Các quan điểm Do Thái và Kitô Giáo về tính bổ túc nam nữ (tiếp
theo)
Vũ Văn An4/10/2017
II. Quan điểm Do Thái Giáo
Người ta vẫn
coi quan điểm của Giáo Hội Baptist Miền Nam Hoa Kỳ là cổ vũ tính bổ túc chứ
không cổ vũ tính bình đẳng nam nữ. Một số hệ phái Kitô Giáo khác cũng nghiêng về
phía nhấn mạnh tới các dị biệt nam nữ để chứng minh tư cách “làm đầu” của người
đàn ông.
Thực thế, tại
Hội Thoại Humanum, Henry B. Eyring, Chủ Tịch Giáo Hội Chúa Giêsu Kitô của Các
Thánh Ngày Sau Hết (Mormon), cũng nhấn mạnh tới các dị biệt nam nữ, ngầm cho thấy
vai trò đứng đầu của người đàn ông. Ông nói: “chúng tôi (vợ chồng ông) đã bổ túc
cho nhau vượt quá bất cứ điều gì chúng tôi có thể tưởng nghĩ. Khả năng chăm dưỡng
người khác của nàng lớn lên trong tôi khi chúng tôi trở nên một. Khả năng đặt kế
hoạch, điều khiển và lãnh đạo trong gia đình chúng tôi lớn lên trong nàng khi
chúng tôi kết hợp trong hôn nhân. Tôi hiểu ra rằng chúng tôi cùng lớn lên thành
một, từ từ nâng cao và lên khuôn lẫn nhau, năm này qua năm nọ. Khi hút tỉa sức
mạnh của nhau, việc này không hề làm giảm các ơn phúc bản thân của chúng tôi”.
Tổng giám mục
Nicholas Okoh của Hiệp Thông Anh Giáo Nigeria, trong bài phát biểu tại Hội Thoại
Humanum, cho rằng người đàn ông phải đứng đầu gia đình và trong Giáo Hội, dù Hiệp
Thông Anh Giáo đã phong chức giám mục cho phụ nữ. Ngài ủng hộ lập trường của
Craig Blomberg trong cuộc tranh luận về tư cách đứng đầu của đàn ông, khi cho rằng
“dù một số người viết hoàn toàn tách biệt các vấn đề trong gia đình với các vấn
đề trong Giáo Hội, đa số đồng ý rằng [Giáo Hội] khởi đầu vốn rập khuôn theo
[gia đình]. Học hỏi hơn nữa về kế sách của Thiên Chúa dành cho các người chồng
và các người vợ, ta sẽ có thể có lý khi từ đó suy ra các vai trò của đàn ông và
đàn bà trong cộng đồng tín hữu”. Tư cách đứng đầu gia đình được dành cho người
đàn ông; điều này đúng cho cả hôn nhân và gia đình Kitô Hữu lẫn hôn nhân và gia
đình truyền thống.
Tóm lại,
tuy nhiều Giáo Hội thệ phản phong chức linh mục và cả giám mục để đứng đầu các
Giáo Hội địa phương, nhưng họ lại có khuynh hướng hiểu nghĩa bổ túc nam nữ
không theo nghĩa hợp tác hay cùng tùng phục lẫn nhau như Công Giáo mà nhấn mạnh
tới liên hệ cầm đầu (nam) và phục tùng (nữ).
Do Thái
Giáo thì sao? Xem ra cũng không khác gì. Thánh Kinh của họ vốn ghi rõ ở Sáng Thế
Ký 3:16: “Ngươi [người đàn bà] sẽ thèm muốn chồng ngươi và nó sẽ thống trị
ngươi”.
Tuy nhiên,
có người (xem The Role of Women, tại mechon-namre.org) cho rằng vai trò của người
đàn bà trong Do Thái Giáo truyền thống đã bị giải thích và hiểu lầm một cách
thô thiển. Thực ra vị trí của người đàn bà không thấp hèn như nhiều người hiện
đại vốn nghĩ. Thực vậy, địa vị người đàn bà trong halakhah (Luật Do Thái) đã có
từ thời Thánh Kinh tốt hơn địa vị của người đàn bà trong luật dân sự Hoa Kỳ của
thế kỷ trước. Nhiều lãnh tụ quan trọng của phong trào nữ quyền thế kỷ 20 như
Gloria Steinem và Betty Friedan là phụ nữ Do Thái.
Trong Do
Thái Giáo truyền thống, đàn bà phần lớn được coi là tách biệt nhưng bình đẳng.
Các nghĩa vụ và trách nhiệm của họ khác với đàn ông, nhưng không kém quan trọng.
Thực vậy, sự
bình đẳng giữa đàn ông và đàn bà có nguồn gốc tối cao là chính Thiên Chúa. Người
Do Thái luôn coi Thiên Chúa có cả các phẩm tính nam và phẩm tính nữ. Gọi Người
theo giống đực chỉ là để thuận tiện, vì tiếng Hípri vốn không có hạn từ trung
tín. Thiên Chúa không thuộc giống đực hơn chiếc bàn chiếc ghế.
Phần lớn
các học giả Do Thái cho rằng theo Sáng Thế 1:27, Thiên Chúa dựng nên “con người”
với phái tính đôi, sau đó, mới tách thành nam và nữ.
Người đàn
bà, trong Do Thái Giáo truyền thống, có khi còn được coi là trổi vượt hơn đàn
ông, như được phú bẩm nhiều “binah”, tức trực giác, hiểu biết, trí hiểu, hơn
đàn ông, vì các rabbi cho rằng họ được “xây thành” (St 2:22) chứ không “nặn ra”
(st 2:7) như đàn ông. Mà gốc của chữ xây, trong tiếng Hípri có cùng các phụ âm
như chữ “binah”. Họ cũng cho rằng các tổ mẫu Xara, Rêbécca, Raken và Lêa có khả
năng nói tiên tri cao hơn các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp. Phụ nữ không thờ
Bò Vàng và gần gũi lý tưởng của Thiên Chúa hơn đàn ông.
Họ cũng chiếm
giữ nhiều chức vụ đáng kính trong Do Thái Giáo từ thời Thánh Kinh: Miriam được
coi là một trong các nhà giải phóng của Con Cái Israel, cùng với các anh trai
mình là Môsen và Aaron. Một trong các Phán Quan là phụ nữ (Đêbôra). Bẩy trong
55 tiên tri trong Thánh Kinh là đàn bà.
Mười Điều
Răn nhắc đến cả cha lẫn mẹ. Tuy người cha được nhắc đến trước trong Xh 20:12,
nhưng mẹ đã được nhắc đến trước trong Lv 19:3. Nhiều nguồn truyền thống coi việc
đảo ngược này nhằm nhấn mạnh rằng cả hai cha mẹ đều được tôn kính bằng nhau.
Tất nhiên
có nhiều xem xét tiêu cực về phụ nữ, nhất là trong văn chương Talmud. Đàn ông
được khuyên không nên kết giao với phụ nữ. Nhưng việc này liên quan đến tính
“dê” của đàn ông nhiều hơn, chứ không phải vì phụ nữ xấu xa. Phụ nữ được khuyên
không nên theo đuổi việc học cao đẳng hay các chức vụ tôn giáo, nhưng việc này
chỉ là để họ không sao lãng các bổn phận hàng đầu của họ là làm vợ và làm mẹ.
Các rabbi không sợ đàn bà ít tâm linh, họ chỉ sợ đàn bà quá tâm linh mà thôi.
Trong Do
Thái Giáo truyền thống, quyền lợi phụ nữ cao hơn phụ nữ Tây Phương ít nhất cho
tới thế kỷ 20: họ được quyền mua, bán và sở hữu tài sản, ký khế ước riêng.
Đã đành,
vai trò hàng đầu của họ là làm vợ và làm mẹ, nhưng Do Thái Giáo truyền thống
coi rất trọng các vai trò này và ảnh hưởng tâm linh của chúng đối với gia đình
họ: người đàn ông đạo đức mà lấy phải người đàn bà xấu xa, anh ta sẽ trở thành
kẻ xấu xa; trái lại, người đàn ông xấu xa lấy được người đàn bà đạo đức, anh ta
sẽ trở thành người đạo đức. Đứa con của một phụ nữ Do Thái Giáo và một người
đàn ông ngoại giáo là người Do Thái Giáo vì ảnh hưởng tâm linh của người mẹ; đứa
con của một người đàn ông Do Thái Giáo và một người đàn bà ngoại giáo không phải
là người Do Thái Giáo. Phụ nữ được miễn các giới luật (mitzvoth) tích cực
[“ngươi hãy”] phải thực hiện trong những thời khắc nhất định vì bổn phận làm mẹ
và làm vợ của họ quan trọng hơn.
Phần lớn
các hiểu lầm về vai trò của phụ nữ phát sinh từ phạm vi trên, coi chúng như các
ngăn cấm. Thực ra, tuy không buộc phải thực hiện các mitzvot trên, họ vẫn có thể
thực hiện nếu họ muốn. Thứ hai, vì việc miễn chước trên có liên quan đến hội đường,
nên nhiều người cho rằng phụ nữ không có vai trò gì trong sinh hoạt tôn giáo của
Do Thái Giáo. Thực ra không hẳn thế, vì sinh hoạt tôn giáo của Do Thái Giáo
không xoay quanh hội đường mà là xoay quanh gia đình, nơi vai trò của đàn bà
không kém quan trọng như đàn ông.
Thực vậy, ở
đấy, có ba mitzvot được dành cho phụ nữ đó là nerot (đốt nến để khởi đầu ngày
Sabát), challah (tách riêng một phần bột đã nhào) và niddah (nằm riêng khi có
kinh).
Tiện đây,
cũng nên hiểu bản chất của mitzvot trong Do Thái Giáo và sự tách biệt đàn ông
đàn bà. Do Thái Giáo vốn cho rằng bản chất con người là nổi loạn chống lại uy
quyền; nên ai làm một điều gì đó vì được truyền lệnh phải làm thì được coi có
công trạng nhiều hơn người làm điều gì đó vì tự quyết định làm. Hơn nữa,
motzvot vốn được coi là một đặc ân ban cho dân Israel, nên càng nhiều mitzvot để
buộc phải tuân giữ, ta càng có nhiều đặc ân hơn.
Vì đàn bà
không buộc phải thi hành một số mitzvot, nên việc giữ các mitzvot này không
tính vào công trạng của họ. Và vì họ bị đòi hỏi thi hành ít motzvot hơn đàn
ông, nên đàn bà được coi là ít công trạng hơn đàn ông. Chính trong bối cảnh
này, mà người đàn ông ca ngợi Thiên Chúa vì “đã không tạo nên con làm đàn bà”.
Lời cầu nguyện này không hề hàm ý làm đàn bà là điều tồi tệ, mà chỉ có nghĩa
làm đàn ông “diễm phúc” hơn vì nhiều nghĩa vụ hơn.
Còn về việc
đàn ông đàn bà cầu nguyện ở các nơi khác nhau, và nếu cùng một nơi thì phải
cách nhau tấm màn mechitzah, thì có hai lý do: thứ nhất, để khi cầu nguyện, mấy
ông khỏi chia trí về mấy cô gái đẹp; thứ hai để tránh hoạt động tính dục hay
làm tình hội đồng (orgies) trong lúc thờ phượng như thói quen của các tôn giáo
ngoại đạo cùng thời với Do Thái Giáo. Tóm lại là vì “yếu điểm” của đàn ông. Hơn
nữa, nên nhớ sinh hoạt tôn giáo, đối với Do Thái Giáo không chỉ diễn ra nơi hội
đường, mà thẩm thấu mọi khía cạnh của đời sống, mọi điều bạn làm, từ lúc thức dậy
vào buổi sáng tới lúc bạn vào giường, từ những gì bạn ăn đến quần áo bạn mặc và
công việc làm ăn bạn quản trị.
Thực ra, Do
Thái Giáo không đơn giản chỉ có hình thức cổ truyền mà nhiều hình thức đã xuất
hiện. Chính vì thế, có khá nhiều lập trường về liên hệ nam nữ.
Theo trang
mạng mishpacha.org, không phạm vi nào trong đời sống Do Thái đã trải qua một biến
đổi triệt để như phạm vi các vai trò phái tính. Nó đã trở thành chất nam châm
thu hút một cuộc tranh luận nẩy lửa và những chia rẽ sâu xa nhất trong thế giới
Do Thái Giáo.
Chủ trương
của Do Thái Giáo cổ truyền đã được trình bầy ở trên. Qua thời cận đại, càng
ngày biên giới phân biệt nam nữ, kể cả trong phụng vụ, càng mờ nhạt đi. Hiện
nay, nhiều phụ nữ tiến vào cả lãnh vực nghiên cứu Torah, vốn dành cho nam giới
trước đây, nhiều người trở thành học giả về Torah. Năm 1983, Phong Trào Bảo Thủ
còn tấn phong phụ nữ làm rabbi. Do Thái Giáo Cải Cách thiết lập nguyên tắc
trung tính về phái tính (gender neutrality) cả mấy thập niên trước Phong Trào Bảo
Thủ. Họ phong rabbi cho phụ nữ từ năm 1972 và các buổi thờ phượng bình đẳng đã
diễn ra nhiều năm trước đó.
Về tương
quan nam nữ, theo Rebbetzin Tziporah Heller, truyền thống truyền khẩu Do Thái
cho rằng: Thiên Chúa khởi đầu dựng nên một con người đầy đủ có cả nam lẫn nữ. Rồi
Người thấy điều ấy không tốt, vì nếu như thế, anh ta sẽ có ảo tưởng tự mãn về
chính mình. Một tự mãn như thế mâu thuẫn với ý niệm Thiên Chúa là nguồn của mọi
sự. Nên Thiên Chúa đã tách con người thành hai người riêng rẽ để tạo ra một
tình huống lành mạnh gồm cả lệ thuộc, khát mong và hiến tặng hỗ tương. Người
không muốn để các con người nhân bản hiện hữu một mình vì như thế, họ không có
ai để cho đi, không có ai để lớn lên với, và không có gì để cố gắng đạt tới.
Nhưng nếu
thế, chỉ cần hai con người giống hệt như nhau là được rồi, đâu cần phải khác
nhau thành nam nữ? Câu trả lời là: để tối đa hóa việc cho đi, người nhận phải
khác với người cho. Nếu là hai người hoàn toàn như nhau, việc cho đi vẫn có thể
diễn ra, nhưng một cách giới hạn. Người cho đi dựa vào chính nhu cầu của mình,
vì người nhận cũng có cùng những nhu cầu y hệt. Muốn thực sự là một người cho
đi, người này phải tính đến nhu cầu của người nhận chứ không chỉ là điều người
cho muốn. Khi cho một người có các nhu cầu khác với mình, người ta được huấn
luyện phải nghĩ và cho trên những điều kiện khác với của riêng mình.
Thành thử
tách biệt thành hai con người khác nhau là để ta biết cách đánh giá, yêu
thương, cho đi, và chăm sóc những người không như ta.
Trong Hội
Thoại Humanum, cựu Đại Giáo Trưởng Do Thái Giáo của nước Anh, Ngài Jonathan
Sacks, đã nhấn mạnh tới sự bổ túc này, chứ không nhấn mạnh tới những điểm khác
nhau; lưu ý tới hợp tác, không lưu ý tới cầm đầu, phục tùng. Với bài diễn văn
duyệt lại việc phát triển của hôn nhân qua 7 câu truyện bắt đầu với hành vi
tính dục của loài cá ở Tô Cách Lan cho tới hành vi tính dục của con người thời
nay, cựu Đại Giáo Trưởng đã được toàn thể Hội Thoại hoan hô vang dậy.
Sau đây,
chúng tôi xin giới thiệu bài diễn văn của Ngài Sacks tại Hội Thoại Humanum.
Buổi sáng
nay, tôi muốn bắt đầu cuộc đàm đạo của chúng ta bằng cách kể truyện về ý niệm đẹp
đẽ nhất trong lịch sử văn minh: đó là ý niệm yêu thương đem sự sống mới vào trần
gian. Dĩ nhiên, có nhiều cách để kể câu truyện này, và đây chỉ là một trong những
cách ấy. Nhưng đối với tôi, đây là một câu truyện của bẩy khoảnh khắc chủ yếu,
mỗi một khoảnh khắc đều khiến ta ngạc nhiên và bất ngờ.
Khoảnh khắc
thứ nhất, theo một tường trình báo chí ngày 20 tháng Mười năm 2014, diễn ra tại
một chiếc hồ ở Tô Cách Lan cách nay 385 triệu năm. Theo một phát giác mới, lúc
đó có hai con cá đến với nhau để thực hiện điển hình đầu tiên của việc sinh sản
bằng tính dục mà khoa học biết được. Cho đến lúc đó, sự sống được lưu truyền một
cách phi tính dục, bằng việc phân chia tế bào, đâm chồi nẩy lộc (budding), phân
cắt (fragmentation) hay trinh sinh (parthenogenesis), tất cả đều đơn giản hơn rất
nhiều và đỡ “tốn phí” hơn là việc phân chia sự sống thành đực và cái, mỗi phái
có vai trò khác nhau trong việc tạo ra sự sống và duy trì sự sống.
Khi ta xét
đến việc ngay trong thế giới động vật, bao nhiêu cố gắng và bao nhiêu năng lực
mà việc đến với nhau của đực và cái đã phải trải qua, trong việc trình diễn,
tán tỉnh, đua tranh và đánh nhau, hẳn ta phải thắc mắc tại sao lại để cho việc
sinh sản bằng tính dục xẩy ra làm chi. Các nhà sinh vật học cho đến nay vẫn
không biết chắc tại sao nó đã xẩy ra. Một số người nói rằng để bảo vệ chống lại
các loài ký sinh hay để miễn dịch chống lại bệnh tật. Nhiều người lại cho rằng
chỉ là vì cuộc gặp gỡ giữa hai thể đối nghịch sẽ sản sinh ra tính đa dạng. Bất
chấp cách này hay cách kia, cá ở Tô Cách Lan đã khám phá được một điều mới mẻ
và đẹp đẽ sẽ mãi mãi được mô phỏng sau đó bởi gần như mọi hình thức tiến bộ của
sự sống. Sự sống bắt đầu khi đực và cái gặp nhau và ôm lấy nhau.
Khoảnh khắc
bất ngờ thứ hai là thách thức độc đáo đặt ra cho homo sapiens do hai nhân tố:
chúng ta đứng thẳng làm hẹp khung chậu (pelvis) nữ, và chúng ta có một bộ óc lớn
hơn, gia tăng tới 300 phần trăm, nghĩa là có một chiếc đầu to hơn. Kết quả: bé
thơ của con người phải sinh ra sớm hơn các chủng loại khác, và do đó, cần sự
che chở của cha mẹ lâu hơn. Điều này khiến việc làm cha mẹ của con người trở
thành đòi hỏi khắt khe hơn bất cứ chủng loại nào khác, và phải là công việc của
hai con người hơn là một. Do đó, việc kết cặp của con người là một hiện tượng hết
sức hiếm hoi trong các loài có vú, không giống các chủng loại khác nơi phần
đóng góp của con đực thường chấm dứt với việc thụ tinh. Nơi những động vật linh
trưởng (primate) nhất, các người cha còn không thèm nhìn nhận con cái mình, nói
chi tới việc chăm sóc chúng. Ở nơi khác trong thế giới động vật, bổn phận làm mẹ
thì hầu như phổ quát nhưng bổn phận làm cha là thứ họa hiếm.
Thành thử
điều xẩy ra cho con người nhân bản là việc kết hợp của người cha và người mẹ
sinh học để chăm sóc con cái họ. Bởi thế diễn trình là: khởi đầu với thiên
nhiên, sau đó là văn hóa và thứ ba là ngạc nhiên.
Nơi những
người hái lượm săn bắn, việc cặp đôi là một chuẩn mực. Rồi tới nghề nông, thặng
dư kinh tế, các đô thị và văn minh, và lần đầu tiên, bắt đầu xuất hiện các bất
quân bình rõ rệt giữa người giầu và người nghèo, kẻ quyền thế và người vô quyền.
Các ngôi đền (ziggurat) vĩ đại của Mesopotamia và các kim tự tháp của cổ Ai Cập,
với cái nền rộng và đỉnh hẹp của chúng, là những lời tuyên bố hùng vĩ bằng đá
cho thấy một xã hội phẩm trật trong đó thiểu số có quyền trên đa số. Và biểu thức
quyền lực hiển nhiên nhất của phái nam tiên khởi, bất luận là người hay linh
trưởng, là thống lãnh được quyền chiếm hữu những đối tượng nữ nhiều khả năng
sinh đẻ và do đó, tối đa hóa được khả năng lưu truyền các gien của mình cho thế
hệ kế tiếp. Bởi đó, mà có chế độ đa thê, một chế độ hiện hữu ở 95 phần trăm các
loài có vú và 75 phần trăm các nền văn hóa được khoa nhân chủng học biết đến.
Chế độ đa thê là biểu thức tối hậu của bất bình đẳng vì nó có nghĩa: nhiều nam
nhân không bao giờ có cơ hội có vợ và có con. Và suốt trong lịch sử, ghanh tị
tính dục là động lực đệ nhất dẫn tới bạo lực, cả nơi động vật lẫn nơi con người.
Điều trên
khiến cho chương đầu của Sách Sáng Thế có tính cách mạng trong các tuyên bố của
nó đến độ coi mọi con người nhân bản, bất kể giai cấp, mầu da, văn hóa hay tín
ngưỡng, đều là hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa. Chúng ta biết rằng trong thế
giới cổ thời, chỉ có các nhà cai trị, các vua, hoàng đế và pharaô mới được coi
giống hình ảnh Thiên Chúa. Thành thử điều Sách Sáng Thế muốn nói là: tất cả
chúng ta đều là vua chúa. Mỗi người chúng ta đều có phẩm giá bằng nhau trong
vương quốc đức tin dưới quyền tối thượng của Thiên Chúa.
Từ đó, có
thể nói mỗi người chúng ta đều có quyền ngang nhau để kết hôn và có con cái;
đây là lý do tại sao, bất kể chúng ta đọc câu truyện Ađam và Evà ra sao, và quả
có những dị biệt trong cách đọc của Do Thái Giáo và của Kitô Giáo, qui phạm mà
câu truyện này giả thiết là: một người đàn bà, một người đàn ông. Hay như chính
Thánh Kinh quả quyết “Đó là lý do tại sao người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mình
và kết hợp với vợ mình, và họ trở nên một thân xác”.
Đơn hôn
không lập tức trở thành quy phạm, kể cả trong thế giới Thánh Kinh. Nhưng nhiều
câu truyện thời danh nhất của nó, về sự căng thẳng giữa Xara và Haga, hay giữa
Lêa và Raken và con cái họ, hay giữa Đavít và Bétxêba, hay các bà vợ vô số của
Salômôn, tất cả đều là những phê phán dẫn đường tới đơn hôn.
Và có một nối
kết sâu sắc giữa độc thần và đơn hôn, cũng như từ phía ngược lại, giữa việc thờ
ngẫu thần và ngoại tình. Độc thần và đơn hôn nói về mối liên hệ bao quát giữa
Tôi và Ngài, giữa bản thân tôi và một người khác, bất luận người khác này là
người phàm hay thần thiêng.
Điều làm
cho việc xuất hiện chế độ đơn hôn khác thường là các giá trị của xã hội thường
được giai cấp thống trị áp đặt. Mà giai cấp thống trị, trong bất cứ xã hội phẩm
trật nào, thường được hưởng lợi nhiều hơn nhờ việc được lang chạ và đa hôn, cả
hai đều có tính nhân thừa cơ may các gien của họ được lưu truyền cho thế hệ kế
tiếp. Với đơn hôn, người giầu và người quyền thế mất mát còn người nghèo và người
vô quyền thì được lợi. Bởi thế, việc trở về với chế độ đơn hôn đánh đổ các lợi
điểm thông thường của thay đổi xã hội và là một chiến thắng thực chất cho phẩm
gia bình đẳng của mọi người. Mọi cô dâu và mọi chú rể đều là vương giả; mọi gia
hộ đều là một cung điện khi được trang hoàng bằng tình yêu.
Khoảnh khắc
phát triển đáng kể thứ tư là cung cách điều trên biến đổi đời sống luân lý.
Chúng ta đã trở nên quen thuộc với việc các nhà sinh học biến hóa sử dụng các
mô hình vi tính (computer simulations) và thế lưỡng nan của các tù nhân bị ở tù
liên tiếp để giải thích lý do tại sao lòng vị tha hỗ tương lại hiện hữu nơi tất
cả các động vật có tính xã hội. Chúng ta hành xử với người khác theo cách chúng
ta muốn họ hành xử với chúng ta, và chúng ta đáp trả họ theo cách họ đáp trả
chúng ta. Như C S Lewis từng nhấn mạnh trong cuốn The Abolition of Man của ông
ta, tính hỗ tương là Luật Vàng chung của mọi nền văn minh.
Điều mới mẻ
và đáng lưu ý trong Thánh Kinh Do Thái là ý niệm cho rằng tình yêu, chứ không
phải sự hợp tình hợp lý (fairness), là nguyên tắc điều hướng của đời sống luân
lý. Có ba tình yêu. “Người hãy yêu Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết linh hồn
và hết sức ngươi”. “Ngươi hãy yêu người lân cận ngươi như chính ngươi”. Và,
trong các sách Môsen, được lặp đi lặp lại không ít hơn 36 lần là câu sau “Ngươi
hãy yêu người khách lạ vì ngươi biết làm khách lạ là như thế nào rồi”. Hay nói
cách khác: Thiên Chúa đã dựng nên thế giới tự nhiên trong yêu thương và tha thứ
thế nào, thì chúng ta cũng có nhiệm vụ dựng nên một thế giới xã hội trong yêu
thương và tha thứ như thế. Và tình yêu này là ngọn lửa đốt lên trong hôn nhân
và gia đình. Luân lý tính là tình yêu giữa người chồng và người vợ, cha mẹ và
con cái, mở rộng ra ngoài tới thế giới.
Khoảnh khắc
phát triển thứ năm lên khuôn cho toàn bộ cấu trúc của kinh nghiệm Do Thái Giáo.
Ở Israel cổ thời, hình thức thỏa hiệp nguyên thủy có tính thế tục, tên là giao
ước, đã được sử dụng và biến đổi thành một lối suy nghĩ mới về mối tương quan
giữa Thiên Chúa và nhân loại, trong trường hợp Nôê, và giữa Thiên Chúa và một
dân tộc trong trường hợp Ápraham và sau đó người Do Thái trên núi Sinai. Giao ước
giống một cuộc hôn nhân. Nó là lời đoan hứa hỗ tương sẽ trung thành và tín thác
giữa hai con người hay nhiều hơn, mỗi người sẽ kính trọng phẩm giá và sự toàn vẹn
của người kia, cùng làm việc với nhau để cùng đạt với nhau điều mà họ không thể
đạt được một mình. Và có một điều mà cả Thiên Chúa cũng không thể đạt được một
mình, một điều phải được sống bên trong trái tim con người. Điều này cần tới
chúng ta.
Bởi thế, chữ
Hípri emunah, vốn được dịch sai là đức tin, thực sự có nghĩa lòng tín trung
(faithfulness), trung thành, trung nghĩa, lòng kiên định, không bỏ đi dù gặp
lúc đường đi gian khổ, tin tưởng vào người kia và tôn kính niềm tín thác của họ
nơi ta. Điều giao ước đã làm, và ta thấy điều này nơi hầu hết các tiên tri, là
hiểu mối tương quan giữa ta và Thiên Chúa theo ngôn từ của mối tương quan giữa
cô dâu và chàng rể, giữa vợ và chồng. Như thế, tình yêu không những là căn bản
của luân lý mà của cả thần học nữa. Trong Do Thái Giáo, đức tin là một cuộc hôn
nhân. Không ở đâu nói như thế một cách đẹp đẽ bằng Hôsê khi ngài nhân danh
Thiên Chúa nói rằng:
“Ta sẽ đính
ước ngươi với ta mãi mãi;
Ta sẽ đính
ước ngươi trong chính trực và công lý, trong yêu thương và cảm thương.
Ta sẽ đính
ước ngươi trong trung tín, và ngươi sẽ biết Chúa”.
Người đàn
ông Do Thái đọc các lời trên mọi buổi sáng ngày thường trong tuần khi chúng tôi
cuộn giải tefillin (đựng các cuộn Thánh Kinh) quanh ngón tay của chúng tôi
thành như một nhẫn cưới. Mỗi buổi sáng, chúng tôi lặp lại cuộc hôn nhân của
chúng tôi với Thiên Chúa.
Điều trên dẫn
tới ý niệm thứ sáu và khá tinh tế là: chân, thiện, mỹ, và cả sự sống nữa, không
hiện hữu nơi bất cứ con người hay thực thể nào mà là hiện hữu “ở giữa” (in
between) điều mà Martin Buber gọi là Das Zwischenmenschliche, tức đối âm (counterpoint)
liên ngã của nói và nghe, của cho và nhận. Suốt trong Thánh Kinh Do Thái và văn
chương rabbi, chiếc xe chuyên chở sự thật là đàm đạo. Trong mạc khải, Thiên
Chúa nói và yêu cầu ta lắng nghe. Trong cầu nguyện, ta nói và xin Thiên Chúa lắng
nghe. Không bao giờ có cảnh chỉ nói một mình. Trong Thánh Kinh, các tiên tri lý
luận với Thiên Chúa. Trong Talmud, các rabbi lý luận với nhau. Thực vậy, đôi
khi tôi nghĩ rằng sở dĩ Thiên Chúa chọn dân Do Thái là vì Người thích một cuộc
lý luận tốt. Do Thái Giáo là một cuộc đàm đạo ghi lại nhiều giọng nói, nhưng
không đâu say mê hơn trong Diễm Ca, một bản tấu ca (duet) giữa một người đàn bà
và một người đàn ông, giữa người được yêu và người yêu nàng, một bản tấu ca được
Rabbi Akiva gọi là thánh thiêng của các thánh thiêng trong nền văn chương tôn
giáo.
Tiên tri
Malaki gọi tư tế nam là người canh giữ luật sự thật. Sách Cách Ngôn nói về người
đàn bà tiết hạnh rằng “luật nhân ái yêu thương ở trên môi miệng nàng”. Chính cuộc
đàm đạo giữa các giọng nói nam và nữ, giữa sự thật và tình yêu, giữa công lý và
thương xót, giữa lề luật và tha thứ, đã lên khuôn cho đời sống tâm linh. Thời
Thánh Kinh, mỗi người Do Thái phải dâng nửa đồng shekel vào Đền Thờ để nhắc
chúng ta nhớ: mình chỉ là một nửa.
Có những nền
văn hóa dạy rằng ta không là gì cả. Lại có những nền văn hóa khác dạy rằng
chúng ta là tất cả. Quan điểm của người Do Thái là: chúng ta là một nửa và
chúng ta cần mở lòng ra đón nhận một ái đó, nếu chúng ta muốn trở thành toàn vẹn.
Tất cả các
điều trên dẫn ta tới khoảnh khắc thứ bẩy: trong Do Thái Giáo, gia hộ và gia
đình trở thành khung cảnh trung tâm cho đời sống đức tin. Trong một câu duy nhất
của Thánh Kinh Do Thái để giải thích tại sao Thiên Chúa chọn Ápraham, Người
nói: “Ta biết hắn để hắn dạy dỗ con cái hắn và gia hộ hắn duy trì đường lối của
Chúa bằng cách làm những điều đúng và chân chính”. Ápraham được chọn không phải
để thống trị một đế quốc, chỉ huy một quân đội, thực hiện các phép lạ hay đưa
ra các lời tiên tri, mà chỉ để làm bậc cha mẹ. Ở một trong các câu thời danh nhất
của Do Thái Giáo, Môsen truyền rằng “Các ngươi sẽ dạy những điều này cho con
các ngươi một cách liên tục, nói với chúng khi chúng ngồi trong nhà các ngươi
hay khi các ngươi đi đường, khi các ngươi đang nằm và khi các ngươi trỗi dậy”.
Cha mẹ là các nhà giáo dục, giáo dục là cuộc đàm đạo giữa các thế hệ, và trường
học đầu tiên là gia đình.
Như thế,
người Do Thái trở thành một dân tộc có xu hướng gia đình một cách thâm hậu, vì
chính điều này đã cứu chúng tôi khỏi thảm họa. Sau khi Đền Thờ Thứ Hai bị phá hủy
vào năm 70, người Do Thái đã phải tản mác khắp thế giới, ở đâu cũng là thiểu số,
ở đâu cũng không có quyền lợi, chịu một số cuộc bách hại tồi tệ nhất chưa từng
dân tộc nào phải chịu xưa nay; ấy thế nhưng họ đã sống thoát vì họ không bao giờ
đánh mất ba điều: cảm thức gia đình, cảm thức cộng đồng và đức tin.
Và họ được
đổi mới mỗi tuần nhất là vào ngày Sa bát, ngày nghỉ ngơi khi chúng tôi dành cho
hôn nhân và gia đình điều chúng cần hơn cả và đói khát hơn cả trong thế giới hiện
nay, tức thì giờ. Có lần, tôi đã sản xuất một cuốn phim tài liệu cho BBC về trạng
thái gia đình ở Anh, và tôi đem người lúc đó là chuyên gia hàng đầu của Anh Quốc
về chăm sóc trẻ em, Penelope Leach, tới một trường tiểu học Do Thái vào một
sáng thứ Sáu.
Tại đó, cô
thấy các trẻ em diễn trước điều các em sẽ thấy vào buổi tối hôm đó quanh chiếc
bàn ăn của gia đình. Có các em năm tuổi đóng vai bà mẹ và ông bố già chúc lành
cho các em năm tuổi đóng vai con cái, trong khi các em năm tuổi đóng vai ông bà
trọng tuổi đứng coi. Cô bị thôi miên bởi toàn bộ định chế này, và cô hỏi xem
các em thích nhất điều gì của ngày Sabát. Một bé trai 5 tuổi quay qua cô và
thưa: “đây là đêm duy nhất trong tuần bố em không phải vội vã”. Khi việc quay
phim đã hoàn tất, lúc cuốc bộ ra khỏi ngôi trường, cô quay qua tôi và nói:
“thưa đại giáo trưởng, ngày Sabát của ngài đã cứu được cuộc hôn nhân của cha mẹ
các em”.
Đó là một
trong những cách kể truyện, cách của người Do Thái, bắt đầu với sự ra đời của
việc sinh sản nhờ tính dục, sau đó, là các đòi hỏi độc đáo của việc làm cha mẹ,
rồi cuộc chiến thắng sau cùng của đơn hôn như lời tuyên bố nền tảng về bình đẳng,
tiếp theo là cách hôn nhân lên khuôn viễn kiến của ta về đời sống luân lý và
tôn giáo đặt căn bản trên tình yêu, giao ước và lòng trung tín, thậm chí tiến đến
chỗ coi sự thật như một cuộc đàm đạo giữa người yêu và người được yêu. Hôn nhân
và gia đình là nơi đức tin tìm được mái ấm của nó và là nơi Thánh Nhan Thiên
Chúa sống trong tình yêu giữa người chồng và người vợ, giữa cha mẹ và con cái.
Như vậy thì
điều gì đã thay đổi? Sau đây là một cách diễn tả. Cách đây ít năm, tôi có viết
một cuốn sách về tôn giáo và khoa học và tôi tóm tắt sự khác nhau giữa chúng với
nhau bằng hai câu văn. “Khoa học tách rời sự vật ra để xem chúng hành động ra
sao. Tôn giáo thì đặt sự vật lại với nhau để xem chúng có ý nghĩa gì”. Và đó
cũng là cách suy nghĩ về văn hóa. Văn hóa đem các sự vật lại với nhau hay tách
rời chúng ra với nhau?
Vì hàng loạt
các lý do khác nhau, một số liên quan tới các phát triển y khoa như kiểm soát
sinh sản, thụ thai trong ống nghiệm và nhiều can thiệp khác về di truyền học, một
số liên quan tới sự thay đổi luân lý như ý niệm cho rằng ta được tự do làm bất
cứ điều gì ta thích miễn là đừng gây hại tới người khác, một số liên quan tới
việc chuyển giao trách nhiệm từ các cá nhân sang nhà nước, và các thay đổi khác
và sâu xa hơn trong nền văn hóa Tây Phương, gần như mọi sự trước đây được hôn
nhân đem lại với nhau, nay đã được tách rời khỏi nhau. Tình dục tách rời khỏi
tình yêu, tình yêu tách rời khỏi cam kết, hôn nhân tách rời khỏi việc có con
cái, và việc có con cái tách rời khỏi trách nhiệm chăm sóc chúng.
Kết quả là ở
nước Anh năm 2012, 47.5 phần trăm trẻ em sinh ngoại hôn, có cơ trở thành đa số
vào năm 2016. Số người kết hôn ít hơn và 42 phần trăm các cuộc hôn nhân kết liễu
bằng ly dị. mà việc sống chung cũng không thay thế cho hôn nhân. Trung bình, thời
gian sống chung ở Hoa Kỳ và Anh Quốc dưới 2 năm. Kết quả là việc gia tăng rõ rệt
nơi người trẻ các xáo trộn về ăn uống, ghiền ma túy và rượu mạnh, các hội chứng
liên quan tới căng thẳng, trầm cảm và mưu toan tự tử cũng như tự tử thật. Việc
đổ vỡ hôn nhân đã tạo ra một hình thức nghèo nàn mới tập trung nơi các gia đình
có cha hoặc mẹ đơn lẻ, và trong số các gia đình này, gánh nặng chính rơi xuống
vai phụ nữ; năm 2011, họ đứng đầu 92 phần trăm các căn hộ cha hoặc mẹ đơn lẻ.
Ngày nay ở Anh, hơn một triệu trẻ em lớn lên không hề được tiếp xúc bất cứ cách
nào với người cha của các em.
Điều trên
đang tạo ra một phân cách trong lòng các xã hội và sự phân cách này chưa hề được
thấy kể từ ngày Disraeli nói tới “hai quốc gia” cách nay một thế kỷ rưỡi. Những
trẻ em nào được diễm phúc lớn lên trong mối liên kết yêu thương bền vững với
hai con người từng đem các em vào đời, tính trung bình, sẽ khỏe mạnh hơn về thể
lý và xúc cảm. Các em sẽ thành công hơn ở trường và nơi làm việc. Các em sẽ có
nhiều mối liên hệ thành công hơn, hạnh phúc hơn và sống lâu hơn.
Và dĩ
nhiên, có những ngoại lệ… Tuần này, ở Anh, một cuốn phim mới đã được trình chiếu,
kể lại câu truyện về một trong những đầu óc vĩ đại nhất của thế kỷ 20, đó là
Alan Turing, nhà toán học của Cambridge, người từng đặt nền tảng triết lý cho
ngành vi tính và trí khôn nhân tạo, và giúp thắng cuộc chiến tranh bằng cách
phá được Enigma, tức mật mã của hải quân Đức. Sau chiến tranh, Turing bị bắt và
bị đưa ra tòa vì tác phong đồng tính luyến ái, bị thiến bằng hóa chất, và chết
lúc 41 tuổi do độc tố cyanide, được nhiều người cho là tự tử. Đây là một thế giới
mà chúng ta không nên bao giờ trở lại.
Nhưng lòng
cảm thương của chúng ta đối với những người quyết định sống cách khác không nên
ngăn cản chúng ta trở thành những người cổ xúy cho định chế duy nhất có tính
nhân bản hóa hơn cả trong lịch sử. Gia đình, đàn ông, đàn bà, và đứa con, không
phải là một chọn lựa lối sống trong nhiều chọn lựa khác. Nó là phương thế tốt
nhất chúng ta từng khám phá ra để dưỡng dục các thế hệ tương lai và giúp trẻ em
lớn lên trong một khuôn khổ ổn định và yêu thương. Chính ở đây chúng ta học được
nghệ thuật tinh tế của khoa biên đạo múa liên hệ choreography of relationship)
và cách xử lý các tranh chấp không thể không có bên trong bất cứ nhóm nhân bản
nào. Chính ở đây, lần đầu tiên, chúng ta dám liều cho và nhận yêu thương. Chính
ở đây, thế hệ này chuyển giao các giá trị của mình cho thế hệ kế tiếp, bảo đảm
tính liên tục của văn minh. Đối với bất cứ xã hội nào, gia đình cũng là điều chủ
yếu cho tương lai của nó, và vì tương lai con cái, chúng ta phải là người bảo vệ
nó.
Vì đây là một
cuộc tụ tập tôn giáo, nên xin cho phép tôi được kết thúc bằng một mẩu giải
thích Thánh Kinh. Câu truyện của gia đình đầu tiên, của người đàn ông và người
đàn bà đầu tiên trong vườn Địa Đàng, nói chung, không được coi là thành công. Bất
kể chúng ta có tin tội nguyên tổ hay không, nó vẫn không kết thúc tốt đẹp. Sau
nhiều năm nghiên cứu bản văn, tôi muốn đề nghị một cách đọc khác.
Câu truyện
kết thúc với ba câu xem ra không hề nối kết với nhau. Chẳng dây mơ rễ má. Chẳng
luận lý học chút nào. Trong Sáng Thế 3:19, Thiên Chúa nói với người đàn ông: “ngươi
phải đổ mồ hôi trán mới có miếng ăn cho tới ngày ngươi trở về lòng đất, vì từ đất,
ngươi đã được lấy ra; ngươi hiện hữu từ bụi đất thì ngươi sẽ trở về với bụi đất”.
Rồi trong câu tiếp theo, ta đọc thấy “con người gọi vợ mình là Evà, vì nàng là
mẹ mọi sự sống”. Và trong câu kế tiếp “Chúa là Thiên Chúa làm quần áo da cho
Ađam và vợ ông và mặc cho họ”.
Thử hỏi mối
liên kết giữa ba câu trên ra sao? Tại sao việc Thiên Chúa bảo người đàn ông rằng
ông là một kẻ tử sinh lại dẫn ông tới việc cho vợ mình một cái tên mới? Và tại
sao hành vi này xem ra đã thay đổi thái độ của Thiên Chúa đối với cả hai người,
đến độ, Người làm một hành vi đầy nhân ái, là làm quần áo cho họ, gần như thể
Người đã tha thứ cho họ một phần? Tôi cũng xin nói thêm: chữ “da” trong tiếng
Hípri gần như không thể phân biệt được với chữ “ánh sáng”, đến nỗi Rabbi Meir,
nhà hiền triết vĩ đại của đầu thế kỷ thứ hai, đã đọc bản văn như sau: Thiên
Chúa làm cho họ “quần áo ánh sáng”. Ông muốn nói gì đây? Nếu chúng ta đọc bản
văn một cách cẩn thận, ta sẽ thấy: cho tới lúc này, người đàn ông đầu tiên chỉ
cho vợ mình một cái tên hoàn toàn có tính chủng loại. Ông gọi nàng là ishah,
đàn bà. Ta hãy nhớ lời ông nói khi thấy nàng lần đầu: “Đây là xương bởi xương
tôi và thịt bởi thịt tôi; nàng sẽ được gọi là đàn bà vì được lấy ra từ đàn
ông”. Với ông, nàng là một mô phỏng (type), không phải một ngôi vị. Ông cho
nàng một danh từ, không phải một cái tên. Ông định nghĩa nàng như một hữu thể
phát sinh (derivative) từ chính ông: một điều lấy ra từ ông. Với ông, nàng chưa
là một ai đó khác, tự mình là một ngôi vị. Nàng chỉ là một thứ phản chiếu của
chính ông.
Bao lâu người
đàn ông còn nghĩ mình bất tử, thì ông đâu có cần ai khác. Nhưng giờ đây, ông biết
mình là loài tử sinh. Một ngày kia, mình sẽ chết và trở về bụi đất. Chỉ còn một
cách duy nhất là một điều gì đó của chính ông phải sống tiếp sau khi ông chết.
Điều này sẽ có thể nếu ông có một đứa con. Nhưng ông làm sao tự mình có con được.
Chính vì thế, ông cần có vợ.
Chỉ nàng mới
có thể sinh con. Chỉ một mình nàng mới giảm thiểu được tính tử sinh của ông. Và
không phải vì nàng giống ông nhưng vì nàng không giống ông. Chính lúc đó, với
ông, nàng hết còn là một mô phỏng, mà đã trở thành một ngôi vị ngay trong chính
nàng. Và một ngôi vị thì phải có tên riêng. Nên ông đã cho nàng cái tên ấy, tên
Chavah, “Evà” nghĩa là “người cho sự sống”.
Chính lúc
đó, lúc họ sắp sửa rời vườn Địa Đàng để đối diện với trần gian, một nơi tối
tăm, như ta đã biết, Ađam đã cho vợ mình tặng phẩm đầu tiên của tình yêu, một
cái tên riêng.
Cũng chính
lúc đó, Thiên Chúa đáp trả cả hai trong yêu thương và làm cho họ quần áo để che
sự trần truồng của họ, hay như Rabbi Meir từng nói “quần áo ánh sáng”.
Và từ đó, sự
việc cứ thế diễn tiến: khi một người đàn ông và một người đàn bà đến với nhau
trong sợi dây trung tín, Thiên Chúa mặc cho họ quần áo ánh sáng, và chúng ta tiến
gần Thiên Chúa như chưa bao giờ tiến gần đến thế, trong việc đem sự sống mới
vào hiện hữu, biến văn suôi sinh học thành thi ca tinh thần nhân bản, cứu bóng
tối trần gian bằng sự sáng lạn của tình yêu.
Kỳ sau: Quan điểm Công Giáo về tính bổ túc nam
nữ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét