22/04/2017
Thứ bảy tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH
Bài Ðọc I: Cv 4, 13-21
"Chúng tôi không thể nào không nói lên những điều mắt thấy tai
nghe".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, các thủ lãnh, kỳ lão và luật sĩ nhận thấy Phêrô và
Gioan kiên quyết, và biết hai ngài là những kẻ thất học và dốt nát, nên lấy làm
lạ; và còn biết rằng hai ngài đã ở cùng Ðức Giêsu; họ thấy kẻ được chữa lành đứng
ở đó với hai ngài, nên họ không thể nói gì nghịch lại được. Họ mới truyền lệnh
cho hai ngài ra khỏi hội nghị, rồi thảo luận với nhau rằng: "Chúng ta phải
làm gì đối với những người này? Vì toàn dân cư ngụ ở Giêrusalem đều hay biết,
phép lạ hai ông đã làm rõ ràng quá chúng ta không thể chối được. Nhưng để sự việc
không còn loan truyền trong dân nữa, chúng ta hãy đe doạ, cấm hai ông không được
lấy danh ấy mà giảng cho ai nữa". Họ liền gọi hai ngài vào và cấm nhặt
không được nhân danh Ðức Giêsu mà nói và giảng dạy nữa. Nhưng Phêrô và Gioan trả
lời họ rằng: "Trước mặt Chúa, các ngài hãy xét coi: nghe các ngài hơn nghe
Chúa, có phải lẽ không? Vì chúng tôi không thể nào không nói lên những điều mắt
thấy tai nghe". Nhưng họ lại đe doạ hai ngài, rồi thả về, vì không tìm được
cách nào trừng phạt hai ngài, họ lại còn sợ dân chúng, vì mọi người đều ca tụng
Thiên Chúa về việc đã xảy ra.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 117, 1 và
14-15. 16ab-18. 19-21
Ðáp: Tôi cảm tạ Chúa vì Chúa
đã nhậm lời tôi (c. 21a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn
thuở. Chúa là sức mạnh, là dũng lực của tôi, và Người trở nên Ðấng cứu độ tôi.
Tiếng reo mừng và chiến thắng vang lên trong cư xá những kẻ hiền nhân:Tay hữu
Chúa đã hành động mãnh liệt.- Ðáp.
2) Tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên, tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt.
Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa.
Chúa sửa trị, Chúa sửa trị tôi, nhưng Người đã không nạp tôi cho tử thần. -
Ðáp.
3) Xin mở cho tôi các cửa công minh, để tôi vào và cảm tạ ơn Chúa. Ðây là
ngọ môn của Chúa, những người hiền đức qua đó tiến vào. Tôi cảm tạ Chúa vì Chúa
đã nhậm lời tôi, và đã trở nên Ðấng cứu độ tôi. - Ðáp.
Alleluia: Tv 117, 24
Alleluia, alleluia! - Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ
hân hoan về ngày đó. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 16, 9-15
"Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi Chúa Giêsu sống lại, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, thì trước hết
Người hiện ra với Maria Mađalêna, kẻ đã được Chúa đuổi bảy quỷ. Bà đi báo tin
cho những kẻ đã từng ở với Người và nay đang buồn thảm khóc lóc. Họ nghe bà nói
Chúa sống lại và bà đã thấy Người, nhưng họ không tin. Sau đó, Chúa lại hiện ra
dưới hình thức khác với hai môn đệ đang trên đường về miền quê. Hai ông trở về
báo tin cho anh em, nhưng họ cũng không tin các ông ấy. Sau hết, Chúa hiện ra với
mười một tông đồ lúc đang ngồi ăn. Chúa khiển trách các ông đã cứng lòng, vì
các ông không tin những kẻ đã thấy Người sống lại. Rồi Người phán: "Các
con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn loài".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Chúa Hiện Ra
Nhiều Lần
Trong cuộc triển lãm hội chợ về
hoa tại thành phố Luân Ðôn, điều bất ngờ xảy ra trong nhóm người say mê cây cảnh:
giải nhất đã về tay một cô gái trẻ. Người ta lại càng ngạc nhiên hơn khi biết rằng
cô gái này lại cư ngụ trong một khu phố tồi tàn chật chội nhất thành phố, được
mệnh danh là "chỗ thiếu ánh sáng". Nơi đó có thể nói được rằng thiếu
cả ánh sáng văn minh lẫn ánh sáng mặt trời. Chính những người lâu năm kinh nghiệm
trong nghề trồng hoa kiểng cũng chẳng hiểu làm sao mà cô gái trồng được một chậu
hoa tuyệt đẹp tại một nơi thiếu ánh sáng như thế.
Khi được phỏng vấn, cô đã thổ lộ
bí quyết của mình như sau: căn nhà của cô ở chỉ có một vùng ánh sáng, nếu mặt
trời di chuyển từ đông sang tây thì vùng ánh sáng cũng chạy từ tây sang đông. Cứ
thế, suốt ngày chậu hoa của cô phải di chuyển từ góc này đến góc kia cho tới
ngày nó được hưởng trọn phần ánh sáng như hôm nay.
Anh chị em thân mến!
Nhìn lại bài đọc Tin Mừng hôm nay và các tường thuật về những lần hiện ra
của Chúa Giêsu sau khi Ngài từ cõi chết sống lại sẽ cho chúng ta một điểm đáng
lưu ý này là: sau khi sống lại, Ngài không tức khắc đi tìm nhóm môn đệ đang tụ
họp và cầu nguyện, nhưng Ngài chỉ hiện ra với từng cá nhân hoặc nhóm nhỏ, rồi
cho họ sứ mạng truyền đạt tin vui đến với nhóm mười một tông đồ.
Khi hiện ra với toàn thể các môn đệ, Ngài lại khiển trách họ: "Tại
sao lại cứng lòng tin?" Chúng ta có thể xem điều trên đây như một mô tả niềm
tin của mỗi người. Hơn nữa, ánh sáng của Chúa Kitô Phục Sinh đến với chúng ta
tùy theo mỗi thời điểm và mỗi khung cảnh của cuộc sống. Ánh sáng của Ngài buộc
chúng ta phải biết cố gắng tìm kiếm để được nhận lãnh.
Nói như thánh Augustinô: "Chúa dựng nên con, không cần có con cộng
tác. Nhưng Chúa không thể cứu chuộc con, nếu không có con cộng tác".
"Có con" không có nghĩa là con hiện diện ở đó như một tảng đá quanh
năm tiếp thu ánh sáng, nhưng chẳng sử dụng ánh sáng để rồi chịu cảnh vỡ nát của
thời gian. Sự hiện diện của con phải là sự hiện diện của một bông hoa luôn hướng
về ánh sáng mặt trời. Vì ánh sáng mặt trời là nguồn sức sống cho cây, đồng thời
cũng là dịp cho hoa vươn mình khoe sắc.
Vì thế, ánh sáng vui mừng của Ðức Kitô Phục Sinh trước hết là một đáp ứng
cho một tâm hồn tha thiết tìm kiếm Ngài. Maria Madalena và các phụ nữ đến mồ từ
sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, họ đã được Ngài hiện ra trước hết, dù rằng họ
chẳng chiếm giữ một vai trò quan trọng nào trong việc rao giảng Tin Mừng. Tuy
nhiên, bên cạnh đó, Ðức Kitô Phục Sinh cũng vẫn luôn quan tâm đến tất cả. Ngài
chẳng muốn cho một kẻ nào phải hư mất.
Hai môn đệ tuyệt vọng trên đường Emmau được Ngài đồng hành nâng đỡ. Cả đến
sự đòi hỏi gần như thách thức của thánh Tôma cũng được Ngài sẵn sàng đáp ứng.
Ngài hiện diện để trao đổi niềm tin yếu kém: "Tại sao lại không tin?"
"Hỡi những kẻ yếu lòng tin". Ðó là những lời kêu mời giác ngộ chân
lý: "Hãy nhận biết Ngài và hãy tin tưởng vào Ngài".
Qua bài Tin Mừng hôm nay, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ biết
khám phá ra sự hiện diện của một Thiên Chúa mà phần đông chúng ta tưởng Ngài đã
chết. Ngài vẫn luôn hiện diện với ta dù rằng nhiều lúc con người như hoàn toàn
chìm trong bóng tối. Ánh sáng của Ngài vẫn dọi chiếu, nhưng theo một góc độ nào
đó buộc chúng ta phải nỗ lực tìm kiếm nhiều hơn.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần I BNPS
Bài đọc: Acts 4:13-21; Mk 16:9-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người
không thể trốn tránh sự thật mãi.
Có một người hay có tính “thêu dệt” và “thêm mắm thêm muối” mỗi khi nói
chuyện với người khác về quá khứ huy hoàng của mình. Các bạn anh muốn dạy anh một
bài học, nên mỗi lần anh nói, họ ghi chép cẩn thận những gì anh nói. Sau khi kể
một hồi, các bạn anh bắt đầu thắc mắc về thời gian và nơi chốn của những việc xảy
ra, và chỉ cho anh thấy sự không hợp lý của những gì anh kể. Từ đó, anh bắt đầu
nói năng cẩn thận hơn; vì chỉ có nói thật, anh mới có thể tránh được những mâu
thuẫn của các sự việc.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh việc con người không thể trốn tránh mãi sự
thật. Trong Bài Đọc I, những người trong Thượng Hội Đồng Do-thái nghĩ khi họ
đóng đinh Chúa Giêsu trên Thập Giá là từ nay dân chúng sẽ nghe theo họ; nhưng họ
lại phải đương đầu với các môn đệ của Ngài và hàng ngàn dân chúng đã tin vào
Chúa Giêsu. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ sau
khi chết. Ngài khiển trách họ đã quá cứng lòng không chịu tin vào lời các nhân
chứng thuật lại trong trình thuật hôm nay.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nghe lời các ông hay là nghe lời
Thiên Chúa?
1.1/
Phản ứng của những người trong Thượng Hội Đồng: Trước tiên, họ ngạc nhiên khi thấy ông Phêrô và ông
Gioan mạnh dạn. Họ nghĩ không có một hay hai cá nhân nào dám đứng ra đương đầu
với quyền lực của Thượng Hội Đồng; vì nếu làm như vậy, chắc chắn sẽ lãnh thiệt
hại vào thân. Thứ đến, họ khám phá ra hai ông là những người không có chữ
nghĩa, lại thuộc giới bình dân. Họ nhận xét đúng, cả hai, Phêrô và Gioan, đều
làm nghề đánh cá; làm sao có cơ hội để học hỏi và biết chữ nghĩa và Lề Luật như
họ được. Cả hai nhận xét của họ đều đúng, và câu hỏi họ đặt ra cho hai ông hôm
qua rất chí lý: “Nhờ quyền lực nào và nhân danh ai mà các ông làm chuyện đó.”
Câu trả lời của Phêrô giúp họ tìm ra những gì họ muốn biết: chúng tôi chỉ
lấy sức mạnh và quyền lực của Đức Kitô, Đấng mà các ông đã đóng đinh vào Thập
Giá. Họ cũng nhận ra hai ông là những người đã từng theo Đức Giêsu; đồng thời họ
lại thấy người đã được chữa lành đứng đó với hai ông, nên họ không biết đối đáp
thế nào. Họ mới truyền cho hai ông ra khỏi Thượng Hội Đồng, để bàn tính với
nhau. Họ chỉ có hai con đường phải chọn:
(1) Phục thiện và tin vào Chúa Giêsu: Đứng trước một phép lạ quá rõ ràng,
đứng trước 3 nhân chứng, và đứng trước đông đảo dân chúng; họ phải tin vào Chúa
Giêsu là Người đến từ Thiên Chúa, đã chết và sống lại. Chính họ đã nói với nhau
về hai ông: “Họ đã làm một dấu lạ rành rành: điều đó hiển nhiên đối với mọi người
cư ngụ tại Jerusalem, và ta không thể chối được.”
(2) Dùng bạo lực để bưng bít sự thật: Có nhiều lý do để họ từ chối không
tin: sợ mất thế giá, sợ mất lợi lộc vật chất, sợ phải thay đổi niềm tin …
Sau khi bàn luận, họ quyết định bưng bít sự thật bằng bạo lực. Họ quyết định:
“Nhưng để cho việc đó khỏi lan rộng thêm trong dân, ta hãy ngăm đe, nghiêm cấm
họ từ nay không được nói đến danh ấy với ai nữa. Họ cho gọi hai ông vào và tuyệt
đối cấm hai ông không được lên tiếng hay giảng dạy về danh Đức Giêsu nữa."
1.2/
Phản ứng của Phêrô và Gioan: Hai ông Phêrô và Gioan đáp lại: "Nghe lời các ông hơn là nghe lời
Thiên Chúa, xin hỏi: trước mặt Thiên Chúa, điều ấy có phải lẽ không? Các ông thử
xét xem! Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể
không nói ra."
Thượng Hội Đồng là những người có kiến thức và biết Lề Luật của Thiên
Chúa. Họ phải công nhận điều Phêrô nói là phải tuân hành những gì Thiên Chúa
nói hơn con người; nhưng vì quá ngoan cố trong việc tìm hiểu sự thật nên họ tiếp
tục ở trong bóng tối tội lỗi. Trình thuật kể thái độ cứng lòng của họ như sau:
“Sau khi ngăm đe lần nữa, họ thả hai ông về, vì không tìm được cách trừng trị
hai ông. Lý do là vì họ sợ dân: ai nấy đều tôn vinh Thiên Chúa vì việc đã xảy
ra.”
2/ Phúc Âm: Các lần hiện ra của Chúa Giêsu
theo thánh-sử Marcô
Không phải chỉ có những người trong Thượng Hội Đồng cứng lòng, các môn đệ
của Chúa Giêsu cũng mắc phải lỗi lầm đó. Hơn những người trong Thượng Hội Đồng,
các tông đồ đã từng được nghe Chúa Giêsu giảng dạy, biến hình, và báo trước cuộc
tử nạn và sống lại sẽ xảy ra. Chúa Giêsu không chỉ hiện ra một lần để có cớ cho
các tông đồ nói đó chỉ là ảo ảnh hay bóng ma; nhưng Ngài hiện ra nhiều lần với
các nhân chứng khác nhau. Chúa Giêsu phải trách thái độ cứng lòng của các ông
vì đã chối từ sự thật đến không phải từ hai như Lề Luật đòi, nhưng nhiều nhân
chứng khác nhau. Thánh Marcô liệt kê ba lần Chúa hiện ra:
(1) Với một mình Mary Magdala: “Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày
thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước tiên với bà Mary Magdala, là kẻ đã
được Người trừ cho khỏi bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với
Người mà nay đang buồn bã khóc lóc. Nghe bà nói Người đang sống và bà đã thấy
Người, các ông vẫn không tin.”
(2) Với hai môn đệ trên đường về quê, Emmaus: “Sau đó, Người tỏ mình ra
dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường
đi về quê. Họ trở về báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin
hai người này.”
(3) Với Nhóm Mười Một: “Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một
đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi
lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy.
Người nói với các ông: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo
Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.””
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải luôn học để biết sự thật, vì chỉ có sự thật mới giải
thoát chúng ta khỏi mọi gian trá.
- Không chỉ học biết sự thật, chúng ta còn phải có can đảm để nói sự thật,
sống theo sự thật, và làm chứng cho sự thật.
- Khi có sự xung đột giữa điều Thiên Chúa nói và điều người phàm nói;
chúng ta phải luôn luôn vâng lời Thiên Chúa.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
Mc 16,9-15
TIN MỪNG CỨU ĐỘ
Đức Giê-su nói: “Anh em hãy đi khắp tứ
phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15)
Suy
niệm: Sau khi phục
sinh, mỗi khi hiện ra với các môn đệ, Chúa Giê-su đều sai họ đi loan báo Tin
Mừng sống lại: trước hết, với chị Ma-ri-a Mác-đa-la, Chúa bảo chị “đi báo tin
cho những kẻ từng sống với Người” (c.10); với hai môn đệ làng Em-mau, Ngài sai họ “trở về báo tin cho
các ông khác” (c.12); sau cùng, Ngài truyền lệnh cho Nhóm Mười Một “đi khắp tứ phương
thiên hạ.” Sứ điệp mà Chúa Giê-su muốn các môn đệ loan báo chính
là Tin Mừng, là niềm vui được chứng kiến Ngài sống lại. Nếu cái chết của Ngài
gây cho họ sự buồn phiền, thất vọng, thì sự sống lại của Ngài chẳng những có
sức mạnh phá tan nỗi buồn, mà còn truyền vào lòng họ niềm xác tín mạnh mẽ vào
quyền năng cứu độ của Đấng Phục Sinh – bởi với Ngài, không có gì là không
làm được.
Mời Bạn: Nhiều người bi quan,
thất vọng về một thế giới đổ vỡ bởi chiến tranh, bệnh tật, ô nhiễm môi
trường... Họ bị bế tắc trong việc tìm kiếm một giải pháp “cứu độ.” Trong Tông
huấn Niềm Vui của Tin Mừng Đức giáo hoàng đương kim đã khơi lại niềm hy vọng
cho thế giới: “Những ai gặp Chúa Giê-su và chấp nhận đề nghị cứu độ
của Ngài thì được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô
đơn.”
Chia sẻ: Nếu Chúa Giê-su hiện
đến với bạn hôm nay, Ngài sẽ nói gì?
Sống Lời Chúa: Tìm đến với người đang
đau buồn và khơi lên nơi họ niềm hy vọng.
Cầu
nguyện: Lạy Chúa Ki-tô Phục
Sinh, xin giải thoát chúng con khỏi mọi nỗi ưu phiền và thất vọng, để chúng con
cũng loan truyền cho người khác những gì Chúa làm cho chúng con. Amen.
(5 phút lời Chúa)
Vẫn không tin (22.4.2017 – Thứ bảy trong Tuần Bát nhật Phục sinh)
Nếu thực sự tin vào sự phục sinh ở đời sau, chắc chúng ta sẽ sống khác. Thanh thoát hơn, nhẹ nhàng hơn, quảng đại hơn, vui tươi hơn...
Suy niệm:
Theo các nhà chú giải,
sách Tin Mừng Marcô kết thúc ở chương 16, câu 8,
với việc các phụ nữ sợ
hãi, chạy trốn, không dám nói gì với các môn đệ.
Sách này cũng không nói
đến việc Đức Giêsu phục sinh hiện ra gặp các ông.
Kết thúc khác thường này
của Marcô làm chúng ta ngày nay chưng hửng.
Cả các Kitô hữu thế kỷ
thứ hai cũng bị ngỡ ngàng,
vì vào thời đó họ đã có
trong tay các sách Tin Mừng khác.
Các sách này đều kể
chuyện các phụ nữ đã đi gặp các môn đệ,
chuyện Đức Giêsu phục
sinh hiện ra gặp các bà trước tiên;
rồi sau đó, Ngài đã hiện
ra với các môn đệ
và sai các ông đi loan
báo Tin Mừng (Mt 28,19-20; Lc 24, 46-48; Ga 20, 21).
Để giải quyết khó khăn do
phần kết của sách Tin Mừng Marcô đặt ra,
một tác giả được ơn linh
hứng đã viết thêm phần phụ lục (Mc 16, 9-20),
dựa trên các sách Tin
Mừng khác và sách Công vụ Tông đồ.
Năm 1546, phần này đã
được Công đồng Trentô nhìn nhận là Lời Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay nhấn
mạnh đến thái độ không tin của các môn đệ.
Đức Giêsu phục sinh hiện
ra trước tiên cho bà Maria Mácđala.
Bà đi báo tin Thầy sống
lại cho những môn đệ đang buồn bã khóc lóc,
nhưng họ không tin (cc.
9-11).
Lần thứ hai, Đức Giêsu tỏ
mình cho hai môn đệ khi họ trên đường về quê.
Khi hai ông này báo tin
cho những môn đệ khác, thì họ cũng không tin (cc. 12-13).
Lần thứ ba, Đức Giêsu
đích thân tỏ mình cho nhóm Mười Một.
Ngài khiển trách họ về
tội không tin những kẻ đã thấy Ngài phục sinh (c. 14).
Xem ra tin Thầy Giêsu
phục sinh không phải là chuyện dễ, ngay cả đối với các môn đệ,
dù họ đã được nghe Thầy
báo trước nhiều lần khi còn sống bên Thầy,
dù có những người trong
nhóm làm chứng mình đã thấy Thầy sống lại.
Ở lại trong nỗi thất
vọng, buồn phiền thì dễ hơn sống lạc quan vui tươi.
Các môn đệ không ra khỏi
được nỗi đau do cái chết của Thầy.
Có những nỗi đau làm con
người khép kín và khoanh tay bất động.
Nhưng Đức Giêsu phục sinh
vẫn không bỏ rơi các học trò cứng cỏi của mình.
Ngài kiên trì chinh phục
họ bằng cách đến với họ và dùng bữa.
Ngài đưa họ ra khỏi thế
giới nhỏ bé của họ và giao cho họ một sứ mạng lớn lao.
“Hãy đi khắp tứ phương
thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (c. 15).
Tin Đức Giêsu phục sinh
cũng không dễ đối với chúng ta hôm nay.
Nếu thực sự tin vào sự
phục sinh ở đời sau, chắc chúng ta sẽ sống khác.
Thanh thoát hơn, nhẹ
nhàng hơn, quảng đại hơn, vui tươi hơn...
Nhiều khi chúng ta vẫn
loan báo Tin Mừng với vẻ mặt buồn bã,
vẫn nói về đời sau mà
lòng còn quá nặng với vinh hoa đời này.
Chỉ mong chúng ta được
thực sự phục sinh như Thầy Giêsu,
để làm tròn sứ mạng Thầy
trao phó.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa phục sinh,
vì Chúa đã phục sinh
nên con thấy mình chẳng
còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con được tự do bay
cao,
không bị nỗi sợ hãi của
phận người chi phối,
sợ thất bại, sợ khổ đau,
sợ nhục nhã và cái chết
lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con hiểu cái liều của
người kitô hữu
là cái liều chín chắn và
có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu
phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê
chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông
đã hiến mình vì Đạo.
Sự Phục Sinh của Chúa là một lời mời gọi
mang một sức thu hút mãnh
liệt
khiến con đổi cái nhìn về
cuộc đời:
nhìn tất cả từ trên cao
để nhận ra giá trị thực
sự của từng thụ tạo.
Sự Phục Sinh của Chúa
giúp con dám sống tận
tình hơn
với Chúa và với mọi
người.
Và con hiểu mình chẳng mất gì,
nhưng lại được tất cả.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
22 THÁNG TƯ
Phải Chăng Chúng Ta
Tự Hài Lòng Với Một Tình Yêu Giả Hiệu?
Sau lời nói trao ban
Thánh Thần cho các Tông Đồ, Đức Kitô nói về việc tha tội. Người phán: “Anh em
tha tội cho ai thì tội người ấy được tha; anh em cầm buộc ai thì người ấy bị cầm
buộc” (Ga 20,22-23). Sở dĩ Đức Kitô nói điều đó bởi vì sự tha thứ tội lỗi giả định
việc nhận biết và xưng thú tội. Và cả hai việc này đều liên quan với cố gắng sống
trong sự thật và trong tình yêu.
Sự nhận biết và xưng
thú tội lỗi đích thực sẽ đem lại sức mạnh của sự thật và tình yêu cho đời sống
chúng ta. Nó làm cho chúng ta trở nên những con người mới và nó biến đổi thế giới.
Điều ngược lại sẽ xảy
ra khi chúng ta lấp liếm sự thật và đánh lận tình yêu. Bấy giờ, chúng ta đã bôi
xóa lằn ranh giữa sự thiện và sự ác. Chẳng hạn, chúng ta dán nhãn “nhân bản”
cho điều thực sự là tội lỗi!
Đáng buồn, những ví dụ
như vậy đang diễn ra nhan nhãn. Trong thời đại của chúng ta, sự khủng bố bị tố
cáo là một tội ác và là một xúc phạm thô bạo đến những quyền căn bản của con
người. Hành vi ngộ sát cũng bị tố cáo là vô nhân đạo tại các nước văn minh.
Nhưng việc tước đoạt sự sống của những con người chưa được sinh ra thì lại được
gọi là “nhân bản” và được cho là một “bằng chứng của tiến bộ”. Người ta gọi đó
là tự do. Thế nhưng, sự tự do đích thực luôn bao hàm sự tôn trọng phẩm giá của
nhân vị con người!
Anh chị em thân mến!
Nói lên những điều này, tôi không nhằm tố cáo bất cứ ai. Tôi muốn san sẻ nỗi
đau của mình đối với sự sống của các em bé chưa được sinh ra, đối với phẩm giá
của nhân vị con người.
Chúng ta đừng tự lừa dối
chính mình! Tất cả chúng ta phải nhìn thẳng vào tội lỗi và phải dứt khoát với tội
lỗi. Chỉ có sự thật mới giải phóng chúng ta (cf. Ga 8,32). Chỉ có sự thật mới
có sức mạnh biến đổi thế giới, mới có thể đem lại tiến bộ đích thực, đem lại
tính “nhân bản” Kitô giáo đích thực. Xin đừng nói rằng những đòi hỏi của sự thật,
của lương tâm và của phẩm giá con người chỉ là một sự lựa chọn “chính trị”.
Không! Đó là những đòi hỏi khẩn thiết để có thể làm người đích thực. Xin đừng
xem thường nữa những điều mang tầm quyết định đến sự sống còn của con người, những
điều cốt yếu làm nên nhân tính.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 22 – 4
Thứ Bảy Trong Tuần Bát
Nhật Phục Sinh.
Cv 4, 13-21; Mc 16,
9-15.
LỜI SUY NIỆM: “Anh em hãy
đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và
chịu phép Rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án.”
Ngày thứ bảy Tuần Bát
Nhật Phục Sinh. Lời Chúa ôn lại tất cả những lời nói và những nhân chứng đã nhận
ra Chúa Phục Sinh, nhưng vấn đề tin Chúa Phục Sinh vẫn còn những nghi ngờ trong
một số người nghe kể lại. Chúa Giêsu, Người thấu hiểu niềm khát khao của những
môn đệ của Người. Người đã tỏ ra cho chính Nhóm Mười Một, kèm theo lời khiển
trách và truyền dạy các ông phải đi loan báo Tin Mừng. Để cho con người nhận được
ơn cứu độ của Người.
Lạy Chúa Giêsu. Gần kết
thúc Tuần Bát Nhật Phục Sinh. Chúa, mời gọi tất cả chúng con nhìn vào Chúa và
nhận sứ vụ loan báo Tin Mừng. Xin cho mỗi người trong chúng con, luôn hướng
nhìn Chúa, và sẵn sàng lên đường Loan báo Tin Mừng bằng chính cuộc sống của
mình.
Mạnh Phương
22 Tháng Tư
Món Quà Của Con Cáo
Một câu chuyện giả
tưởng thuật lại như sau:
Khi Chúa giáng
sinh, các thú vật đều tới mừngChúa. Mỗi con đều dâng Chúa chút quà: Chị bò cái
dâng sữa. Cậu khỉ biếu Chúa mấy trái nho.
Chú sóc nâu bé nhỏ
tình nguyện ở lại làm đồ chơi cho Chúa.
Chúa Hài Ðồng vui vẻ
nhận tất cả. Ðang lúc các thú vật quây quần bên Chúa thì chàng cáo xuất hiện.
Các thú vật đều ghét cáo, vì hắn ta gian manh quỷ quyệt... Chúng chặn không cho
cáo đến gần Chúa và tự hỏi: Không biết cáo định âm mưu gì.
Cáo nói: Tôi đến dâng
lễ vật cho Chúa. Nhưng chẳng thấy cáo mang theo lễ vật nào. Chúa ra hiệu cho
cáo vào. Quỳ bên Chúa Hài Ðồng chàng cáo thì thầm dâng lên Chúa long quỷ quyệt
của mình.
hú vật đều bỡ ngỡ:
Dâng gì kì cục vậy! Trái lai cáo ta vui cười hớn hở, còn Chúa đặt hai tay trên
đầu cáo tỏ dấu ưng thuận chúc lành. Xưa nay cáo sung sướng nhờ sự quỷ quyệt của
mình, bây giờ dâng cho Chúa rồi, nó sẽ phải kiếm ăn cực nhọc với tấm lòng lương
thiện. Chàng cáo đã dâng nhiều hơn hết mọi con vật.
Hẳn chúng ta cong nhớ
câu chuyện "Người phụ nữ ngoại tình" trong tin Mừng: Một khi đã phạm
tội, bà bị những người xung quanh kết án có thể gọi là "chung thân".
hình như bà bị xã hội khắc vào má hai chữ "ngoại tình" không thể nào
tẩy xóa được. Giống như chú cáo trong câu chuyện trên: Ðã gian manh quỷ quyệt
thì mọi thú đều không thể tưởng tượng cáo có thể thay đổi.
Nhưng với sự xuất hiện
và hoạt động của Chúa Giêsu, mọi đổi thay đều có thể xảy ra. Con cáo có thể bỏ
tính manh mum xảo trá để làm ăn lương thiện. Qua bao thế hệ, câu nói của Chúa
Giêsu: "Tôi cũng thế, tôi không kết tội chị. Vậy chị hãy ra về và từ nay đừng
phạm tội nữa" đã giúp đổi đen thành trắng nhiều cuộc đời.
Chúng ta hãy tập đừng
vội xét đoán và nhất là đừng bao giờ kết án ai. Trái lại hãy cho nhau những cơ
hội mới để mọi người có thể canh tân cuộc sống.
Tiếp đến, hãy tận tình
giúo đỡ những người đang gặp khó khăn, những kẻ đang vấp ngã: Hãy giơ cánh tay
thân thiện kéo họ ra khỏi những vũng bùn nhơ, thay vì đi nói xấu hay xét đoán
và kết án họ.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina: Máccô
16:9-15
Thứ Bảy, 22 Tháng 4,
2017
Thứ Bảy trong Tuần Bát
Nhật Phục Sinh
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa và là Cha của
chúng con,
Chúa Giêsu, Con Chúa,
đã sống giữa chúng con,
Xác thịt như xác thịt
chúng con, máu như máu chúng con.
Người đã chết vì chúng
con
Và Chúa đã cho Người sống
lại.
Nguyện xin cho chúng
con cảm nghiệm được tình yêu và sự hiện diện của Người
Đến mức mà chúng con
không bao giờ có thể ngừng loan báo
Và mọi người có thể
tôn vinh danh Chúa, Chúa chúng con.
Chúng con cầu xin nhờ
Chúa Giêsu Kitô.
2. Bài Đọc Tin Mừng – Máccô 16:9-15
Khi Chúa Giêsu sống lại,
sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, thì trước hết Người hiện ra với Maria
Mađalêna, kẻ đã được Chúa đuổi bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ từng ở
với Người và nay đang buồn thảm khóc lóc. Họ nghe bà nói Chúa sống lại và
bà đã thấy Người, nhưng họ không tin.
Sau đó, Chúa lại hiện
ra dưới hình thức khác với hai môn đệ đang trên đường về miền quê. Hai
ông trở về báo tin cho anh em, nhưng họ cũng không tin các ông ấy.
Sau hết, Chúa hiện ra
với Mười Một tông đồ lúc đang ngồi ăn. Chúa khiển trách các ông đã cứng
lòng, vì các ông không tin những kẻ đã thấy Người sống lại. Rồi Người
phán: “Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn loài”.
3. Suy Niệm
- Bài Tin Mừng hôm nay là một phần của đoạn văn rộng
lớn hơn (Mc 16:9-20) đặt chúng ta trước một danh sách hay một bản tóm tắt các
cuộc hiện ra khác nhau của Chúa Giêsu: (a) Chúa Giêsu hiện ra với bà
Maria Mađalêna, nhưng các môn đệ đã không chấp nhận lời chứng của bà (Mc
16:9-11); (b) Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ, nhưng các người khác không chấp
nhận lời chứng của họ (Mc 16:12-13); (c) Chúa Giêsu hiện ra với nhóm Mười Một,
Chúa khiển trách việc cứng lòng của các ông và truyền cho các ông đi loan báo Tin
Mừng cho muôn dân (Mc 16:14-18); (d) Chúa lên Trời và tiếp tục cộng tác với các
môn đệ (Mc 16:19-20).
- Bên cạnh danh sách các lần hiện ra này trong Tin Mừng
của Máccô, còn có các danh sách khác về những lần Chúa hiện ra nhưng không phải
lúc nào cũng luôn ăn khớp với nhau. Lấy ví dụ, danh sách được lưu giữ bởi
thánh Phaolô trong Thư gửi các tín hữu Côrintô thì rất khác biệt (1Cr
15:3-8). Việc khác nhau này cho thấy rằng lúc đầu các Kitô hữu tiên khởi
đã không lo lắng chứng minh sự Phục Sinh của Chúa bằng cách nói về các lần hiện
ra. Đối với họ, niềm tin vào Chúa Phục Sinh đã quá rõ ràng và sống động đến
nỗi mà người ta không cần phải chứng minh điều đó. Một người phơi nắng
trên bờ biển thì không cần lo chứng minh rằng mặt trời hiện hữu, bởi vì chính bản
thân người ấy, bị rám nắng, đã là một bằng chứng hiển nhiên về sự hiện hữu của
mặt trời. Các cộng đoàn, hiện hữu trong một đế quốc to lớn, là một bằng
chứng sống của sự Phục Sinh. Danh sách các lần hiện ra đã bắt đầu xuất hiện
sau đó, trong thế hệ thứ hai để bác bỏ những lời chỉ trích của kẻ thù.
- Mc 16:9-11: Chúa Giêsu hiện ra với
bà Maria Mađalêna, nhưng các môn đệ không tin lời bà. Chúa Giêsu hiện
ra lần đầu tiên với bà Maria Mađalêna. Bà đi báo tin này với những người
khác. Để đến thế gian, Thiên Chúa đã muốn dùng cung lòng của một thiếu nữ
độ 15 hay 16 tuổi, tên là Maria thành Nagiarét (Lc 1:38). Để được công nhận
là còn sống ở giữa chúng ta, Người muốn dùng lời loan báo của người phụ nữ đã
được giải thoát khỏi bảy quỷ, còn được gọi là Maria thành Mađalêna! (Đây
là lý do tại sao bà có tên là Maria Mađalêna). Nhưng các môn đệ đã không
tin bà. Thánh Máccô nói rằng Chúa Giêsu đã hiện ra lần đầu tiên với bà
Maria Mađalêna. Trong danh sách các lần hiện ra, được lưu truyền trong
thư gửi tín hữu Côrintô (1Cr 15:3-8), các lần hiện ra của Chúa Giêsu với những
người phụ nữ đã không được đề cập đến. Các Kitô hữu tiên khởi đã gặp khó
khăn lúng túng để tin vào lời chứng của người phụ nữ. Đó là điều tội lỗi!
- Mc 16:12-13: Chúa Giêsu hiện ra với
hai môn đệ đang trên đường về miền quê, nhưng những môn đệ khác cũng không tin
họ. Không đi vào quá nhiều chi tiết, thánh Máccô đề cập đến lần hiện
ra của Chúa Giêsu với hai môn đệ, “đang trên đường về miền quê”. Có lẽ
đây là một lời tóm tắt về lần hiện ra của Chúa Giêsu với các môn đệ trên đường
đi Emmau, được thuật lại bởi thánh Luca (Lc 24:13-25). Máccô nhấn mạnh
khi nói rằng “những môn đệ khác cũng không tin các ông ấy”.
- Mc 16:14-15: Chúa Giêsu khiển trách
các ông đã cứng lòng và Người truyền cho các ông đi loan báo Tin Mừng cho mọi tạo
vật. Vì lý do này, Chúa Giêsu hiện ra với nhóm Mười Một môn đệ và khiển
trách các ông bởi vì họ đã không tin lời của những kẻ đã thấy Người sống lại.
Lần nữa, Máccô đề cập đến việc cứng lòng của các môn đệ trong việc tin vào lời
chứng của những kẻ đã có kinh qua với sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Tại
sao vậy? Có lẽ để giáo huấn ba điều. Trước nhất, đức tin vào Chúa
Giêsu thì đi qua lòng tin tưởng vào những người làm chứng. Thứ hai, không
ai phải nản lòng, khi mà có sự nghi ngại hoặc không tin tưởng dấy lên trong
lòng. Thứ ba, để bác bỏ lời chỉ trích của những kẻ nói rằng người Kitô hữu
thì ngây thơ và cả tin với bất kỳ điều gì, bởi vì nhóm Mười Một môn đệ đã rất
khó khăn để chấp nhận sự thật về Chúa Phục Sinh!
- Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc với lời sai
đi: “Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn loài!”
Chúa Giêsu trao cho các môn đệ sứ vụ đi loan báo Tin Mừng cho mọi tạo vật.
4. Một vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
- Bà Maria Mađalêna, hai môn đệ trên đường Emmau và
nhóm Mười Một môn đệ: Ai là kẻ có khó khăn nhất để tin vào sự Phục
Sinh? Tại sao? Tôi nhận thấy mình giống như ai trong các người ấy?
- Những dấu chỉ để có thể thuyết phục người ta rằng
có sự hiện diện của Chúa Giêsu ở giữa chúng ta là gì?
5. Lời nguyện kết
Nguyện Chúa Trời dủ
thương và chúc phúc,
xin tỏa ánh tôn nhan rạng
ngời trên chúng con,
cho cả hoàn cầu biết
đường lối Chúa,
và muôn nước biết ơn cứu
độ của Ngài
(Tv 67:1-2)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét