23/04/2017
Chúa Nhật 2 PHỤC SINH năm A
Chúa Nhật về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa:
Chúa Nhật Phục II Sinh năm A
CHÚA NHẬT
II PHỤC SINH A
Cv 2,42-47; 1 Pr 1,3-9; Ga 20,19-31
TIN VÀO
ĐỨC KITÔ PHỤC SINH
“Những điều đã được chép ở đây là để anh
em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô,
Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự
sống nhờ danh Người.” (Ga 20,31)
I. CÁC
BÀI ĐỌC
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay làm nổi bật
điểm thần học mấu chốt của Kitô Giáo: Đức Giêsu Kitô đã chết và đã phục sinh.
Những ai tin vào Người thì được cứu độ, nghĩa là được sự sống đời đời.
1. Bài đọc 1
Sau khi Chúa Giêsu về trời, các môn đệ
can đảm rao giảng về Đức Giêsu Phục Sinh cách hăng say và xác tín, nhờ đó mà số
tín hữu bắt đầu gia tăng (Cv 2,41), tạo nên các cộng đoàn tiên khởi gồm những
người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Đoạn sách Công vụ Tông đồ hôm nay mô tả cuộc
sống cộng đoàn mẫu mực và lý tưởng của các Kitô hữu tiên khởi đó, trong đó phác
họa những điểm chính yếu của một cộng đoàn Kitô hữu, đó là lắng nghe lời rao giảng,
tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện.
Các tín hữu chuyên chăm nghe lời rao giảng
và chứng tá của các môn đệ về một Đức Giêsu đã chịu đóng đinh, chịu chết trên
thập giá, nhưng đã được Thiên Chúa cho sống lại, giải thoát khỏi những đau khổ
của cái chết và được đặt làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô (Cv 2,23-24.36). Đức
Giêsu mà người ta cho là đã chết như một con người thì các môn đệ khẳng định đó
là Đức Chúa, là Đấng vẫn sống và đang sống giữa các tín hữu.
Trong bữa Tiệc Ly Chúa Giêsu đã cử hành
việc bẻ bánh và nhắc các môn đệ hãy tiếp tục việc cử hành này mà tưởng niệm cuộc
hiến tế của Người (Lc 22,19; 1 Cr 11,24-25). Chính nhờ việc nghe giảng giải
Kinh Thánh và nhất là việc bẻ bánh mà hai môn đệ trên đường Emmau nhận ra Chúa
Kitô Phục Sinh (Lc 24,30-32). Giờ đây, khi Chúa Giêsu đã về trời, các tín hữu
tiên khởi tưởng nhớ và cảm nhận sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh ở giữa họ,
đồng thời được thông phần sự sống thần linh của Ngài khi họ tham dự lễ bẻ bánh.
Sau nữa, khi cùng chia sẻ niềm tin vào Đức
Kitô Phục Sinh, các tín hữu cùng hiệp thông với nhau trong lời cầu nguyện, kết
hợp mật thiết với nhau trong tình huynh đệ, cũng như chia sẻ của cải vật chất
cho nhau; Họ đồng tâm nhất trí trong việc ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân
thương mến (Cv 2,44-47). Chính niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh đã nối kết các
tín hữu và biến đổi họ thành cộng đoàn của yêu thương, hiệp thông và chia sẻ.
Đó là một cộng đoàn của những người được cứu độ (Cv 2,47b).
2. Bài đọc 2
Tác giả thư thứ nhất Phêrô cất lời ca tụng
Thiên Chúa vì nhờ tình thương vô bờ của Ngài, Đấng đã cho Đức Kitô sống lại từ
cõi chết, mà các tín hữu được ơn tái sinh, nghĩa là được Thiên Chúa ban lại cho
sự sống bởi Thần Khí mà Ađam đã đánh mất (Ga 3,3-5; 20,22-23).
Một đàng, nhờ ơn tái sinh trong Đức Kitô
Phục Sinh, các tín hữu được lãnh nhận niềm hy vọng sống động. Đó là niềm hy vọng
về ơn cứu độ được biểu lộ qua việc phục sinh Đức Giêsu từ cõi chết. Niềm hy vọng
này “sống động” vì dấu hiệu của sự tái sinh (hay ơn cứu độ) chính là sự sống được
trao ban cho các tín hữu do lòng thương xót của Thiên Chúa. Đàng khác, ơn tái
sinh trong Đức Kitô Phục Sinh cho các tín hữu được hưởng gia tài cao quý. Nếu
như đối với Israel gia tài là Đất Hứa, thì đối với Hội Thánh, những người thuộc
về Đức Kitô, thì gia tài đó chính là Nước Trời; gia tài này là thứ không thể hư
hoại, không thể vẩn đục và tàn phai, chỉ dành cho những ai tin vào Đức Kitô Phục
Sinh (1 Pr 1,3-5).
Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh là bảo đảm
cho các tín hữu niềm hân hoan vui mừng khi họ được ân thưởng trong thời cánh
chung, khi Đức Kitô trở lại. Tuy thế, niềm tin đó không miễn cho họ những gian
nan thử thách trong cuộc sống hiện tại. Họ cần bày tỏ sự trung tín với Đức Kitô
ngay trong những thách đố của cuộc sống đức tin. Chính những gian nan thử thách
sẽ tinh luyện đức tin họ, nhờ đó “khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, đức tin đã được
tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự” (1 Pr
1,7); họ sẽ được “chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang”, khi họ “nhận
được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người” (1 Pr 1,8-9).
3. Bài Tin Mừng
Đoạn Tin Mừng Gioan hôm nay mạc khải một
vài điểm thần học quan trọng về Đức Kitô Phục Sinh: Người là Đấng đem lại bình
an và là Đấng sai các môn đệ ra đi; Người cũng là đối tượng của niềm tin, một
niềm tin dẫn tới sự sống đời đời.
Trước hết, Đức Giêsu Phục Sinh là Đấng
đem lại bình an. Ba lần trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chúc bình an cho
các môn đệ (Ga 20,19.21.26). Bình an ở đây không phải là thứ bình an vì không
có gian nan, thử thách, đau khổ nhưng là thứ bình an vì có Chúa Phục Sinh hằng ở
cùng. Việc gặp Đức Kitô Phục Sinh không làm cho các môn đệ hết sợ người Do
Thái; bằng chứng là tám ngày sau lần hội ngộ đầu tiên cùng Thầy, các môn đệ vẫn
lo sợ đóng kín cửa. Và có lẽ đó là lý do để Chúa Phục Sinh khẳng định lại một lần
nữa rằng sự hiện diện của Người đem lại “bình an cho anh em” (Ga 20,26).
Tiếp đến, Đức Giêsu Phục Sinh là Đấng
sai các môn đệ ra đi, nhờ sức mạnh của Thần Khí, để tiếp tục sứ mạng của Người.
Tác giả Tin Mừng thứ tư cho thấy rằng sứ mạng này bắt nguồn từ Chúa Cha: Như
Chúa Cha sai Đức Giêsu và ban Thần Khí trên Người (x. Ga 1,32-34), Đức Giêsu
cũng sai các môn đệ (x. Ga 17,18) và ban Thần Khí trên các ông (Ga 20,22). Cũng
như Thiên Chúa đã ban sự sống bằng cách thổi sinh khí vào con người (St 2,7; Ed
37,5.9), Đức Kitô Phục Sinh cũng “thổi hơi” mà ban Thần Khí cho các môn đệ. Các
ông nhận lấy Thần Khí của Người để được hiệp thông vào quyền năng mang lại sự sống
Thần Khí cho những ai tin vào Người nhờ sứ mạng của các ông. Bóng dáng Chúa Ba
Ngôi in đậm trong sứ mạng của các môn đệ.
Sau nữa, Tin Mừng thứ tư nhấn mạnh rằng
Đức Kitô Phục Sinh là đối tượng của niềm tin và nhờ tin mà được sự sống đời đời.
Niềm tin khởi đầu với việc thấy; Thấy mới tin: Khi được Đức Giêsu Phục Sinh
“cho xem tay và cạnh sườn” của Người, các môn đệ “vui mừng vì được thấy Chúa”
(Ga 20,20); rồi các ông khoe với Tôma, người vắng mặt hôm đó, rằng họ đã “được
thấy Chúa” (Ga 20,25). Trong khi đó Tôma còn đi xa hơn; ông không những đòi hỏi
phải “được thấy”, mà còn phải “được sờ” những vết thương của Đức Kitô Phục Sinh
thì mới tin.
Nếu Đức Kitô Phục Sinh bảo Tôma “đừng cứng
lòng, nhưng hãy tin” sau khi cho ông “được thấy, được sờ”, thì Người lại tha
thiết mời gọi và chúc phúc cho những ai “tin” mà không đòi hỏi phải “được thấy”.
Từ nay trở đi, đức tin không dựa trên những kinh nghiệm cụ thể về Đức Kitô Phục
Sinh hiện ra, nhưng trên lời chứng của các Tông Đồ là những người đã thấy. Tin
Mừng thứ tư khép lại với lời tuyên tín quan trọng, như là một tóm kết chủ đạo
cho toàn bộ Tin Mừng thứ tư, rằng tất cả những ai tin vào Đức Kitô Phục Sinh
thì sẽ “nhờ tin mà được sống nhờ danh Người” (Ga 20,31).
II. GỢI
Ý MỤC VỤ
1/ Tin Mừng thứ tư khẳng định rằng ai
tin vào Đức Kitô Phục Sinh thì sẽ nhờ tin mà được sự sống. Tôi có thật sự tin
vào Đức Kitô Phục Sinh? Tôi có xác tín rằng niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh sẽ
mang lại cho tôi sự sống vĩnh cửu? Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh tác động thế
nào trên cuộc sống hiện tại của tôi và trên việc chọn lựa mục tiêu tối hậu cho
cuộc đời tôi? Tôi có sẵn sàng để cho sự sống của Đức Kitô Phục Sinh biến đổi
tôi hàng ngày không?
2/ Thư thứ nhất Phêrô nói đến niềm “hân
hoan vui mừng”, mặc dù còn phải chịu “ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử
thách” (1 Pr 1,6). Tôi có xác tín vào niềm “hân hoan vui mừng” mà Chúa Phục
Sinh sẽ mang lại cho tôi khi Người trở lại? Tôi có sẵn sàng đón nhận những “ưu
phiền ít lâu” trong niềm tin và sự phó thác cho sự quan phòng của Đấng Phục
Sinh?
3/ Theo sách Công vụ Tông đồ, Đức Kitô
Phục Sinh là điểm quy chiếu và hiệp thông của các tín hữu tiên khởi qua việc
nghe các môn đệ rao giảng, tham dự lễ bẻ bánh, cầu nguyện và chia cơm sẻ áo.
Tôi có khao khát hiệp thông với Đức Kitô Phục Sinh qua việc tham dự Thánh Lễ? Đức
Kitô Phục Sinh có là sợi dây nối kết tôi với anh chị em xung quanh tôi? Tôi có
sẵn sàng chia sẻ vật chất và tinh thần với những người đang cần đến vì Đức Kitô
Phục Sinh?
III. LỜI
NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh
chị em thân mến! Đức Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại, Người luôn hiện diện giữa
các môn đệ để ban bình an và củng cố đức tin cho các ông. Đức Kitô Phục Sinh
chính là hiện thân lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Chúng ta
cùng chúc tụng Chúa và hiệp ý cầu nguyện:
1. Chúa Giêsu phán: “Các con hãy nhận lấy
Thánh Thần.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô và các mục tử
trong Hội Thánh được tràn đầy Thánh Thần của Chúa Phục Sinh để các ngài chu
toàn sứ mạng dẫn dắt đoàn chiên Chúa trao phó.
2. Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh đưa
con người đến sự sống đời đời. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các dân tộc và quốc
gia trên thế giới còn xa lạ với đức tin Kitô giáo, được nghe loan báo niềm vui
Tin Mừng và tin nhận Đức Kitô là “sự thật và là sự sống”.
3. Các tín hữu tiên khởi luôn đồng tâm
nhất trí với nhau. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi kitô hữu luôn sống hòa thuận
và hiệp nhất với nhau trong cùng một đức tin và lòng mến, để luôn là chứng tá sống
động của lòng thương xót Chúa giữa thế giới hôm nay.
4. “Phúc cho những ai đã không thấy mà
tin.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta dù không
được thấy Chúa nhưng biết nhận ra hình ảnh của Người nơi tha nhân, để đức tin
ngày càng được củng cố qua đời sống yêu thương phục vụ.
Chủ tế: Lạy
Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và ban
Thánh Thần giúp chúng con luôn can đảm và hăng hái làm nhân chứng cho Đức Kitô
Phục Sinh giữa thế giới hôm nay. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
SỢI CHỈ ĐỎ CHÚA NHỰT II PHỤC SINH
Năm A
*** Từ
Chúa nhựt II đến Chúa nhựt VI mùa Phục sinh,
- Bài
đọc I luôn trích từ sách Công vụ tông đồ, trình bày cuộc sống và hoạt động của
Hội Thánh sơ khai.
- Bài
đọc II trích nối tiếp từ thư thứ I của Thánh Phêrô, trừ Chúa nhựt IV không theo
thứ tự liên tục này vì hôm đó Phụng vụ muốn nhấn mạnh ý tưởng Đức Giêsu là mục
tử.
- Bài
Tin Mừng trích từ Tin Mừng Gioan, trừ Chúa nhựt III.
CHỦ ĐỀ :
KẾT QUẢ VIỆC CG PHỤC SINH TRONG CUỘC
SỐNG CỦA CÁC TÍN HỮU
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I : Cuộc sống mới thắm tình
huynh đệ của các tín hữu cộng đoàn sơ khai.
- Bài đọc II : Nhờ Đức Giêsu phục sinh,
chúng ta được tái sinh và hưởng gia tài của Thiên Chúa, vì vậy chúng ta hãy vui
mừng.
- Bài Tin Mừng : Hai cuộc hiện ra của Đức
Giêsu phục sinh. Ngài ban cho các môn đệ bình an, niềm vui và đức tin.
I. DẪN
VÀO THÁNH LỄ
Sau tuần bát nhật lễ Phục sinh, có lẽ
chúng ta nghĩ rằng thế là xong, chúng ta trở về với cuộc sống đơn điệu nhàm
chán. Nghĩ thế là lầm, Đức Giêsu sống lại không phải chỉ là một biến cố diễn ra
một lần rồi hết, nhưng ảnh hưởng đến suốt cuộc đời chúng ta. Chúng ta phải tiếp
tục đào sâu đức tin và tận hưởng niềm vui của đức tin này.
II. GỢI
Ý SÁM HỐI
- Mặc dù là thành phần của cộng đoàn những
người tin, nhưng nhiều khi chúng ta thờ ơ không quan tâm đến những người khác.
- Mặc dù thừa hưởng niềm hy vọng sống động,
nhưng đôi khi chúng ta buồn chán, thất vọng.
- Mặc dù được Chúa Thánh Thần tác sinh,
nhưng nhiều khi chúng ta lại kém lòng tin.
III. LỜI
CHÚA
1. Bài đọc I : Cv 2,42-47
Cuộc sống thắm tình huynh đệ của cộng
đoàn tín hữu sơ khai có những nét sau :
- Một cộng đoàn phượng tự : việc phượng
tự này gồm lời giáo huấn của các tông đồ và Thánh lễ (lễ bẻ bánh).
- Một cộng đoàn bác ái : việc bác ái được
thể hiện cụ thể bằng việc mọi người tự nguyện để tài sản riêng thành của chung.
- Một cộng đoàn mở cửa : cộng đoàn tín hữu
sơ khai không khép kín trong nội bộ, nhưng mở rộng cửa trong việc duy trì liên
hệ với đồng bào do thái (họ vẫn lên đền thờ Giêrusalem) và "được mọi người
mến thương".
Kết quả của nếp sống này là ảnh hưởng
truyền giáo mạnh : "Số người gia nhập công đoàn ngày càng tăng".
2. Đáp ca : Tv 117
(Như Chúa nhựt Phục sinh).
3. Bài đọc II : 1 Pr 1,3-9
Lời chúc tụng Thiên Chúa của Thánh Phêrô
:
- Lý do của tâm tình chúc tụng là
"Ngài cho ta được tái sinh nhờ việc Đức Kitô sống lại từ cõi chết" (xem
thêm cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu với Nicôđêmô về việc tái sinh, Ga 3).
- Chỗ dựa của tâm tình này là niềm vui
mà Đức Kitô phục sinh ban cho các tín hữu, một niềm vui vững bền ngay cả giữa
những gian nan khốn khó : "Anh em sẽ được vui mừng mặc dù còn phải ưu phiền
ít lâu giữa trăm chiều thử thách".
- Thể hiện bằng một niềm tin vững vàng mặc
dù không thấy : "Tuy anh em chưa bao giờ thấy Ngài mà vẫn yêu mến, chưa được
giáp mặt nhưng lòng vẫn kính tin".
Tất cả những điều trên là hoa quả của việc
Đức Giêsu phục sinh.
4. Bài Tin Mừng : Ga 20,19-31
Đoạn Tin Mừng này gồm 2 cuộc hiện ra của
Đức Giêsu phục sinh :
a/ Cuộc hiện ra thứ nhất :
- Đấng phục sinh mang đến niềm vui và
bình an cho các tông đồ.
- Trao sứ mạng ra đi cho các ông
- Ban Thánh Thần cho các ông.
b/ Cuộc hiện ra thứ hai vào 8 ngày sau
nhằm củng cố đức tin : Đức tin được nâng lên trình độ cao : tin không phải vì
thấy mà vì nghe lời chứng của những người đã tin. Từ nay tín hữu tin không phải
vì được tiếp xúc trực tiếp với Đức Giêsu mà tin vì lời chứng của các tông đồ.
IV. GỢI
Ý GIẢNG
1.
Tin thì vui
Các bài đọc hôm nay cho thấy một đặc
tính tất yếu của đức tin : nếu thực sự tin thì tất nhiên sẽ vui. Bài Tin Mừng kể
rằng trước khi gặp Đức Giêsu phục sinh thì các tông đồ sợ, nhưng khi gặp Ngài
thì "các môn đệ vui mừng" ; Đoạn sách Công vụ kể : các tín hữu cộng
đoàn Giêrusalem "ăn uống với nhau rất đơn sơ vui vẻ" ; còn trong bài
đọc 2, thánh Phêrô bảo "Anh em sẽ được vui mừng mặc dù còn phải ưu phiền
ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của
anh em".
Vậy mà hiện nay nhiều người ở ngoài nhìn
vào Giáo Hội thì thấy hình như các kitô hữu có vẻ buồn, đức tin giống như một
cái khuôn, thậm chí một nhà tù giam hãm họ. Tại sao ?
2.
Sống với nhau như anh em
Con người thời nay khao khát được sống
trong một cộng đoàn có tình có nghĩa. Có nhiều người than "Tôi thấy mình
chỉ là một con số giữa một đám đông vô tình". Các nhà tâm lý xã hội đặt
cho tình trạng này cái tên là "đám đông cô độc". Đó là kết quả của chủ
nghĩa cá nhân mà chúng ta được giáo dục ngay từ nhỏ.
Vậy niềm khao khát trên phải chăng là một
trong những dấu chỉ của thời đại ? Làm thế nào để thỏa mãn được khát vọng tốt đẹp
ấy ?
Bài trích sách Công vụ có thể cho ta một
số yếu tố để trả lời :
- Cầu nguyện và lắng nghe lời Chúa : vì
sống cộng đoàn huynh đệ là một việc vượt quá khả năng con người ích kỷ, nên nếu
có Chúa giúp thì mới thực hiện được.
- Chia sẻ : vì yêu thương thì phải cho
đi.
- Cởi mở : mỗi người không tự khép kín
trong cái tôi cô độc của mình nhưng phải mở lòng ra với mọi người.
3.
Tin vì thấy và tin do nghe
Trên lý thuyết, tin vì thấy có giá trị
hơn tin do nghe.
Nhưng trên thực tế, người ta tin do nghe
nhiều hơn tin vì thấy : đứa trẻ không dám thọc tay vào ổ điện là do nó nghe lời
cha mẹ căn dặn chứ không phải vì đã có kinh nghiệm bị điện giật ; cậu học sinh
tin rất nhiều điều thầy cô dạy mặc dù chưa bao giờ cậu thấy…
Và xét cho cùng, nội dung của một niềm
tin có lẽ không quan trọng cho bằng lòng tín nhiệm vào uy tín của người thông
tin : do không tín nhiệm vào một tên bá vơ ngoài đường cho nên dù hắn có hứa hẹn
bao nhiêu điều tốt đẹp tôi vẫn không tin ; ngược lại do tín nhiệm vào cha mẹ,
thầy cô nên các vị này bảo gì tôi cũng tin.
Và như thế, cuối cùng, tin do tín nhiệm
là một thể hiện của tình yêu. Do đó tin do tín nhiệm có giá trị hơn tin nhờ bằng
chứng.
4.
Chuyện minh họa
a/ Đức tin lớn lao
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử
thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí
quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi :
- Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn
lao ?
- Ồ không, tôi không phải là người có đức
tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
b/ Tin người đáng tin
Một bà già đứng ở ngã tư có nhiều chuyến tàu đi qua. Vì ít khi ra ngoài,
nên bà chẳng biết tàu nào về đâu. Sợ đi lạc, bà giơ vé ra hỏi một người đứng kế
bên :
- Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu
này không ?
- Phải đó bà.
Nhưng bà chưa an tâm. Biết đâu người ấy
cũng không rành. Bà gặp người khác, cũng hỏi :
- Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu
này không ?
- Phải đó bà.
Nhưng bà vẫn chưa hết áy náy. Rồi bà gặp một
người đeo phù hiệu nhân viên hoả xa, bà hỏi :
- Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu
này không ?
- Phải, thưa bà.
Thế là bà an tâm bước lên tàu. Bà đã tin người đáng tin. Đức tin là thế
!
c/ Đức tin nhỏ, đức tin lớn
Một đức tin nhỏ sẽ đưa linh hồn bạn vào
thiên đàng ; một đức tin lớn sẽ đưa thiên đàng vào linh hồn bạn (H. Spurgeon).
V. LỜI
NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Đức Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết,
đem lại bình an, tin yêu và hy vọng cho tất cả những ai tin vào Người. Trong niềm
vui phục sinh, chúng ta cùng tin tưởng nguyện cầu.
1. Trên con đường về quê trời / Hội
Thánh gặp không biết bao nhiêu là thử thách gian nan / Chúng ta hiệp lời cầu
xin Chúa / củng cố đức tin của Hội Thánh trên đường lữ thứ trần gian / để Hội
Thánh làm chứng cho nhân loại biết rằng / Chúa đã phục sinh vinh hiển.
2. Hiện tại có biết bao người đang cộng
tác với nhau / để xây dựng một cuộc sống xứng với nhân phẩm / Chúng ta hiệp lời
cầu xin Chúa / ban Thánh Thần trợ lực và thánh hóa những cố gắng này.
3. Đời sống đức tin không phải là không
có những khó khăn / người kitô hữu gặp biết bao là hoài nghi / tăm tối / và
nghe cũng không ít những lời xuyên tạc và bôi nhoi đầy ác ý / Chúng ta hiệp lời
cầu xin cho ánh lửa đức tin / luôn cháy sáng trong tâm hồn mỗi kitô hữu / đặc
biệt là các kitô hữu trẻ.
4. Đời sống đức tin sâu sắc của các kitô
hữu thời Giáo Hội sơ khai / là một gương mẫu tuyệt vời cho các tín hữu ngày nay
/ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn sống với
nhau trong tình huynh đệ / siêng năng tham dự thánh lễ / và cầu nguyện không ngừng.
CT : Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết chúng con
trí khôn chậm chạp, còn tâm hồn thì cứng cỏi. Xin ban thêm đức tin cho chúng
con, nhờ đó, dù gặp thất bại hay đau khổ đến đâu đi nữa, chúng con vẫn luôn tin
yêu, gắn bó và dấn thân theo Chúa đến cùng. Chúa hằng sống và…
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật
II Phục Sinh (A) - Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa
Chúa Nhật, 23 Tháng 4, 2017
Sứ
vụ của các môn đệ và
Lời
chứng của Tông Đồ Tôma
Ga
20:19-31
1.
Lời nguyện mở đầu
Lạy Cha, ngày Chúa Nhật hôm nay con cái
Cha đang tề tựu để ca tụng Đấng Trước Hết và Sau Hết mọi sự, Đấng hằng sống đã
chiến thắng sự chết, xin Cha ban cho chúng con sức mạnh của Chúa Thánh Linh, Đấng
đã chế ngự được sự dữ, làm trầm tĩnh các nỗi sợ hãi và do dự của chúng con, để
chúng con có thể mạnh dạn đáp trả với sự vâng phục và lòng yêu mến, trong sự ngự
trị vinh quang của Đức Kitô.
2.
Bài Đọc
a)
Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Chúng ta đang đọc ở trong sách được gọi
là “sách của sự sống lại”, trong đó chúng ta được cho biết, không hẳn theo một
thứ tự hợp lý, một số sự việc liên quan đến việc Đức Kitô Phục Sinh và các sự
thật chứng minh điều đó. Theo quyển Phúc
Âm thứ tư, những sự kiện đã diện ra vào buổi sáng (20:1-18) và buổi tối ngày đầu
tiên sau ngày thứ bảy, và tám ngày sau đó, tại cùng một địa điểm và cùng ngày
trong tuần. Chúng ta đang đứng trước một
biến cố quan trọng nhất trong lịch sử loài người, một biến cố thách đố từng cá
nhân chúng ta. Thánh Phaolô tông đồ đã
nói: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại thì
việc rao truyền của chúng ta trở thành vô ích và đức tin của chúng ta cũng nên
vô dụng … và chúng ta vẫn còn sống trong tội lỗi” (1Cr 15:14, 17), Phaolô đã
không biết Đức Giêsu trước khi Người phục sinh, nhưng lại là người sau này đã
đi rao giảng một cách thiết tha trọn cả quãng đời của ông. Chúa Giêsu được sai đi bởi Chúa Cha. Và Người cũng sai chúng ta đi. Sự sốt sắng của
chúng ta để “đi” xuất phát từ chiều sâu đức tin của chúng ta vào Đấng Đã Sống Lại. Chúng ta có sẵn sàng để nhận lãnh “sự ủy
thác” của Người và dâng hiến cuộc đời chúng ta cho Nước Trời của Người
chưa? Đoạn Tin Mừng này không chỉ nói về
đức tin của những kẻ chưa thấy (lời chứng của Tôma), mà nó còn nói về sứ vụ được
ủy thác cho Giáo Hội bởi Đức Kitô.
b)
Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Ga 20:19-20: Chúa hiện ra với các môn đệ và cho các ông
xem những vết thương
Ga 20:21-23: Ân sủng Chúa Thánh Thần ban cho sứ vụ
Ga 20:24-26: Chúa hiện ra đặc biệt với ông Tôma tám ngày
sau đó
Ga 20:27-29: Cuộc đối thoại của Chúa với ông Tôma
Ga 20:30-31: Mục đích của sách Phúc Âm theo thánh Gioan
c)
Phúc Âm:
19 Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần,
những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do Thái, Chúa Giêsu hiện
đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an
cho các con”. 20 Khi nói điều đó, Người
cho các ông xem tay và cạnh sườn Người.
Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. 21 Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các
con”. 22 Nói thế rồi, Người thổi hơi và
phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy
Thánh Thần, 23 các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”.
24 Bấy giờ trong mười hai tông đồ, có
ông Tôma gọi là Điđymô, không cùng ở với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. 25
Các môn đệ khác đã nói với ông rằng:
“Chúng tôi đã xem thấy Chúa”.
Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng:
“Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón
tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không
tin”.
26 Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau
trong nhà và có Tôma ở với các ông.
Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà
phán: “Bình an cho các con”. 27 Đoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay
Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy
tin”. 28 Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!” 29 Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã
tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà
tin”.
30 Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác
trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này; 31 nhưng các điều này đã được ghi chép để anh
em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống
nhờ danh Người.
3. Giây
phút thinh lặng cầu nguyện
Để cho Lời Chúa được thấm vào tâm hồn
chúng ta
4.
Suy Niệm
a)
Một vài câu hỏi gợi ý giúp cho giờ suy niệm chúng ta:
Người nào hoặc điều gì trong bài Tin Mừng
đã tạo sự chú ý và thích thú cho tôi? Có
thể nào một người tự nhận là Kitô hữu mà lại chưa tin vào sự Phục Sinh của Chúa
Giêsu được chăng? Việc tin vào sự phục
sinh thật là quan trọng đến mức như thế ư?
Điều gì sẽ bị thay đổi nếu chúng ta không còn rao giảng Lời Chúa và
không tiếp tục làm chứng nhân cho Tin Mừng sự sống? Ân sủng của Chúa Thánh Thần cho sứ vụ có ý
nghĩa gì đối với tôi? Sứ vụ của Đức
Giêsu trên thế giới được tiếp tục như thế nào sau khi Chúa Phục Sinh? Nội dung của bản công bố sứ vụ truyền giáo là
gì? Việc làm chứng của ông Tôma mang một
giá trị gì đối với tôi? Tôi có sự nghi
ngờ nào về tín lý không? Nếu có, đó là
những điều gì? Tôi sẽ giải quyết và vượt
qua những nghi ngại ấy bằng cách nào? Tôi có khả năng biện minh cho đức tin của
tôi không?
b)
Dẫn giải:
Vào buổi chiều cùng ngày, ngày thứ nhất
trong tuần: Các môn đệ đang trải qua một
ngày đặc biệt. Đối với cộng đoàn, vào
lúc quyển Tin Mừng thứ tư được viết, ngày sau ngày Sabbát đã là “ngày của Chúa”
(Kh 1:10), Chúa Nhật, và nó còn quan trọng hơn cả ngày Sabbát trong truyền thống
của người Do Thái.
Những cửa nhà các môn đệ đều đóng
kín: Một chi tiết cho thấy rằng thân thể
của Đức Giêsu phục sinh, dù rằng vẫn có thể nhận ra, đã không bị chi phối bởi
các điều kiện vật lý như người phàm.
Bình an cho các con: Đây không phải là một lời chúc tụng, nhưng đó
chính là sự bình an thực sự đã được hứa hẹn với các ông khi các ông buồn rầu vì
cuộc tử nạn của Chúa (Ga 14:27; 2Tx 3:16; Rm 5:3), sự bình an cứu chuộc, sự
viên mãn những lời hứa bởi Thiên Chúa, giải thoát khỏi tất cả mọi sợ hãi, chiến
thắng tội lỗi và cõi chết, giao hòa với Thiên Chúa, hoa trái của cuộc khổ nạn của
Người, tặng phẩm cho không từ Thiên Chúa.
Sự bình an này được lập lại ba lần trong đoạn Kinh Thánh này cũng như
trong phần dẫn nhập (20:19) và tiếp theo sau đó (20:26) trong cùng một thể
cách.
Người cho các ông xem tay và cạnh sườn
Người: Chúa Giêsu cung cấp bằng chứng hiển
nhiên và rõ ràng rằng chính Người là kẻ đã bị đóng đinh vào thập giá. Chỉ có Thánh Sử Gioan đã ghi lại chi tiết về
vết thương nơi cạnh sườn Người là do ngọn giáo của một tên lính La-mã đâm vào,
trong khi ấy Phúc Âm của Luca lại nhắc đến vết thương nơi chân (Lc 24:39). Khi cho các môn đệ xem các vết thương, Chúa
Giêsu muốn nói rằng sự bình an mà Người ban tặng cho các ông đến từ cây thập
giá (2Tm 2:1-13). Những vết thương này
là một phần căn cước của Người là Đấng đã sống lại từ cõi chết (Kh 5:6).
Các môn đệ vui mừng vì xem thấy
Chúa: Niềm vui mừng này giống như niềm
vui mừng được diễn tả bởi tiên tri Isaia khi ông diễn tả về bữa tiệc thiêng
liêng (Is 25:8-9), nỗi vui mừng ngày tận thế đã được báo trước trong lời từ biệt
và rằng không ai có thể cất đi được (Ga 16:22, 20:27). (Xin xem thêm Lc 24:39-40; Mt 28:8; Lc
24:41).
Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các
con: Chúa Giêsu là người truyền giáo đầu
tiên, “chúng tôi xác nhận là vị linh mục tông đồ và thượng tế của đức tin” (Kh
3:1). Sau khi trải qua kinh nghiệm của
thập giá và sự phục sinh, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cùng Chúa Cha đã trở
thành sự thật (Ga 13:20; 17:18; 21:15, 17).
Đây không phải là một sứ vụ mới, nhưng đó là sứ vụ của Đức Giêsu mở rộng
đến những người là môn đệ của Chúa, gắn liền với Người như các cành nho gắn liền
với cây nho (15:9), vì thế các môn đệ cũng gắn liền với Giáo Hội của Người (Mt
28:18-20; Mc 16:15-18; Lc 24:47-49). Con
Thiên Chúa hằng sống đã được sai đến thế gian để “thế gian nhờ Con của Người,
mà được cứu độ” (Ga 3:17) và tất cả sự hiện diện của Người trên thế gian này,
đã được thực thi một cách đầy đủ với ý định cứu chuộc của Chúa Cha, là sự hiện
diện liên tục của Chúa để cho tất cả sẽ được cứu rỗi. Người lưu lại cuộc cứu
chuộc lịch sử này như một di sản cho toàn thể Giáo Hội và, nhất là những người
đã được tuyển chọn trong Giáo Hội.
Người thổi hơi vào các môn đệ: Cử chỉ này gợi nhớ lại việc Thiên Chúa đã thổi
hơi ban sức sống vào con người (St 2:7), việc này đã không thấy nhắc đến một
nơi nào khác trong Tân Ước. Nó đánh dấu
sự bắt đầu của một cuộc tác tạo mới.
Hãy nhận lấy Thánh Thần: Sau khi Đức Giêsu đã được tôn vinh, Thần Khí
Chúa sẽ được trao ban (Ga 7:39). Ở đây
Thần Khí được truyền đến cho một sứ vụ đặc biệt, trong ngày Lễ Ngũ Tuần (Cv 2)
Chúa Thánh Linh hiện xuống trên toàn thể dân Thiên Chúa.
Các con tha tội ai, thì tội người ấy được
tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy
bị cầm lại: Chúng ta cũng có thể tìm thấy
quyền năng của việc tha tội hoặc không tha tội trong Phúc Âm của thánh Mátthêu
dưới một hình thức có vẻ pháp lý hơn (Mt 16:19; 18:18). Theo những người Luật Sĩ và Biệt Phái (Mc
2:7), và theo truyền thống (Is 43:25), chỉ có Thiên Chúa là đấng có quyền tha tội. Chúa Giêsu có quyền này (Lc 5:24) và Người
truyền lại cho Giáo Hội Người. Trong lúc
suy niệm, tốt hơn hết là chúng ta không nên vướng bận với lời văn của sự phát
triển về thần học trong truyền thống giáo hội và những cuộc tranh cãi về thần học
sau đó. Trong quyển Phúc Âm thứ tư, sự
diễn đạt có thể được hiểu theo một ý nghĩa rộng. Ở đây nó là một vấn đề về quyền tha tội trong
Giáo Hội được xem như là sự cứu rỗi của cộng đoàn và một cách đặc biệt cho những
ai đã được tuyển chọn để nối tiếp và chia xẻ công cuộc tông đồ và truyền
giáo. Trong quyền năng tổng quát này được
bao gồm cả quyền tha tội sau khi đã nhận bí tích rửa tội, mà chúng ta gọi là
“bí tích hòa giải” được nhắc đến qua nhiều hình thức khác nhau trong suốt chiều
dài lịch sử của Giáo Hội.
Bấy giờ trong nhóm Mười Hai tông đồ, có
ông Tôma gọi là Điđymô: Ông Tôma là một
trong những nhân vật chính trong Quyển Phúc Âm thứ tư và là người đã được làm nổi
bật vì đặc tính hoài nghi và dễ bị hoang mang nản lòng, (11:16; 14:5). “Một môn đệ trong nhóm mười hai” vào bấy giờ
là một lời nói khuôn sáo (6:71), bởi vì thật ra họ chỉ còn lại mười một người. “Điđymô”
có nghĩa là “Sinh Đôi”, và chúng ta có thể là “anh em song sinh” của ông
bởi vì sự cứng lòng tin của chúng ta vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng đã chết
và đã sống lại.
Chúng tôi đã xem thấy Chúa!: Khi các ông An-rê, Gioan, và Philípphê đã gặp
được Đấng Cứu Thế, họ liền chạy đi loan báo cho các người khác (Ga
1:41-45). Bây giờ lại có lời tuyên bố
chính thức bởi những người chứng tận mắt (Ga 20:18).
Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay
Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào
cạnh sườn Người, thì tôi không tin: Ông
Tôma không tin lời những người chứng.
Ông muốn chính mình chứng kiến tận mắt.
Quyển Tin Mừng thứ tư ý thức về sự khó khăn rằng một số người có thể có
lòng hoài nghi về việc Chúa Phục Sinh (Lc 24:34-40; Mc 16:11; 1Cr 15:5-8), nhất
là những kẻ chưa được gặp Người. Tôma là
người diễn đạt cho họ (và cho cả chúng ta).
Ông đã sẵn sàng để tin, nhưng ông muốn làm sáng tỏ tất cả những hoài
nghi riêng trong lòng, vì lo rằng sẽ bị lầm lạc. Chúa Giêsu đã không nhìn Tôma như một người
theo chủ nghĩa hoài nghi, nhưng xem ông như một người muốn đi tìm sự thật và
mong muốn được đáp ứng trọn vẹn. Tuy
nhiên, đây là một dịp để thể hiện một sự cảm kích cho các tín hữu tương lai
(Câu 29).
Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem
tay Thầy. Hãy đưa bàn tay con ra và xỏ
vào cạnh sườn Thầy. Chớ cứng lòng, nhưng
hãy tin! Chúa Giêsu lặp lại những lời của
Tôma và bắt đầu cuộc đối thoại với ông.
Chúa hiểu lòng hoài nghi và các ước muốn của Tôma nên giúp ông. Chúa Giêsu biết rằng Tôma yêu mến Chúa và vì
vậy Người động lòng trắc ẩn vì Tôma chưa tận hưởng được sự bình an đến từ đức
tin. Chúa Giêsu giúp ông trưởng thành
trong đức tin. Để đi sâu hơn vào trong
chủ đề này, chúng ta có thể đọc thêm: 1Ga 1-2; Tv 78:38; 103:13-14; Rm 5:20; Tm
1:14-16.
Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của
tôi!: Đây là lời tuyên xưng đức tin vào
Đấng Đã Sống Lại và việc tôn sùng Người như đã được công bố ở chương đầu của
Phúc Âm theo thánh Gioan (1:1). Trong Cựu
Ước, những chữ “Chúa” và “Thiên Chúa” được tương ứng với các chữ “Gia-vê” và
“Elohim” (Tv 35:23-24; Kh 4:11). Đây là
lời tuyên xưng đức tin vào bản tính Thiên Chúa của Đức Giêsu Phục Sinh một cách
đầy đủ và trực tiếp nhất. Đối với những
người Do Thái, các từ ngữ này mang một ý nghĩa giá trị cao quý hơn vì họ đã
dùng trong các văn bản về Chúa Giêsu liên quan đến bản tính Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã không chỉnh sửa những lời của
Tôma như Người đã chỉnh sửa những lời mà người Do Thái đã dùng để buộc tội Người
là đã mong muốn được “bằng Thiên Chúa” (Ga 5:18 và các câu tiếp); do đó, Chúa
đã xác nhận việc mang bản tính Thiên Chúa của Người.
Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con
đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy
mà tin! Chúa Giêsu không thể tha thứ cho
những kẻ chỉ biết đi tìm những dấu lạ và điềm thiêng để mà tin (Ga 4:48) và Người
đã dùng ông Tôma để chỉnh đốn việc ấy. Ở
đây chúng ta nên nhớ đến một đoạn Phúc Âm khác nói về một đức tin chân chính
hơn, một “phương cách hoàn hảo” hướng về một đức tin mà chúng ta phải khao khát
nhưng không có các điều đòi hỏi của Tôma, một đức tin được nhận lãnh như một
món quà tặng và như là một hành động của lòng tin, giống như gương đức tin của
cha ông chúng ta (Kh 11) và của Đức Maria (Lc 1:45). Chúng ta, những người sống sau Chúa Giêsu hai
ngàn năm, đã được bảo cho biết về Người, dù rằng chúng ta chưa hề gặp Người,
nhưng chúng ta vẫn có thể yêu mến và tin tưởng vào Người để chúng ta có thể
chan chứa với “một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang” (1Pr 1:8).
Các điều đã được ghi chép để anh em tin
rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ
danh Người: Quyển Phúc Âm thứ tư, như
các quyển Phúc Âm khác, không có chủ đích viết một cuốn tiểu sử đầy đủ về Chúa
Giêsu, nhưng chỉ để cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng
Mêssia đang được mong đợi, Đấng Giải Thoát, và Người chính là Con Thiên
Chúa. Tin tưởng vào Người có nghĩa là
chúng ta có sự sống đời đời. Nếu Đức
Giêsu không phải là Thiên Chúa, thì đức tin của chúng ta trở nên vô ích!
5.
Cầu Nguyện
Thánh Vịnh 118 (117)
Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ;
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương!
Israel hãy nói lên rằng:
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương”.
Nhà A-a-ron hãy nói lên rằng:
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương”.
Ai kính sợ CHÚA hãy nói lên rằng:
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương”.
Chúng xô đẩy tôi, xô cho tôi ngã,
nhưng Chúa đã phù trợ thân này.
Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi;
chính Người cứu độ tôi.
Kìa nghe tiếng reo mừng chiến thắng
trong doanh trại chính nhân:
Tảng đá mà người thợ xây loại bỏ
lại trở nên tảng đá chính góc tường.
Đó chính là công trình của Chúa;
công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.
Đây là ngày Chúa đã làm ra,
nào ta hãy vui mừng hoan hỷ.
Lạy Chúa, xin ban ơn cứu độ, lạy
Chúa!
Ôi lạy Chúa, xin thương giúp thành công.
6.
Chiêm Niệm
Lời nguyện kết
Lạy Chúa Giêsu, con xin cảm tạ Chúa,
Chúa của con và Thiên Chúa của con, Chúa đã yêu thương con và đã cất tiếng gọi
con, Người đã cất nhắc con trở thành môn đệ Chúa. Chúa đã ban cho con Thần Khí Chúa, Đấng được
sai đến, để con ra đi công bố và làm chứng cho sự phục sinh của Chúa, về lòng từ
ái của Chúa Cha, để cho mọi người trên thế gian được nhận lãnh ơn cứu độ. Chúa chính là đường, là sự thật và là sự sống,
Chúa là ánh bình minh không bao giờ xế tà, là vầng thái dương của công lý và
hòa bình. Xin Chúa hãy ban cho con được
cư ngụ trong tình yêu của Chúa, xin ràng buộc con vào Chúa như cành nho gắn liền
với cây nho. Xin Chúa hãy ban cho con sự
bình an của Chúa để con có thể khắc phục được những yếu đuối của con, đối diện
với những nghi ngại của con và mạnh dạn bước theo ơn gọi của Chúa và để con sống
trọn vẹn với nhiệm vụ Chúa đã giao phó cho con và ca tụng Chúa muôn đời. Chúa là đấng hằng sống, hằng trị muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét