Ngày thứ ba ĐTC viếng thăm Georgia và
Azerbaigian
Tường thuật ngày thứ 3 ĐTC viếng
thăm mục vụ Georgia và Azerbaigian
Chúa Nhật 2-10 là ngày chót
trong chuyến công du mục vụ ba ngày của ĐTC Phanxicô tại hai nước Georgia và
Azerbaigian. Từ thủ đô Tbilisi Georgia ĐTC bay sang thủ đô Baku của
Azerbaigian. Azerbaigian rộng 86.600 cây số vuông, có gần 10 triệu dân, gồm
92,2% gốc Azeri, 3,5% gốc Nga, 2,2% gốc Lesghi, và 2% gốc Armeni. Trên biình diện
tôn giáo 88% theo Hồi giáo, trong đó 62% là người Sciít, và 26% là người
Sunnít. Chính thống giáo chiếm 12%, trong khi công giáo chiếm 0,01%.
Lịch sử Azerbaigian rất cổ
xưa, nó gắn liền với các nền văn hóa nở hoa trong vùng Lưỡng Hà, tức Iran Iraq
ngày nay. Nó là vùng đất nằm giữa đế quốc Roma rồi Bisanzio, và Ba Tư Sasanít.
Bị người A rập chiếm đóng hồi thế kỷ thứ VII Azerbaigian bị phân chia giữa các
triều đại Iran và Thổ Nhĩ Kỳ. Từ thế kỷ XVI nó thuộc Ba Tư Safawít. Từ thế kỷ
XVIII nó chịu áp lực của Nga cho tới khi bị chia đôi: phía tây thuộc Nga rồi
Liên Xô, phiá đông thuộc Ba Tư. Năm 1991 Azerbaigian được độc lập khỏi Liên Xô.
Từ năm 2001 là thành viên Hội Đồng Âu châu. Năm 1988 chiến tranh bùng nổ giữa
Azerbaigian và Armenia trong vùng Nagorno Karabakh có đa số dân người Armeni,
đã bị Staline sát nhập vào Azerbaigian năm 1921. Chiến tranh bùng nổ vì phong
trào quốc gia muốn hiệp nhất trở lại với Armenia đã khiến cho 30.000 người chết
và hàng chục ngàn người tỵ nạn. Năm 1994 hai bên đình chiến, nhưng quân đội
Armeni vẫn hiện diện. Năm 1997 vùng này được tự trị nhiều hơn và có môt hành
lang thông thương với Armenia. Tháng 4 năm 2016 thoả hiệp ngưng chiến bị vi phạm,
và chiến tranh tái bùng nổ khiến cho hơn 100 người thiệt mạng và hàng trăm người
bị thương. Ngày mùng 2 tháng 6 năm nay qua trung gian của Nga và Hoa Kỳ một
thoả hiệp ngưng bắn mới được ký kết tại Vienne. Hiện nay dầu lửa là nguồn lợi
kinh tế chính của Azerbaigian.
Kitô giáo có lịch sử cổ xưa.
Theo truyền thống thánh Bartolomeo đã sang truyền giáo tại Ấn Độ và chết
tử đạo tại Azerbaigian hồi hậu bán thế kỷ thứ I. Công việc rao truyền Tin Mừng
được thánh Eliseo, môn đệ của tông đồ Tađêo tiếp tục. Thánh Eliseo cũng là người
đầu tiên xây nhà thờ trong xứ, và xác ngài được chôn cất tại làng Kish, gần
thành phố Sheki được gọi là “Mẹ của các Giáo Hội dông phương” . Tuy nhiên
Gregorio Đấng đuợc soi sáng mới là ngưởi rao giảng Tin Mừng tại Armenia và
thành công trong việc hoán cải vua Urmayr vua người Albani năm 313. Nhà vua chọn
Kitô giáo làm quốc giáo.
Giáo Hội tông truyền Albania
tách rời khỏi Giáo Hội Roma sau công đồng Calcedonia năm 451 và độc lập
cho tới khi nhập chung với Giáo Hội tông truyền Armeni trước khi ngưòi A rập
xâm nhập vùng Caucaso hồi thế kỷ thứ VIII, và làm thành một Catholicato tự trị,
sau đó rời về đan viện Gandzasar trong vùng Nagorno Karabakh cho tới năm 1836
thì bị Nga hoàng bãi bỏ và giảm xuống hàng tổng giám mục của Giáo Hội tông truyền
Armeni. Vào thế kỷ XIV Công giáo được du nhập vào đây nhờ các tu sĩ dòng Đa
Minh, Cát Minh và Agostino, và đạt sự phát triển tột đỉnh vào thế kỷ XVIII với
sự trợ giúp của các tu sĩ dòng Tên. Giáo Hội có các nhà thờ, trường học và đan
viện tại nhiều thành phố khác nhau.
Các sinh hoạt của Giáo Hội
công giáo bị gián đoạn sau khi Azerbaigian bị đế quốc Nga xâm lăng vào đầu thế
kỷ XIX, và danh ưu tiên cho Giáo Hội chính thống. Giáo xứ đầu tiên được thành lập
năm 1882, nhưng tới năm 1900 mới được thừa nhận, và năm 1912 mới có nhà thờ đầu
tiên là nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm. Giữa các năm 1917-1991 Giáo Hội công giáo bị
chế độ cộng sản Liên Xô bách hại khốc liệt. Năm 1930 nhà thờ bị phá hủy. Linh mục
cuối cùng là cha Stefan Demurow bị giết. Kể từ đó trong vòng 60 năm đã không có
linh mục công giáo nào được phép đặt chân tới đây. Sau khi Azerbaigian được độc
lập năm 1991 Giáo Hội công giáo chỉ có khoảng 30 giáo dân, không có nhà
thờ và linh mục. Năm 1997 linh mục đầu tiên tới Baku theo lời xin của tín hữu
là cha Jerzy Pilus, người Ba Lan. Kể từ đó trở đi Giáo Hội Azerbaigian bắt đầu
hồi sinh.
Chúa Nhật hôm qua ĐTC đã có bốn
sinh hoạt chính: Sau lễ nghi tiếp đón ngài đã đến nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm của
dòng Salesien để dâng thánh lễ. Tiếp đến vào ban chiều có lễ nghi chào đón tại
dinh tổng thống, thăm xã giao tổng thống và đài kỷ niệm các chiến sĩ trận vong.
Lúc 5 giờ chiều ĐTC gặp gỡ các giới chức chính quyền, đại điện các cơ quan và
ngoại giao đoàn tại trung tâm Heydar Aliyev. Tiếp đến ĐTC gặp gỡ Sceico của người
Hồi vùng Caucaso và đại diện các tôn giáo khác tại phòng chính của đền thờ Hồi
giáo Heydar Aliyev, trước khi từ giã Azerbaigian lấy máy bay trở về Roma. Sau
đây là chi tiết các sinh hoạt của ĐTC.
Sáng Chúa Nhật lúc sau 7 giờ
ĐTC từ giã toà Sứ Thần Toà Thánh để đi xe ra phi trương Tbilisi cách đó 26 cây
số. ĐTC đã được tổng thống Cộng hoà Georgia và Đức Thượng Phụ tiếp đón. Lễ nghi
tiễn biệt đã diễn ra long trọng. Máy bay chở ĐTC và đoàn tuỳ tùng đã cất
cánh rời phi trường Tbilisi để trực chỉ Baku cách đó 448 cây số. Sau 1 giờ 20
phút bay chiếc A321 của hãng hàng không Alitalia đã hạ cánh tại phi trường quốc
tế Heydar Aliyev của thủ đô Baku. Tiếp đón ĐTC tại phi trường có phó thủ tướng
Azerbaigian, và linh mục Vladimir Fekete, giảm quản giáo phận. ĐTGM Marek
Solczýnski Sứ Thần Toà Thánh ở trong đoàn tuỳ tùng vì ngài cũng là Sứ Thần tại
Georgia.
Thủ đô Baku có gần 2 triệu
dân nằm trên bờ phía tây của biển Caspio, trên bán đảo Asheron, là điểm nối liền
Đông Tây. Tên gọi phát xuất từ tiếng Ba Tư cổ Badu-Kube” là “thành phố gió” có
hải cảng thương mại trong một vùng có nhiều mỏ dầu hoả và nhà máy lọc dầu.
Năm 2005 có một ống dẫn dầu dài 1770 cây số đi qua Georgia và Thổ Nhĩ Kỳ đến
thành phố Ceyhan trên bờ biển Địa Trung Hải. Thủ đô tân tiến là trung tâm chính
trị, văn hóa và kỹ nghệ. Trong số nhiều viện bảo tàng nổi tiếng nhất là viện bảo
tàng trưng bầy các thảm dệt, các tác phẩm nghệ thuật áp dụng như đồ trang sức,
thêu, và các vật dụng bằng kim loại và gỗ khắc. Trung tâm thành cổ nằm bên
trong một pháo đài có chiếc tháp Trinh Nữ cao 29 mét, được Liên Hiêp Quốc tuyên
bố là gia tài của nhân loại năm 2000; dinh thự của vua Shirvan thuộc thế kỷ XV,
và đền thờ hồi giáo Taza Pir xây đầu thế kỷ XX. Ngoài ra còn có dinh chính quyền
theo kiểu liên xô. Ba Ku đã do Alách xăng đại đế thành lập. Từ thế kỷ thứ VII
nó nằm trong tay người A Rập, từ 1583 tới 1606 nó thuộc đế quốc Ottoman. Nga
hoàng Phêrô Cả đánh chiếm thành phố năm 1723. Trong thế kỷ XVIII nó là vùng
tranh chấp giữa Nga và Ba Tư, cho tới khi bị Nga tái chiếm năm 1806. Năm
1991 Azerbaigian được độc lập.
Giáo quận tông toà Baku được
thành lập năm 2000, gồm 9,5 triệu dân, nhưng chỉ cơ 560 tín hữu công giáo, 1
giáo xứ, một cứ điểm truyền giáo. Nhân lực của giáo quận gồm 7 linh mục dòng,
10 tuy huynh, và 5 nữ tu và 1 đại chủng sinh. Giáo Hội điều khiển 1 trung tâm
giáo dục và 1 trung tâm bác ái.
Sau lễ nghi tiếp đón tại phi
trường ĐTC đã đi xe về nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm cách đó 23 cây số để dâng thánh
lễ cho tín hữu.
Nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm
được xây năm 1909, năm 1931 bị người Bônxêvích phá huỷ. Cộng đoàn tín hữu nảy
sinh năm 1992. Họ viết thư về Toà Thánh để xin một linh mục. Năm 2002 sau chuyến
viếng thăm mục vụ của Đức Gioan Phaolô II tổng thống Heydar Aliyev tặng Giáo Hội
một mảnh đất để xây nhà thờ. Nhà thờ đã được khánh thành năm 2007 với sự tham dự
của ĐHY Bertone, hồi đó là Quốc Vụ Khanh Toà Thánh. Nhà thờ thuộc trung tâm
Salesien, gồm 6 linh mục, 3 tu huynh và một thanh niên Azero đang theo học để
làm Phó tế. Đây là trung tâm giáo dục trẻ em và người trẻ, và cung cấp thực phẩm
cho người nghèo và người tỵ nạn. Bên cạnh đó cũng có các nữ tu thừa sai bác ái
của Mẹ Têrêxa Calcutta hoạt động cho người già và dân nghèo, và từ năm 2015
cũng có thêm các nữ tu Salesien nữa.
Thánh lễ đã được cử hành bằng
tiéng latinh, Các bài đọc và thânh ca gồm nhièu thứ tiếng khác nhau. Hàng trăm
tin hữu khác đã theo dõi thành lễ ở bên ngoài nhà thờ.
Giảng trong thánh lễ ĐTC nêu
bật hai khía canh của cuộc sống kitô là đức tin phục vụ.
Bài đọc thứ nhất kể lại lời
ngôn sứ Khabacúc khẩn nài Thiên Chúa can thiệp để tái lập công lý và hoà bình,
bị con người dùng bạo lực đập tan. Khi trả lời Thiên Chúa trả không can thiệp
và giải quyết vấn đề một cách đột ngột và với sức mạnh. Trái lại Ngài mời gọi
kiên nhẫn chờ đợi và không đánh mất đi niềm hy vọng và nhất là nhấn mạnh tới
lòng tin, vì chính nhờ đức tin mà con người sẽ sống (Kbc 2,4). Thiên Chúa cũng
làm như thế đối với chúng ta: Ngài muốn chữa lành con tim của tôi, của bạn, của
từng người. Và ĐTC giải thích kiểu Thiên Chúa làm như sau:
Ngài thay đổi thế giới bằng
cách thay đổi con tim chúng ta, và Ngài không thể làm điều này mà không có sự cộng
tác chúng ta. Thật thế, Thiên Chúa muốn chúng ta mở cửa con tim cho Ngài để có
thể bước vào cuộc sống chúng ta. Bởi vì khi Thiên Chúa tìm thấy một con tim rộng
mở và tin tưởng, ở đó Ngài có thể làm các điều kỳ diệu.
Nhưng có đức tin, một đức tin
sống động, không phải là điều dễ dàng. Chính vì thế chúng ta hiểu tại sao các
tông đồ lại xin Chúa gia tăng lòng tin cho các ngài. Đây là một lời xin đẹp, một
lời cầu mà chúng ta có thể hướng lên Chúa mỗi ngày. Đức tin là một ơn của Chúa,
nhưng luôn luôn phải được chúng ta xin và vun trồng mỗi ngày. Nó không phải là
một sức mạnh ma thuật từ trời xuống, nó không phải là một “của hồi môn” nhận một
lần cho luôn mãi, lại càng không phải là một quyền lực siêu phàm giúp giải quyết
các vấn đề của cuôc sống.
Tiếp tục bài giảng ĐTC nói:
Không được lẫn lộn đức tin với sự thoải mái, với việc đuợc an ủi trong tâm hồn,
vì chúng ta có được một chút bình an. Đức tin là sợi chỉ vàng nối liền chúng ta
với Chúa, là niềm vui tinh tuyền được ở với Ngài, đuợc hiệp nhất trong Ngài. Nó
là món quà đáng giá toàn cuộc sống, nhưng chi sinh hoa trái nếu chúng ta làm phần
mình. Và phần của chúng ta là việc phục vụ. Không thể tách rời Đức tin và sự phục
vụ, chúng gắn liền với nhau và được cột buộc vào nhau, y như các tấm thảm, là
các tác phẩm nghệ thuật có một lịch sử rất xa xưa của anh chị em. Đức tin của
chúng ta cũng thế nó đến từ xa xưa, là môt món qua, mà chúng ta nhận được trong
Giáo Hội, phát xuất tử con tim của Thiên Chúa Cha, là Đấng muốn biến từng người
trong chúng ta thành một tác phẩm của thụ tạo và của lịch sử. Cuộc sống kitô của
chúng ta cũng thế: nó được dệt từng ngày một cách kiên nhẫn: sợi ngang sợi dọc
đan nhau một cách chính xác, sợi dọc của đức tin sợi ngang của phục vụ. Khi đức
tin giao thoa với phục vụ nó trở thành quyền năng và làm những điều kỳ diệu.
Phục vụ không phải chỉ là thực
thi nhiệm vụ của mình, và làm một vài việc thiện. Đối với Chúa Giêsu nó còn hơn
thế rẩt nhiều. Nó là một sự sẵn sàng hoàn toàn trong suốt cuộc đời, không tính
toán và không lợi lộc. Trao ban tận hiến hoàn toàn như Chúa Giêsu trong bí tích
Thánh Thể. Như thế, chúng ta không chỉ được mời gọi phục vụ để được một phần
thưởng, nhưng noi gương Chúa trở thành người phục vụ vì yêu thương. ĐTC giải
thích thêm như sau:
Khi đó phục là một kiểu sống,
còn hơn thế nữa nó tóm gọn kiếu sống kitô: phục vụ Thiên Chúa trong thờ lậy và
cầu nguyện, rộng mở và sẵn sàng, yêu thương tha nhân một cách cụ thể, hăng hái
lo cho công ích.
Tuy nhiên, trong cuộc sống đức
tin cũng có các cám dỗ: truớc hết là một con tim nguội lạnh khiến cho tín hữu sống
uơn lười và bóp nghẹt tình yêu, chỉ sống để thoả mãn các thoải mái riêng không
bao giờ đủ, và không bao giờ hài lòng, và rốt cuộc sống tầm thường xoàng xĩnh.
Họ dành phần trăm cho Chúa và cho tha nhân, và luôn luôn tiết kiệm. Anh chị em
đừng để cho con tim mình nguội lạnh đi. Toàn Giáo Hội nhìn anh chị em và khích
lệ anh chị em: anh chị em là một đoàn chiên nhỏ bé nhưng quý báu đối với Thiên
Chúa.
Cám dỗ thứ hai là “quá hoạt động”
nghĩ rằng mình là chủ nhân ông, cho đi chỉ để có điểm, để trở thành nhân vật
quan trọng. Khi đó phục vụ trở thành phương tiện chứ không phải là mục đích, bởi
vì mục đích đã trở thành uy tín, rồi quyền lực, muốn làm lớn.
Lấy lại hình ảnh các sợi chỉ
của tấm thảm ĐTC khích lệ từng người hãy là sợi tơ đan chặt vào nhau giao thoa
nhau hiệp nhất với nhau, sống tươi vui khiêm tốn, bác ái, tạo dựng hoà hợp, và
họ sẽ là một tác phẩm tuyệt đẹp của Chúa. ĐTC xin Mẹ Maria và thánh Terexa
Calcutta bầu cử cho họ và xin họ ghi nhớ sứ điệp của Mẹ: “Hoa trái của đức tin
là tình yêu, hoa trái của tình yêu là phục vụ, hoa trái của phục vụ và hoà
bình” (Il cammino semplice, Introduzione)
Cuối thánh lễ Linh Mục
Vladimir Fekete, giám quận tông toà Baku, đã cám ơn ĐTC vì món quà lớn là chuyến
viếng thăm của ngài. Là người yêu thương dân nghèo và những nguởi bị bỏ rơi, và
hiểu ý nghĩa các từ kỳ thị, gạt bỏ ngoài lề xã hội và nghèo túng là gì, ĐTC
đang nỗ lực chỉ cho mọi người thấy có thể thay đổi các thực tại này thành
thương xót, lòng tốt, sự khoan nhượng và tất cả mọi từ khác diễn tả tình bác
ái.
ĐTC đã đọc kinh truyền tin và
ban phép lành toà thánh cho mọi người.
Vào cuối thành lễ ĐTC dã ứng
khẩu nói: Có ngưòi nghĩ là GGH mất thời giờ đi biết bao cây sổ để thăm một cộng
đoàn 700 người trong một vùng có 2 triệu tín hữu. Một cộng đoàn không đồng nhất
vì nói tiếng Azero, Ý, Anh, Tây ban Nha… Một cộng đoàn ở ngoại biên thế giới.
Nhưng ĐGH bắt chước Chúa Thánh Thần, là Đấng đã ngự xuống trên một cộng đoàn bé
nhỏ ở ngoại biên đóng kín trong Nhà Tiệc Ly. Một cộng đoàn cảm thấy mình sợ hãi
nghèo nàn và có lẽ bị bách hại và bị bỏ ra ngoài. Chúa Thánh Thần ban lòng can
đảm, sức mạnh và sự “tự do nói tất cả” để tiến lên rao giảng danh Chúa Giêsu.
Và các cửa của cộng đoàn Giêrusalem đóng vì sợ hãi hay xấu hổ, đã mở toang ra,
và sức mạnh của Chúa Thánh Thần đi ra. ĐGH mất thời giờ như Chúa Thánh Thần mất
thời giờ hồi đó.
Chỉ có hai điều cần thiết.
Trong cộng đoàn đó đã có Mẹ. Anh chị em đừng quên Mẹ! Trong cộng đoàn đó có tình
bác ái, tình yêu huynh đệ mà Chúa Thánh Thần đã đổ tràn đầy xuống cho họ. Hãy
can đảm lên, Hãy tiến lên. Không sợ hãi. Hãy tiến lên!
Sau thánh lễ ĐTC và đoàn tuỳ
tùng đã dùng bữa trưa với cộng đoàn các cha Salesien.
Lúc 3 giờ chiều ĐTC từ giã
nhân viên và các cộng sự viên của trung tâm, rồi đi xe tới Dinh tổng thống để
thăm xã giao tổng thống Hham Heydar Aliyev, và gặp các giới chức chính trị, ngoại
giao đoàn và giới chức xã hội dân sự. Tổng thống sinh năm 1961, theo học ngành
tương giao quốc tế và làm chủ doanh nghiệp tư, sau đó làm phó chủ tịch hãng dầu
hoả quốc gia SOCAR từ năm 1994-2003, dân biểu, dẫn đầu đảng Tân Azerbaigian, thủ
tướng, rồi được bầu làm tổng thống năm 2003.
Tổng thống đã tiếp đón ĐTC tại
cửa dinh nơi diễn ra lễ nghi tiếp đón. Sau khi chụp hình lưu niệm tổng thống và
ĐTC đã lên thư phòng ở lầu một để đàm đạo với nhau. Tiếp đến tổng thống giới
thiệu gia đình, vợ ba con, ba cháu với ĐTC, hai bên trao đổi quà tặng.
Khoảng 4 giờ rưỡi chiều ĐTC
đi thăm đài tưởng niệm các chiến sĩ trận vong cho nền độc lập quốc gia, cách đó
8 cây số. Đài kỷ niệm này được xây năm 1998 trên vùng đất gọi là “Đại lộ các vị
tử đạo” biểu tượng cho cuộc chiến đấu cho tự do và sự vẹn toàn của lãnh thổ quốc
gia. Năm 1918 các binh sĩ Azeri và Thổ Nhĩ Kỳ tử trận trong cuộc bảo vệ thành
phố đuợc chôn cất tại đây. Đây cũng là nơi người dân Azeri biểu tình chống
quân đội liên xô hồi năm 1990. Những người đã bị tàn sát trong dịp đó cũng được
chôn cất nơi đây. Các binh sĩ tử trận trong chiến tranh Nagorno-Karraback năm
1992-1994 cũng được chôn cất ở đây.
Xe chở ĐTC dừng trước đài kỷ
niệm. ĐTC đã đặt một vòng hoa tại đài kỷ niệm trước sự hiện diện của ông thị
trưởng thành phố.
Tiếp đến ĐTC đến Trung tâm
Heydar Eliyev cách đó 8 cấy số để găp gỡ 1000 quan khách thuộc giới lãnh đạo
chính trị ngoại giao đoàn và đại diện xã hội dân sự và các cơ cấu khác.
Đáp lởi chào của tổng thống
ĐTC đã nhắc tới ngày 10 tháng 10 Azerbaigian kỷ niệm 25 năm độc lập. Đây là dịp
nhìn vào những gì đã thực hiện được trong các thập niên qua, các tiến bộ
cũng như các vấn đề trước mắt. Lịch sử vùng đất này đã cho thấy phần đóng góp của
biết bao nhiêu dân tộc và các cố gắng củng cố cơ cấu, phát triển kinh tế và dân
sự đã đạt được là nhờ sự chú ý tới thực tại đa văn hóa và đa tôn giáo và thừa
nhận sự bổ túc cho nhau giữa mọi nhóm xã hội. Ngoài ra cũng nhờ các tương quan
tôn trọng và cộng tác với nhau giữa các nhóm dân sự và tôn giáo khác nhau. Mọi
tuỳ thuộc chủng tộc hay ý thức hệ cũng như mọi lộ trình tôn giáo đích thật chỉ
có thể loại trừ các thái độ và quan niệm lạm dụng các xác tín, căn tính riêng
hay nhân danh Thiên Chúa để hợp thức hóa các ý đồ đàn áp hay thống trị. ĐTC cầu
chúc dân nước Azerbaigian như sau:
Tôi nhiệt liệt cầu chúc dân
nước Azerbaigian tiếp tục trên con đường cộng tác giữa các nền văn hóa và tôn
giáo khác nhau. Ước chi sự hoà hợp và chung sống hoà bình ngày càng dưỡng nuôi
cuộc sống xã hội và dân sự của đất nước, trong các diễn tả đa diện của
nó, bằng cách bảo đảm cho tất cả mọi người khả thể đóng góp phần mình cho công
ích.
Thế giới đang sống thảm cảnh
của biết bao nhiêu cuộc xung đột được dưỡng nuôi bởi sự bất khoan nhượng, bởi
các ý thức hệ bạo lực và khước bỏ các quyền của những người yếu đuối nhất. Để
đương đầu với các lệch lạc này cần phải làm cho nền văn hóa của hoà bình lớn
lên, một nền văn hóa được dưỡng nuôi bằng việc luôn luôn sẵn sàng đối thoại, và
ý thức rằng không có sự lựa chọn hữu lý nào khác ngoài việc kiên nhẫn và kiên
trì liên lỉ thương thuyết để tìm ra các giải pháp. Khi xảy ra các xung đột bên
trong quốc gia, cần thăng tiến hoà hợp giữa các thành phần khác nhau, cũng như
giữa các quốc gia cần can đảm khôn ngoan theo đuổi con đường dẫn đến tiến bộ và
tự do của các dân tộc, mở ra các lộ trình độc đáo nhắm tới các thoả hiệp lâu
dài và hoà bình. Như thế cũng là để tránh cho các dân tộc khỏi bị các khổ đau
và xé nát thương tâm khó hàn gắn.
ĐTC đặc biệt nghĩ tới các người
tỵ nạn và khổ đau vì các xung đột đẫm máu, và ngài cầu mong cộng đồng quốc tế
biết trợ giúp họ đồng thời cho phép một khởi đầu mới cho hoà bình ổn định trong
vùng. ĐTC kêu gọi dùng mọi phương thế để đạt tới một giải pháp thỏa đáng. Ngài
xác tín rằng với sự trợ giúp của Thiên Chúa và với thiện chí của mọi phiá vùng
Caucaso sẽ có thể trở thành nơi, qua việc đối thoại và thương thuyết, các tranh
chấp và khác biệt sẽ được thắng vượt để cho vùng đất là cánh cửa giữa Đông Tây
này cũng trở thành một cửa rộng mở cho hoà bình và là một thí dụ giúp giải quyết
các xung khắc cũ và mới.
Tuy là một thực thể bé nhỏ
nhưng Giáo Hội công giáo được tháp nhập vào cuộc sống dân sự xã hội
Azerbaigian, tham dự vào mọi buồn vui của đất nước, và liên đới trong việc
đương đầu với các khó khăn. Việc thừa nhận pháp lý được ký kết trong thoả hiệp
với Toà Thánh năm 2011 khiến cho cộng đoàn công giáo có khung cảnh ổn định cho
cuộc sống. ĐTC đặc biệt vui mừng vì các tương quan tích cực của cộng đoàn công
giáo với các cộng đoàn hồi giáo, chính thống và do thái giáo. Việc gắn bó với
các giá trị tôn giáo không thể hoà hợp với sự áp đặt bằng bạo lực các quan điểm
của mình trên người khác, bằng cách dùng danh Thiên Chúa làm thuẫn đỡ.
Trái lại niềm tin nơi Thiên Chúa là suối nguồn và linh hứng cho sự cảm thông và
tôn trọng lẫn nhau vì công ích của xã hội. Xin Thiên Chúa chúc lành cho
Azerbaigian với sự hoà hợp, hòa bình và thịnh vượng.
Vào lúc 5 giờ ruỡi chiều ĐTC
đã đến đền thờ Heydar Aliyev để gặp gỡ Sceico của người Hồi vùng Caucaso
là ông Allashukur Pashazadeh. Ông đã từng theo học bên Uzbekistan, rồi tại Học
viện Imam Albukhari Tashkent. Sau đó ông trở thành thư ký điều hành Hội đồng Hồi
vùng Caucaso, rồi được bầu làm chủ tịch. Ông cũng đã là thành viên Quốc hội đầu
tiên của Azerbaigian và là thành viên ban cố vấn tôn giáo của tổ chức UNESCO và
của Ủy ban đối thoại liên tôn và được ĐGH Gioan Phaolô II trao tặng Huy chương
“Thánh Giorgio” của Vaticăng.
Đáp lời chào của Sceico, ĐTC
nói thật là ý nghĩa cuộc vặp gỡ thân hữu huynh đệ giữa các tôn giáo trong nơi cầu
nguyện này. Nó là dấu chỉ cho thấy các tôn giáo có thể cùng nhau xây dựng sự
hoà hợp, từ các tương quan cá nhân và từ thiện chí của hàng lãnh đạo. Dân nước
Azerbaigian ước muốn duy trì gia tài lớn lao của các tôn giáo, và tìm kiếm một
sự rộng mở lớn và phong phú hơn, trong đó Công giáo có chỗ đứng hoà hợp với các
tôn giáo khác đông đảo hơn và có thể cộng tác chung xây các xã hội tốt đẹp và
hoà bình hơn. Ước chi vùng đất cánh cửa giữa Đông Tây này ngày càng vun trồng
ơn gọi rộng mở và gặp gỡ, là các điều kiện cần thiết giúp xây dựng các cây cầu
hoà bình và một tương lai xứng đáng với con người. Rộng mở cho tha nhân không
làm cho nghèo nàn đi, nhưng làm giầu, vì giúp con người là người hơn, nhận biết
mình là thành phần tích cực của một tổng thể lớn hơn, và giải thích cuộc sống
như là một món quà cho tất cả mọi người khsc, nhìn đích tới không phải với các
lợi lộc riêng, nhưng như ích lợi của nhân loại, hành động không với các chủ
thuyết lý tưởng và các chủ trương can thiệp, không xen mình một cách nguy hiểm,
và không có các hành động áp đặt.
Chính các tôn giáo có một nhiệm
vụ lớn là đồng hành với con người trong việc kiếm tìm ý nghĩa cuộc sống, giúp
nó hiểu rằng các khả năng hạn hẹp của con người và các của cải trần gian này
không được trở thành các điều tuyệt đối. Trích lời thi sĩ Nizami của
Azerbaigian, khuyên con người biết rằng các hoa trái của thế giới này không
vĩnh cửu, và đừng tôn thờ cái hư mất, rằng “tình yêu là điều bất biến, là điều
không có tận cùng”, ĐTC nói: Các tôn giáo được mời gọi giúp hiểu rằng trung tâm
của con người ở ngoài mình, rằng chúng ta hướng tới Đấng Cao cả vô tận, và hướng
tới tha nhân. Tôn giáo là một sự cần thiết cho con người, để nó hiện thực đích
điểm của nó, một địa bàn định hướng nó cho sự thiện, và khiến cho nó xa sự dữ,
luôn rình rập ngoài cửa con tim nó. Trong nghĩa đó các tôn giáo có một nhiệm vụ
giáo dục: giúp rút tiả ra từ con người điều tốt lành nhất. Và như là các người
lãnh đạo chúng ta có trách nhiệm lớn là cống hiến các câu trả lời đích thực cho
sự tìm kiếm của con người, thường lạc lõng trong các lốc xoáy mâu thuẫn của thời
dại chúng ta. Một đàng có người theo chủ thuyết hư vô, không tin vào cái gì hết
nếu không phải là các lợi lộc riêng tư, hay vứt bỏ đời minh và sống theo châm
ngôn “Nếu Thiên Chúa không hiện hữu, thì tất cả đều được phép”. Đàng khác ngày
càng có các người phản ứng cứng nhắc và cuồng tín, có các lời nói và cử
chỉ bạo lực, muốn áp đặt các thái độ quá khích triệt để, xa cách Thiên Chúa hằng
sống nhất. Trái lại các tôn giáo giúp phân định sự thiện sự và thực hành với
các công việc làm, lời cầu nguyện và sư mệt nhọc của nội tâm, chúng được mời gọi
xây dựng nền văn hoá gặp gỡ và hoà bình, được làm với sự kiên nhẫn, cảm thông,
với các bước đi khiêm tốn và cụ thể. Không bao giờ được phép lèo lái tôn giáo,
và tôn giáo không bao giờ được cho vay mượn và trợ giúp các xung đột và các đối
kháng.
ĐTC đã dùng hình ảnh nghệ thuật
làm kính mầu bằng gỗ và kính Shekele, đã có từ nhiều thế kỷ tại Azerbaigian, để
diễn tả sự gắn bó giữa xã hội và tôn giáo. Người ta không dùng keo dính, không
dùng đinh, nhưng chỉ dùng gỗ bọc kính với nhau để cho ánh sáng lùa vào. Cũng thế,
mỗi xã hội dân sự đều phải nâng đỡ tôn giáo để cho ánh sáng cần thiết cho sự sống
tràn vào. Vì thế cần bảo đảm cho tôn giáo được tự do thực sự. Không dùng keo
dán giả tạo bắt buộc con người tin, không áp đặt một niềm tin xác định, đánh mất
sự tự do lựa chọn, không có các đinh đóng từ bên ngoài của các lợi lộc trần thế,
của các tham vọng quyền bính và tiền bạc. Bởi vì Thiên Chúa không thể được
khẩn nài cho các lợi nhuận riêng tư, hay cho các mục đích ích kỷ, không thể biện
minh cho bất cứ hình thức nào của chủ thuyết cuồng tín, đế quốc hay thực dân. Một
lần nữa, từ nơi ý nghĩa này vang lên tiếng kêu mời: đừng bao giờ bạo lực nhân
danh Thiên Chúa nữa! Ước chi danh thánh của Ngài được tôn thờ, không bị
phạm thánh và buôn bán bởi các thù hận và các đối nghịch của con người. Chúng
ta hãy tôn vinh Thiên Chúa bằng lời cầu nguyện kiên trì và bằng việc đối
thoại cụ thể. Câu nguyện và đối thoại mở rộng con tim hướng tới thiện ích của
tha nhân và tương ứng sâu xa với nhau.
Theo tinh thần Công Đồng
Chung Vaticăng II Giáo Hội công giáo khích lệ con cái mình nhận ra các giá trị
tinh thần, luân lý, xã hội, văn hóa nơi tín hữu các tôn giáo khác, giữ gìn
chúng và làm cho chúng tiến triển. Không có khuynh hướng trộn lẫn tôn giáo,
cũng không có sự cởi mở ngoại giao, nhưng là đối thoại với người khác và cầu
nguyện cho họ Đó là các phương thế để biến giáo mác thành liềm, dấy lên tình
yêu nơi có thù hận và tha thứ nơi có xúc phạm, để không mệt mỏi khẩn nài đi
trên các con đường hoà bình.
Một nền hoà bình đích thực được
xây dựng trên sự tôn trọng lẫn nhau, trên ý chí vượt qua các thành kiến và các
lầm lỗi quá khứ, trên việc từ bỏ các thái độ hai lòng và các lợi lộc phe phái;
một nền hoà bình lâu bền đuợc linh hoạt bởi lòng can đảm vượt qua các hàng rào,
triệt hạ nghèo túng và các bất công, tố cáo và ngăn chặn việc gia tăng phổ biến
các vũ khí và các lợi nhuận gian ác trên da thịt người khác. Tiếng của quá nhiều
máu đổ ra từ trái đất căn nhà chung kêu lên tới Thiên Chúa. Giờ đây chúng ta đuợc
gọi hỏi đưa ra một câu trả lời không thể chần chừ được nữa cho việc cùng nhau
xây dựng một tương lai hoà bình: không phải với những giải pháp bạo lực và bất
thình lình, nhưng đã đến lúc cấp thiết sử dụng các tiến trình kiên nhẫn của hoà
giải. Vấn đề thực sự của thời đại chúng ta không phải là làm thế nào tiếp tục
các lợi lộc của chúng ta, nhưng đâu là viễn tượng cuôc sống cống hiến cho các
thế hệ tương lai, làm sao để lại cho họ một thế giới tốt đẹp hơn thế giới chúng
ta đã nhận được. Thiên Chúa và lịch sử sẽ hỏi chúng ta có tạo dựng hoà
bình không, và các thế hệ trẻ mơ một tương lai khác đang hỏi chúng
ta rồi.
Ước chi trong đêm đen của các
xung khắc mà chúng ta đang trải qua, các tôn giáo là các bình mình của
hoà bình, hạt giống của tái sinh giữa các tàn phá chết chóc, các tiếng vọng của
đối thoại vang lên không mệt mỏi, các con đường của gặp gỡ và hoà giải để đến
nơi mà các cố gắng làm trung gian chính thức xem ra không đem lại kết quả. Nhất
là trong vùng Caucaso thân yêu này, mà tôi đã ước ao đến thăm như người hành
hương hoà bình, ước chi các tôn giáo là các phương thế tích cực giúp thắng vượt
các thảm kịch của quá khứ và các căng thẳng hiện tại
Sau khi từ giã đại diện các
tôn giáo ĐTC đã đi xe ra phi trường từ giã Azerbaigian để về Roma. Lễ nghi từ
biệt đã diễn ra đơn sơ. Phó thủ tương đã tiễn ĐTC tới chân thang máy bay. Máy
bay chở ĐTC và đoàn tuỳ tùng đã cất cánh lúc 7 giờ tối giờ đia phương và về tới
Ciampino lúc 10 giờ tối giờ Roma, kết thúc chuyến công du thứ 16 của ĐTC tại nước
ngoài.
Linh Tiến Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét