nát tan
để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.
Có bao điều tốt đẹp
chúng con được hưởng hôm nay
là do sự hy sinh quên mình của người đi trước,
của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng,
của ông bà, cha mẹ, thầy cô,
của những người đã nằm xuống
cho quê hương dân tộc.
Đã có những con người sống như hạt lúa,
để từ cái chết của họ
vọt lên sự sống cho tha nhân.
Nhờ công ơn bao người,
chúng con được làm hạt lúa.
Xin cho chúng con
đừng tự khép mình trong lớp vỏ
để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình,
nhưng dám đi ra
để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.
Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày.
Để chọn tha nhân và Thiên Chúa,
chúng con phải chết cho chính mình.
Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua
đi từ cõi chết đến nguồn sống,
đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở
trước Đấng Tuyệt Đối và tha nhân. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
18 THÁNG MƯỜI
Mang Tin Vui Cho Người Nghèo
Thời đại của chúng ta đang đứng
trước rất nhiều tình trạng đói nghèo về mặt luân lý, trong đó tự do và nhân phẩm
của con người bị đe dọa nghiêm trọng. Khốn nạn cùng cực nhất là tình trạng của
những người sống mà không hiểu biết được ý nghĩa của cuộc sống. Lương tâm con
người trở nên bị sai lệch hay hoàn toàn hư hỏng, đó là một dạng nghèo. Bao gia
đình phân rã hay đổ vỡ, đó cũng là một dạng nghèo. Chung qui, tất cả đều là cái
nghèo của tội lỗi.
Trong một thế giới bị xâu xé bởi
quá nhiều hình thức nghèo như thế, Giáo Hội phải cố gắng “mang tin vui đến cho
người nghèo” (Lc 4,18). Và Giáo hội đã làm điều đó bằng cách thể hiện những nỗ
lực như của Mẹ Têrêsa Calcutta và những nỗ lực tương tự của nhiều người khác.
Tình yêu của họ đối với Chúa Kitô và công việc phục vụ của họ đối với những con
người nghèo khổ nhất đang bộc lộ sâu sắc ý nghĩa ngôn sứ và sứ mạng loan báo
Tin Mừng của toàn Giáo Hội.
Những chứng tá hy sinh chất chứa
bản chất tình yêu Kitô giáo ấy quả là một nguồn khích lệ lớn lao. Đối với từng
người và đối với toàn Giáo Hội, những chứng tá ấy là “một niềm khích lệ trong
Chúa Kitô”â, “một sự an ủi trong lòng mến”, và “một sự thông dự trong Thánh Thần”.
(Pl 2,1)
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John
Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 18 -10
Thánh Luca, Tác giả sách Tin Mừng
2Tm 4,10-17; Lc 10,1-9.
Lời suy niệm “Lúa chín đầy đồng
mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. Anh em
hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi giữa bầy sói.”
Chúa Giêsu luôn mời gọi con cái
của Người bất cứ lúc nào cũng phải có tâm tình cầu nguyện cho ơn gọi, đặc biệt
là ơn gọi trở nên những linh mục tu sĩ để phục vụ trên cánh đồng truyền giáo. Đặc
biệt trong thế giới ngày hôm nay, bất cứ nơi đâu, bất cứ môi trường nào, con
người vẫn cần có những linh mục và tu sĩ phục vụ chân tình với tình yêu thương,
bởi vì nơi các ngài tràn đầy tình yêu thương của Chúa. Chính tình yêu là chìa
khóa mở được tất cả mọi cánh cửa mà con người cần đến, và ngăn chận những gì
gian dối.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi một
người trong chúng con luôn biết cầu nguyện, bảo vệ và gìn giữ, trân trọng các
linh mục và các tu sĩ, bởi vì các ngài luôn bị những sói dữ chực sẵn chung
quanh.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 18-10
Thánh LUCA THÁNH SỬ
(Thế kỷ I)
Thánh Luca, tác giả Phúc âm thứ
ba và sách Công vụ sứ đồ, là người đóng góp đơn độc và rông rãi nhất cho Tân ước.
Như các tác phẩm cho thấy, Ngài là một trong những Kitô hữu có học nhất thời
Giáo hội ly khai. Dầu vậy, Ngài rất mực khiêm tốn và ẩn mình đi đến nỗi dù một
chút gì chúng ta biết về Ngài cũng phải đọc trong những dòng chữ của Ngài bằng
kính phóng đại. Chúng ta chú mục vào những chỗ "nhóm chúng tôi" thay
vì "họ", nghĩa là Ngài nhận sự có mặt của mình trong khung cảnh chuyển
nó vào những dẫn chứng rời rạc trong thánh Phaolô, tìm những khuôn mặt xem ra
rõ rệt nhất, phân tích việc chọn lựa và xử dụng từ ngữ của Ngài. Dần dần hình ảnh
của thánh Luca nổi lên:
Ngài tự bẩm sinh là người Hylạp,
chứ không phải Do thái, nhưng theo ngôn ngữ và văn minh xem ra Ngài đã không
sinh ra tại những thành phố Hy lạp lớn miền cận đông. Một tác giả thứ hai nói
Ngài sinh ra tại Antiôkia, Syria và khi những biến cố xảy ra dường như Ngài
đang sống ở đó trong thập niên bốn mươi của thế kỷ đầu và đã là một trong những
lương dân trở lai đầu tiên.
Theo nghề nghiệp, Ngài là y sĩ
và rất có thể đã theo học đại học tại Tarse. Bởi đó có thể Ngài đã có vài tiếp
xúc trước với thánh Phaolô khoảng năm 49 hay 50, Ngài đã liên kết với thánh
Phaolô trong sứ vụ qua Tiểu Á tới Au Châu. Dầu vậy khi tới Philipphê, thánh
Luca đã dừng lại đó, không phải là giám mục của Giáo hội tân lập vì dường như
thánh nhân đã không hề lãnh nhận chức thánh, nhưng đúng hơn ta có thể gọi là
"thủ lãnh giáo dân". Hơn nữa, Ngài dường như dấn thân vào thành phần
sử gia, một vai trò mà sự giáo dục và cố gắng rất phù hợp với Ngài. Sự quan sát
kỹ lưỡng và diễn tả chính xác là những từ ngữ của các trường thuốc Hy lạp và
các văn phẩm của thánh Luca chứng tỏ để Ngài đã biết áp dụng chúng vào lãnh vực
lịch sử.
Dầu vậy, vào khoảng năm 57,
thánh Phaolô đã từ Corintô trở lại qua Macedonia trên đường đi Giêrusalem, để
thu thập các đại diện từ nhiều Giáo hội khác nhau và thánh Luca đã nhập bọn, từ
đó trở đi Ngài đã không hề rời xa thầy mình. Ngài đã chứng kiến việc người Do
thái tìm cách hại Phaolô và việc người Roma giải cứu thánh nhân. Khi Phaolô đáp
tàu đi Roma sau hai năm bị tù ở Cêsarêa, thánh Luca ở với Ngài. Họ bị đắm tàu ở
Malta và cùng tới Rôma. Nhưng ở Roma. Thánh Luca đã thấy một trách vụ khác đang
chờ đón Ngài. Roma là con mắt của Phêrô và người phát ngôn của thánh Phêrô là
Marcô đã xuất bản Phúc âm viết tay của Ngài.
Nhưng còn những ký ức khác đã được
viết ra hay truyền tụng rời rạc hoặc toàn bộ về cuộc đời của Chúa chúng ta trên
trần gian. Thánh Luca đã quyết định rằng: sứ vụ cho lương dân cần một Phúc âm mới,
được viết ra bằng Hy ngữ văn chương hơn là Phúc âm của Marcô cho hợp với lương
dân có học và không dành riêng cho người Do thái như là Phúc âm của thánh
Mathêo: việc trước tác sách này là phần tiếp theo sách Công vụ sứ đồ xem như
hoàn thành tại Roma giữa năm 61 tới 70, nhưng thánh Luca đã trốn cuộc bách hại
của Nêrô và đã trải qua quãng đời còn lại tại Hy Lạp.
Tài liệu thế kỷ thứ hai viết: -
"Trung thành phục vụ Chúa, không lập gia đình và không có con; Ngài được
qua đời hưởng thọ 84 tuổi ở Boctica, đầy tràn Thánh Thần".
Thánh Luca là một vị thánh luôn
luôn bình dân. Một phần có lẽ vì chúng ta hiểu rõ Ngài là một giáo dân, thừa hưởng
văn hóa Hy lạp cổ. Hơn nữa, Ngài bình dân vì đặc tính lương dân và dấn thân của
mình. Tất cả văn phẩm của Ngài đầy quan tâm đến con người, thương cảm con người,
liên hệ tới người nghèo, hào hiệp với phụ nữ. Ngài cũng rất hấp dẫn bởi đã thu
thập và kể lại vô số những công cuộc đầy nhân hậu của Chúa Kitô.
Thật ra người ta sẽ lầm lẫn khi
dìm mất tính chất và giáo huấn nghiêm khắc của Chúa. Nhưng các y sĩ có thể hãnh
diện về Ngài vì chắc hắn không có y sĩ nào sẽ qua mặt được Ngài về "tình
yêu dành cho nhân loại". Và những người còn lại trong chúng ta có thể biết
ơn Ngài vì nhờ Ngài chúng ta có được dụ ngôn cây vả khô chồi (13,60, đứa con
hoang đàng (15,11) và người Samaria nhân hậu (10,300. Chúng ta cũng biết ơn
Ngài vì câu chuyện người kẻ trộm thống hối và cả năm mầu nhiệm Mân Côi mùa Vui.
Nhưng trên tất cả, chúng ta mắc
ơn Ngài Kinh Ave "Ngợi khen" (Magnificat), chúc tụng (Benedictus),
Phó dâng (Nuncdimittis) với quá phân nửa câu truyện ngày lễ Giáng sinh. Rồi đây
là chỗ mà sự khiêm tốn ẩn mình của thánh nhân xa rời chúng ta.
Thánh Luca đã nghe truyện từ miệng
Chúa không ? Thánh nhân không nói điều này cho chúng ta nhưng rất có thể lắm.
Chúng ta biết sau cuộc đóng đinh, mẹ đã được thánh Gioan săn sóc và chắc chắn
đã có sự giao tiếp giữa hai thánh sử này. Nhưng trùng hợp của hai Phúc âm (như
về việc biến hình) hay những trùng hợp về ngôn ngữ trong phần đầu sách Công vụ
mạnh mẽ minh chứng điều này,
Hơn nữa, nếu thánh Luca được rửa
tội ở Antiôkia khoảng năm 40 thì tự nhiên là có thể tìm gặp được thánh Gioan ở
Giêrusalem... Lúc ấy Đức Mẹ trên dưới 70 tuổi. Như vậy không có lý gì thánh
Luca lại không thể nghe chính môi miệng mẹ kể chuyện. Mà dầu chuyện nầy có đến
với Ngài cách gián tiếp đi nữa, chúng ta vẫn biết ơn Ngài đã lưu lại cho chúng
ta những giai thoại đặc biệt ấy.
(daminhvn.net)
18 Tháng Mười
Lòng Ðầy Miệng Mới Nói Ra
Người ta thường bảo: "Lòng
đầy miệng mới nói ra" hay "Văn tức là người". Hai câu nói này có
thể áp dụng rất đúng vào vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay: thánh Luca, thánh
sử.
Chúng ta không có được những sử
liệu để biết về cuộc đời của thánh Luca ngoài danh hiệu thánh Phaolô nói về
ngài: "Luca, vị y sĩ rất thân mến của chúng tôi...". Vì thế, chúng ta
phải tìm hiểu về con người của thánh Luca qua hai tác phẩm ngài biên soạn, nhất
là qua sách Phúc Âm, thường được trao tặng những biệt hiệu sau đây:
1. Phúc Âm thánh Luca là Phúc Âm
của Lòng Thương Xót: Thánh Luca đặc biệt nêu bật lòng ưu ái và sự kiên nhẫn của
Chúa Giêsu đối với những tội nhân và những kẻ đau khổ. Ngài luôn mở rộng đôi
tay để đón nhận họ: những người xứ Samaria, những kẻ bị bệnh phong hủi, những
người thu thuế, những kẻ phạm tội công khai, những người nghèo cũng như các mục
đồng thất học.
Ngụ ngôn về người phụ nữ ngoại
tình, về một con chiên lạc, một đồng tiền bị đánh mất, về đứa con hoang đàng và
người trộm lành chỉ được ngòi bút của thánh Luca ghi lại rất linh động và xúc
tích.
2. Phúc Âm thánh Luca là Phúc Âm
của Ơn Cứu Rỗi phổ quát và đại đồng: Chúa Giêsu dang rộng đôi cánh tay, chết
treo trên thập giá là cho tất cả mọi người. Trong luồng tư tưởng này, thánh
Luca ghi lại gia phả của Chúa Giêsu ngược lại đến nguyên tổ Ađam chứ không phải
chỉ ghi lại Chúa Giêsu là con vua Ðavit, con ông Abraham như thánh sử Matthêu.
Và trong lúc Chúa Giêsu hoạt động rao giảng Tin Mừng, nhiều người dân không phải
là Do Thái cũng được Ngài ân cần tiếp đón và thi ân.
3.Phúc Âm thánh Luca là Phúc Âm
của những người nghèo, trong đó những người đơn sơ, nhỏ bé, đóng một vai trò
quan trọng, như: ông Giacaria và bà Ysave, Ðức Maria và thánh Giuse, những người
mục đồng, ông Simêon và bà góa Anna.
4. Phúc Âm thánh Luca là Phúc Âm
của sự cầu nguyện và của Chúa Thánh Thần: Luca thường mở đầu đoạn Phúc Âm với lời
ghi nhận: "Chúa Giêsu đang cầu nguyện" và Thánh Thần mang Giáo Hội đến
chỗ hoàn hảo cuối cùng.
5. Phúc Âm thánh Luca là Phúc Âm
của niềm vui: thánh Luca thành công trong việc phác họa hình ảnh Giáo Hội sơ
khai tràn đầy niềm hân hoan vì cảm nghiệm được mầu nhiệm Phục Sinh, sự hiện diện
của Chúa Thánh Thần và Ơn Cứu Rỗi.
Mừng lễ kính thánh Luca, chúng
ta hãy cùng nhau đọc đoạn cuối của Phúc Âm, gồm những dòng có thể so sánh như
chiếc gạch nối liên kết sách Phúc Âm với sách Tông Ðồ Công Vụ để diễn tả một
sinh hoạt rất quan trọng của Giáo Hội và của mọi tín hữu Kitô: "Ðoạn Chúa
dẫn các môn đệ đi về phía làng Bêtania. Chúa giơ tay chúc phúc cho họ. Ðang khi
Chúa phán, Chúa rời khỏi họ mà lên trời. Các môn đệ thờ lạy Chúa rồi trở về
Giêrusalem, lòng đầy hân hoan. Họ có mặt luôn luôn trong đền thờ để ca tụng và
cảm tạ Thiên Chúa".
Dõi theo gương của các môn đệ
tiên khởi của Chúa Giêsu, chúng ta hãy luôn dâng lời ca tụng và cảm tạ Thiên
Chúa.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina: Thánh Luca, Tác Giả Sách Tin Mừng – Lc 10:1-9
Thánh Luca, Phúc Âm Thánh Sử
Mùa Thường
Niên
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa,
Chúa là Đấng phò trợ và hướng dẫn
chúng con,
Xin hãy làm cho tình yêu của
Chúa là nền tảng của đời sống chúng con.
Nguyện xin cho tình yêu của
chúng con đối với Chúa được thể hiện
qua việc chúng con sẵn lòng làm
điều tốt lành cho tha nhân.
Chúa là Đấng hằng sống hằng trị
cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần,
Một Thiên Chúa, đến muôn thuở
muôn đời. Amen.
2. Bài Đọc Tin Mừng – Luca
10:1-9
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi
hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người đến các thành và
các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: "Lúa chín đầy
đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của
Người. Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng.
Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc
đường.
"Vào nhà nào, trước tiên
các con hãy nói: 'Bình an cho nhà này'. Nếu ở đấy có con cái sự bình an,
thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại
trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có,
vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
Khi vào thành nào mà người ta tiếp
các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh
nhân trong thành và nói với họ rằng: Nước Thiên Chúa đã đến gần các
ngươi".
3. Suy Niệm
- Hôm nay, lễ kính Thánh Sử Luca, bài Tin Mừng trình bày
cho chúng ta việc sai đi của nhóm bảy mươi hai môn đệ, những người đi loan báo
Tin Mừng của Chúa trong các làng mạc và phố thị của miền Galilêa. Chúng ta là
nhóm bảy mươi hai môn đệ, những người đến sau Nhóm Mười Hai. Thông qua sứ
vụ của các môn đệ, Chúa Giêsu tìm cách khôi phục lại các giá trị cộng đoàn về
truyền thống của những người cảm thấy bị nghiển nát dưới ách nô lệ gấp đôi bởi
đế quốc La-Mã và bởi giới chức Tôn Giáo. Chúa Giêsu cố gắng đổi mới và tổ
chức lại các cộng đoàn theo cách mà các cộng đoàn phải là sự biểu thị của Giao
Ước, một ví dụ về Vương Quốc Nước Trời. Đây là lý do mà Chúa nhấn mạnh đến
lòng hiếu khách, sự chia sẻ, hiệp thông, đón nhận những kẻ bị gạt ra
ngoài. Điều nhấn mạnh này của Chúa Giêsu được tìm thấy trong lời khuyên bảo
mà Chúa đã ban cho các môn đệ khi Người sai các ông ra đi làm sứ vụ. Vào
thời Chúa Giêsu, đã có những những phong trào khác, giống như Chúa Giêsu, đang
tìm kiếm một phương cách mới để sống và sống chung với nhau, ví dụ ông Gioan Tẩy
Giả, người Biệt Phái và những người khác. Họ cũng đã thành lập các cộng
đoàn môn đệ (Ga 1:35; Lc 11:1; Cv 19:3) và họ đã có các sứ vụ của mình (Mt
23:15). Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy rằng có sự khác biệt rất lớn.
- Lc 10:1-3: Sứ vụ. Chúa Giêsu sai
các môn đệ đến những nơi mà Người sẽ tới. Người môn đệ là phát ngôn nhân
của Chúa Giêsu. Ông ta không phải là sở hữu chủ của Tin Mừng. Chúa
sai các ông đi từng hai người một. Điều đó giúp cho sự hỗ trợ lẫn nhau, bởi
vì sứ vụ không phải là cho cá nhân, mà đúng hơn đó là một sứ vụ cộng đoàn.
- Lc 10:2-3: Đồng chịu trách nhiệm.
Nhiệm vụ đầu tiên là cầu nguyện để Thiên Chúa sai thợ đi. Tất cả các môn
đệ phải cảm thấy rằng họ có trách nhiệm với sứ vụ. Đây là lý do tại sao
tôi nên cầu nguyện cùng với Chúa Cha cho sự liên tục của sứ vụ. Chúa
Giêsu sai các môn đi của Người ra đi như chiên con ở giữa bầy sói rừng. Sứ
vụ là một nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm; bởi vì xã hội mà trong đó các môn đệ
đã sống và chúng ta đang sống đã và đang tiếp tục đối nghịch với việc tái tổ chức
các cộng đoàn sống động.
- Lc 10:4-6: Lòng hiếu khách. Trái
với các nhà truyền giáo khác, môn đệ của Chúa Giêsu không được mang theo bên
mình bất cứ thứ gì, không bao bị, không giày dép; mà họ chỉ nên
mang theo sự bình an. Điều này có nghĩa là các ông phải tin
vào lòng hiếu khách của người ta; vì người môn đệ là kẻ ra đi không mang theo bất
cứ vật gì, chỉ mang theo sự bình an, cho thấy rằng người đó tin tưởng vào dân
chúng. Người môn đệ nghĩ rằng mình sẽ được chào đón, và người dân thì sẽ
cảm thấy được tôn trọng và được thừa nhận. Bằng cách thực hành này, người
môn đệ chỉ trích luật loại trừ và phục hồi các giá trị cổ xưa của cuộc sống
trong một cộng đoàn. Đừng chào hỏi ai dọc đường có nghĩa
là không nên lãng phí thì giờ cho những việc không thuộc về sứ vụ.
- Lc 10:7: Chia sẻ. Các môn đệ không
nên đi từ nhà này sang nhà khác, mà họ nên ở lại một nơi. Có nghĩa là
họ phải sống chung với những người khác một cách ổn định, tham gia vào cuộc sống
và công việc của người dân, sống và ăn những thứ họ nhận được, bởi vì
thợ thì đáng được trả công. Điều này có nghĩa là họ nên tin vào sự
chia sẻ. Như vậy, bằng cách thực hành mới này, họ khôi phục lại truyền thống
cổ xưa của dân gian, chỉ trích nền văn hóa vơ vét được đặc trưng cho hệ thống
chính trị của Đế chế La Mã và họ đã công bố một mẫu mực mới cho việc sống chung.
- Lc 10:8: Sự chia sẻ bên bàn ăn. Khi
ngườ Biệt Phái đi rao giảng, họ chuẩn bị sẵn sàng. Họ cho rằng không thể
tin vào thức ăn người ta dọn cho họ vì những thức ấy không phải lúc nào cũng được
“tinh khiết”. Vì điều này, họ mang theo bên mình một bao bị và túi tiền để
có thể mua thức ăn riêng cho bản thân. Như vậy, thay vì giúp để vượt qua
những chia rẽ, việc tuân giữ Lề Luật thanh sạch đã làm suy yếu thêm những giá
trị của đời sống cộng đoàn. Các môn đệ của Chúa Giêsu nên ăn bất cứ thức
gì người ta dọn cho họ. Các ông không được sống tách biệt, ăn thức ăn
riêng của mình. Điều này có nghĩa là các ông phải chấp nhận việc chia sẻ
bên bàn ăn. Trong việc tiếp xúc với dân chúng, các ông không nên sợ sẽ
không giữ được luật tinh khiết. Hành động theo cách đó, các ông bình phẩm
luật lệ hiện hành, và các ông loan báo một lối vào mới cho sự tinh khiết, đó là
sống thân mật với Thiên Chúa.
- Lc 10:9a: Đón
nhận kẻ bị hắt hủi. Các môn đệ phải chăm sóc các người bệnh, chữa sạch
người phong cùi và khử trừ ma quỷ (Mt 10:8). Điều đó có nghĩa là các ông
phải chấp nhận những kẻ bị loại trừ vào trong cộng đoàn. Điều thực hành
việc đoàn kết này đã chỉ trích xã hội sống loại trừ và chỉ ra phương cách cụ thể
cho việc này. Đây cũng là công việc mục vụ dành cho những người bị hắt hủi,
khách ngoại kiều và những kẻ bị thiệt thòi ngày nay.
- Lc 10:9b: Nước
Trời sắp đến. Nếu những đòi hỏi này được tôn trọng, thì các môn đệ có
thể và nên hét to lên cho tất cả mọi nơi trên thế giới biết: Vương
Quốc Thiên Chúa đã đến! Để loan báo về Nước Trời thì việc đầu tiên
không phải là dạy về chân lý và học thuyết, mà là hướng dẫn đến một phương cách
sống mới và sống với nhau như anh chị em bắt đầu từ Tin Mừng mà Chúa Giêsu đã
loan báo cho chúng ta: Thiên Chúa là Cha và Mẹ của tất cả chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý
cho việc suy gẫm cá nhân
- Lòng hiếu khách, chia sẻ, hiệp thông, đón chào và chấp nhận
những người bị loại trừ: là những trụ cột hỗ trợ cho đời sống cộng
đoàn. Làm thế nào để thực hiện điều này trong cộng đoàn của tôi?
- Là Kitô hữu có ý nghĩa gì đối với tôi? Trong một cuộc
phỏng vấn trên truyền hình, một người đã trả lời nhà báo như sau: “Tôi là
một Kitô hữu, tôi cố gắng sống theo Tin Mừng, nhưng tôi không tham gia trong cộng
đoàn của Giáo Hội”. Và nhà báo đã nhận xét rằng: “Thế thì, ông/bà
có nghĩ mình là một cầu thủ bóng đá mà không có đội bóng chăng!” Đây có
phải là trường hợp của tôi không?
5. Lời nguyện kết
Lạy CHÚA, muôn loài Chúa dựng
nên phải dâng lời tán tạ,
kẻ hiếu trung phải chúc tụng
Ngài,
nói lên rằng: triều đại
Ngài vinh hiển,
xưng tụng Ngài là Đấng quyền
năng.
(Tv 145:10-11)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét