03/06/2017
Thứ Bảy đầu tháng, tuần 7
Phục Sinh
Thánh Carôlô Loan-ga và các bạn, tử đạo.
Lễ nhớ.
* Cùng với hai mươi hai vị tử đạo
U-găng-đa này, trang sử về các Chứng Nhân Tử Đạo những thế kỷ đầu lại tái diễn. Rất nhiều vị trong số đó chỉ mới là
Kitô hữu được ít lâu. Bốn vị trong số đó được cha Carôlô Loan-ga thanh tẩy ngay trước lúc hành hình. Phần lớn các vị bị thiêu sống ở Nu-mun-gun-gô (1886) thuộc lớp tuổi từ mười sáu đến hai mươi bốn. Vị trẻ nhất tên là Ki-di-tô mới có mười ba tuổi.
Bài Ðọc I: Cv 28,
16-20. 30-31
"Ngài ở lại
Rôma, rao giảng nước Thiên Chúa".
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Khi chúng tôi đến
Rôma, Phaolô được phép ở nhà riêng với người lính canh. Sau ba hôm, ngài mời
các đầu mục người Do-thái đến. Khi họ đến, ngài nói với họ: "Thưa anh em,
dầu tôi đây không làm điều gì phạm đến dân tộc hay tục lệ tổ tiên, mà tôi đã bị
bắt tại Giêrusa-lem và bị nộp trong tay người Rôma. Khi đã điều tra, họ muốn thả
tôi vì tôi không có tội gì đáng chết. Nhưng người Do-thái chống lại, nên tôi buộc
lòng phải nại đến hoàng đế, nhưng không phải là tôi có gì kiện cáo dân tôi. Do
đó tôi đã xin gặp anh em và nói chuyện: Chính vì niềm hy vọng của Israel mà tôi
phải mang xiềng xích này".
Suốt hai năm, ngài trú
tại ngôi nhà đã thuê, tiếp nhận tất cả những ai đến gặp ngài, ngài rao giảng nước
Thiên Chúa và dạy dỗ những điều về Chúa Giêsu Kitô một cách dạn dĩ, không có ai
ngăn cấm.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 10, 5. 6 và
8
Ðáp: Lạy Chúa, người chính trực sẽ nhìn thấy tôn nhan
Chúa (c. 8b).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Chúa kiểm
soát người hiền đức, kẻ ác nhân, ai chuộng điều ác, thì linh hồn Người ghét bỏ.
- Ðáp.
2) Trên lũ tội nhân
Người làm mưa than đỏ diêm sinh, và phần chén của chúng là luồng gió lửa. Bởi
Chúa công minh, nên Người thích chuyện công minh, người chính trực sẽ nhìn thấy
thiên nhan. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 16
Alleluia, alleluia! -
Thánh Thần sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì
Thầy đã nói với các con. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 21, 20-25
"Chính môn đệ
này làm chứng về những việc đó và đã viết ra".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Phêrô quay lại,
thấy môn đệ Chúa Giêsu yêu mến theo sau, cũng là người nằm sát ngực Chúa trong
bữa ăn tối và hỏi "Thưa Thầy, ai là người sẽ nộp Thầy?" Vậy khi thấy
môn đệ đó, Phêrô hỏi Chúa Giêsu rằng: "Còn người này thì sao?" Chúa
Giêsu đáp: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì
đến con? Phần con, cứ theo Thầy". Vì thế, có tiếng đồn trong anh em là môn
đệ này sẽ không chết. Nhưng Chúa Giêsu không nói với Phêrô: "Nó sẽ không
chết", mà Người chỉ nói: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi
Thầy đến thì việc gì đến con".
Chính môn đệ này làm
chứng về những việc đó và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của người ấy
xác thật. Còn nhiều việc khác Chúa Giêsu đã làm, nếu chép lại từng việc một thì
tôi thiết tưởng cả thế giới cũng không thể chứa hết các sách viết ra.
Ðó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Làm chứng tá
cho tình yêu
Hôm nay chúng ta lắng
nghe phần đoạn kết trong sách Phúc Âm của thánh Gioan tông đồ, chỉ có ba nhân vật
được kể đến trong phần cuối của Phúc Âm này là Chúa Giêsu, Phêrô và Gioan.
Qua những lời đối thoại
với Phêrô, Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng Ngài đã chọn mười hai vị tông đồ
và trao phó cho mỗi người một sứ mạng khác nhau. Phêrô và Gioan vì thế cũng có
sứ mạng khác biệt nhau. Nếu như Phêrô được chọn để chăn dắt đàn chiên của Chúa
và trung thành với các sứ vụ bằng cái chết tử đạo, thì vai trò của Gioan là làm
chứng tá cho Chúa Giêsu bằng Phúc Âm.
Gioan được ơn sống lâu
để chiêm niệm một cách sâu xa hơn về mầu nhiệm nhập thể làm người và phục sinh
của Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa. Vì thế mà Gioan kết thúc Phúc Âm của mình bằng
sự xác quyết: "Còn có nhiều điều khác Chúa Giêsu đã làm, nếu viết lại từng
điều một thì tôi thiết nghĩ cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết
ra". Qua lời kết thúc này Gioan cho thế gian hiểu rằng quyền năng của Chúa
Giêsu không bao giờ cạn, hồng ân của Ngài thì vô cùng, sự khôn ngoan của Ngài
thì không ai có thể đối chọi lại được, và tình yêu của Ngài thì vô biên.
Trong lịch sử Giáo Hội
suốt hai mươi thế kỷ nay, Thiên Chúa cũng vẫn liên tục kêu gọi nhiều người và
ban cho họ những ân sủng đặc biệt để tiếp tục sống mãn đời trên trần thế. Họ là
các thánh nam nữ đã được Thiên Chúa lựa chọn và trao cho các sứ mệnh đặc biệt ở
những thời kỳ và hoàn cảnh khác biệt nhau. Có vị được gọi để trở thành các giáo
phụ và tiến sĩ Hội Thánh. Các ngài dùng ngòi bút và trí thông minh để rao giảng
Phúc Âm và đem ánh sáng Lời Chúa đến cho mọi người. Những vị khác thì được ơn gọi
sáng lập các dòng tu với tinh thần tông đồ và hoạt động truyền giáo trong nhiều
lãnh vực khác biệt nhau. Các sứ vụ tuy có khác biệt nhưng đều mang ý nghĩa và tầm
mức quan trọng như nhau. Tất cả đều qui tụ vào cùng một mục đích duy nhất là
làm chứng tá cho chân lý và tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, xin
ban cho chúng con sức mạnh của đức tin và ngọn lửa của tình yêu, để chúng con
can đảm và hăng say làm chứng tá cho tình yêu và chân lý của Chúa giữa thế
gian. Xin Chúa cũng luôn hiện diện để giúp chúng con trung thành với ơn gọi và
sứ mạng do Chúa giao phó, nhất là trong những lúc đứng trước các cơn bão táp của
cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần VII PS
Bài đọc: Acts
28:16-20, 30-31: Jn 21:20-25.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải rao giảng
Tin Mừng và làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Mùa Phục Sinh sẽ kết
thúc sau ngày hôm nay, để đón mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống ngày Chủ Nhật,
và sau đó tiếp tục tuần 8 mùa Thường Niên, bắt đầu ngày thứ hai.
Các Bài Đọc hôm nay đều
rút ra từ chương cuối cùng của hai Sách: Công Vụ Tông Đồ và Tin Mừng Gioan mà
chúng ta đã nghe suốt từ ngày đầu của Mùa Phục Sinh cho tới giờ. Đây là cơ hội
thuận tiện để chúng ta nhìn lại hai Sách này và rút ra những điểm thần học
chính yếu từ đấy. Mục đích của Sách CVTĐ là tường thuật sự thành hình của Giáo
Hội qua sự rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh, bắt đầu từ
Jerusalem, đến khắp vùng Judea và Samaria, rồi cho đến tận cùng trái đất (Acts
1:8). Vì mục đích này mà thánh-sử Lucas chấm dứt Sách CVTĐ khi Phaolô đặt chân
tới Rôma và bắt đầu rao giảng Tin Mừng trong trình thuật hôm nay. Rôma được coi
là trung tâm của thế giới, một khi Tin Mừng đạt tới trung tâm của thế giới là
có thể lan ra đến tận cùng trái đất. Trong cuộc hành trình rao giảng Tin Mừng từ
Jerusalem đến Roma, niềm tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh đã biến đổi các Tông-đồ
và các môn đệ, từ những người nhát đảm sợ sệt thành những người can đảm, lợi khẩu,
dám đương đầu với mọi quyền lực, và vượt qua mọi khó khăn để làm chứng cho Tin
Mừng. Niềm tin vào Chúa Phục Sinh cũng biến đổi Phaolô, từ một người hăng say bắt
đạo đến chỗ thành một người nhiệt thành rao giảng đạo, qua 3 cuộc hành trình đầy
khó khăn, cam go, nguy hiểm.
Mục đích của Tin Mừng
Gioan là tường trình những biến cố chính và quan trọng liên quan tới Chúa
Giêsu, để khơi dậy niềm tin nơi khán giả; và vì niềm tin, họ được hưởng Ơn Cứu
Độ. Đoạn kết của Tin Mừng hôm nay nói rõ: "Chính môn đệ này (Gioan) làm chứng
về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là
xác thực. Còn có nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một,
thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.'' Hai
điều thần học quan trọng chúng ta nghe nhắc đi nhắc lại trong suốt Mùa Phục
Sinh là tình yêu Thiên Chúa và lời hứa ban Thánh Thần: Để có thể rao giảng Tin
Mừng và làm chứng cho Chúa Giêsu, hai điều này không thể thiếu nơi người rao giảng,
và được ban cho từ Thiên Chúa, qua Đức Kitô.
Điểm quan trọng của mỗi
ngày là Giáo Hội cố gắng sắp xếp song song, giữa những gì Chúa Giêsu nói hay những
biến cố liên quan đến Ngài trong Phúc Âm, với những gì các môn đệ nói hay những
biến cố liên quan tới các ông, để làm nổi bật một chủ đề hay hoàn thành lời hứa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phaolô làm chứng cho Chúa Giêsu tại Roma.
1.1/ Phaolô tập họp các
tín hữu tại Rôma để cho họ biết tình trạng của ông: Khi tới Rôma, ông Phaolô được phép ở nhà riêng cùng với
người lính canh giữ ông. Ba ngày sau, ông mời các thân hào Do-thái đến. Khi họ
đã tới đông đủ, ông nói với họ: "Thưa anh em, tôi đây, mặc dầu đã không
làm gì chống lại dân ta hay các tục lệ của tổ tiên, tôi đã bị bắt tại Jerusalem
và bị nộp vào tay người Rôma."
Giống như trường hợp của
Chúa Giêsu, mặc dù quan Philatô không nhận thấy Chúa Giêsu làm điều gì đáng chết
cả; nhưng những người Do-thái vẫn muốn xin Philatô cho đóng đinh Chúa vào Thập
Giá. Trường hợp của Phaolô cũng thế, Phaolô tâm sự với giáo đoàn Rôma:
"Sau khi điều tra, họ muốn thả tôi, vì tôi không có tội gì đáng chết.
Nhưng vì người Do-thái chống đối, nên bó buộc tôi phải kháng cáo lên hoàng đế
Caesar; tuy vậy không phải là tôi muốn tố cáo dân tộc tôi. Đó là lý do khiến
tôi xin được gặp và nói chuyện với anh em, bởi chính vì niềm hy vọng của Israel
mà tôi phải mang xiềng xích này."
1.2/ Phaolô tiếp tục rao
giảng Tin Mừng trong khi bị giam cầm: "Suốt
hai năm tròn, ông Phaolô ở tại nhà ông đã thuê, và tiếp đón tất cả những ai đến
với ông. Ông rao giảng Nước Thiên Chúa và dạy về Chúa Giêsu Kitô, một cách rất
mạnh dạn, không gặp ngăn trở nào."
Phaolô chứng minh mặc
dù ông bị giam cầm, nhưng Lời Chúa không bị xiềng xích. Ông đã có thể loan báo
Tin Mừng ngay trong ngục tù cho những lính cai tù thay phiên nhau canh gác ông
trong suốt hai năm; tranh luận để thuyết phục những người Do-thái; và viết các
Thư Ngục Tù để yên ủi và khích lệ các tín hữu của các cộng đoàn mà ông đã thành
lập. Đi tới đâu ông luôn tìm dịp để Lời Chúa được thấm nhập tới đó.
2/ Phúc Âm: Phần anh, hãy theo Thầy!
2.1/ Phêrô muốn biết số
phận của người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến: Khi Phêrô quay lại và nhìn thấy người môn đệ Đức Giêsu
thương mến đi theo sau (ông này là người đã nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu
trong bữa ăn tối và hỏi: "Thưa Thầy, ai là kẻ nộp Thầy?"), ông Phêrô
nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, còn anh này thì sao?" Đức Giêsu đáp:
"Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến
anh? Phần anh, hãy theo Thầy."
Chúa Giêsu mời gọi các
ông luôn nhìn thẳng tới phía trước và cố gắng hoàn thành trọng trách Chúa trao
phó; chứ đừng phí thời giờ nhìn chung quanh để so sánh hay ghen tị với người
khác. Khi nghe Chúa Giêsu nói thế, các môn đệ đồn thổi giữa các ông là môn đệ ấy
sẽ không chết. Nhưng Đức Giêsu đã không nói với ông Phêrô là: "Anh ấy sẽ
không chết," mà chỉ nói: "Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới
khi Thầy đến, thì việc gì đến anh?"
2.2/ Người môn đệ được
Chúa Giêsu thương mến làm chứng cho Chúa Giêsu: Có
nhiều giả thuyết về "người môn đệ Chúa Giêsu thương mến:" Có người
cho là tác giả của Sách Tin Mừng không muốn chỉ rõ là ai, nhưng để độc giả có
thể đặt tên mình vào đó; nhưng đa số đều cho đó là Gioan. Nhất là theo trình
thuật hôm nay, khi Phêrô nói rõ là người môn đệ đã ngả đầu vào ngực Chúa trong
Bữa Tiệc Ly.
Mục đích Chúa Giêsu chọn
các Tông-đồ và các môn đệ là cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Chúa
Giêsu. Có nhiều cách làm chứng khác nhau, nhưng Gioan làm chứng cho Chúa Giêsu
bằng cách viết sách Tin Mừng để làm chứng cho những gì Chúa đã nói và làm. Tác
giả xác tín: "Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra.
Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực. Còn có nhiều điều khác
Đức Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới
cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Rao giảng Tin Mừng
và làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh phải là bổn phận quan trọng hàng đầu của
những người môn đệ Chúa. Bao lâu Tin Mừng chưa được rao giảng cho đến tận cùng
trái đất, chúng ta chưa làm tròn bổn phận Chúa trao.
- Phải tìm dịp rao giảng
Tin Mừng mọi nơi, mọi lúc, và trong mọi hoàn cảnh: khi thuận tiện cũng như lúc
bất tiện. May mắn hơn Phaolô và các môn đệ thuở ban đầu, với kỹ thuật hiện đại,
chúng ta có thể ngồi nhà và rao truyền Tin Mừng cho mọi người qua mạng internet.
- Sống trong tình yêu
Thiên Chúa và theo sự hướng dẫn của Thánh Thần là hai điều kiện không thể thiếu
để việc rao giảng Tin Mừng được bền bỉ và có kết quả tốt đẹp.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
Th. Ca-rô-lô Loan-ga và các bạn
tử đạo Ga 21,20-25
PHẦN BẠN, HÃY THEO CHÚA
“Giả như Thầy muốn anh ấy ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến
anh? Phần anh, hãy theo Thầy.” (Ga 21,22)
Suy niệm: Thói xấu “trâu cột ghét trâu ăn”
đã ăn sâu vào tâm thức con người đến độ các môn đệ, dù đã được Chúa Giê-su huấn
luyện ba năm, vẫn chưa gột rửa được. Câu chuyện xì xèo chung quanh “người
môn đệ được Đức Giêsu thương mến” ấy do chính Phê-rô là người “đầu têu”
khơi dậy qua câu hỏi ngụ ý ghen tỵ: “Thưa Thầy, còn anh này thì sao?” Phải
chăng Phê-rô quên rằng chính mình vừa được Thầy rộng lượng “xí xoá” vụ chối
Thầy ba lần rồi lại “đặc cách” giao cho sứ mạng chăn dắt đoàn chiên của Chúa đó
sao? Chúa kêu gọi mỗi người mỗi cách ban ơn riêng phù hợp để mỗi người chu toàn
sứ mạng của mình trong sự hoà hợp với nhau để xây dựng Hội Thánh. Chúa Giê-su
không trả lời câu hỏi của Phê-rô, nhưng Ngài nhắc nhở ông hãy lo chu toàn sứ
mạng của mình thay vì dòm ngó người khác bằng cặp mắt ghen tỵ:”Việc gì đến anh? Phần anh hãy theo Thầy.”
Mời Bạn: Mỗi
người chúng ta đều được Chúa giao cho
sứ mạng riêng. Thế nhưng chúng ta vẫn hay “lấn sân”, tò mò người này, xem xét người
kia, phê bình thế này, chỉ trích thế nọ, không phải với thiện chí xây dựng mà
chỉ vì động cơ ghen tức… Bạn nhớ mình cũng là “người môn đệ được Đức
Giê-su thương mến” và Ngài cũng hỏi bạn “có yêu mến Ngài không”.
Khi bạn dành tất cả của bạn cho Ngài, trong lòng bạn, bạn sẽ chỉ còn bận tâm
một điều: “Phần con, cứ theo Thầy.”
Sống Lời Chúa: Quyết
tâm làm việc bổn phận cách cẩn thận, trong tâm tình vui vẻ hoà hợp với anh chị
em.
Cầu nguyện: Xin
Chúa cho con biết ý thức được sứ mạng của con trong bất kỳ công việc hay lãnh
vực nào để từ đó con luôn nỗ lực chu toàn cách tốt đẹp hơn.
(5 phút Lời Chúa)
Lời chứng xác thực (3.6.2017 – Thứ bảy Tuần 7 Phục sinh)
Ai là người môn đệ được Đức Giêsu thương mến? Nhiều người nghĩ anh là Gioan, nhiều người lại nghĩ khác. Dù sao anh thật là một môn đệ lý tưởng cho chúng ta.
Trong bài Tin Mừng hôm
nay, ngoài Đức Giêsu và Phêrô,
còn có người môn đệ được
Đức Giêsu thương mến.
Anh đã có mặt trong bữa
Tiệc Ly cùng với Phêrô, đã nằm gần Thầy,
và được Phêrô nhờ hỏi
Thầy xem ai là kẻ phản bội (13,23-25).
Anh đã đưa Phêrô vào dinh
thượng tế khi Đức Giêsu bị bắt (18,15-16).
Anh đã cùng với Phêrô
chạy ra ngôi mộ trống lúc ban mai,
nhưng anh chạy nhanh hơn,
và tin trước Phêrô (20,3-10).
Khi Phêrô chối Thầy ba
lần và không lộ diện nữa (18,17-18.25-27),
thì anh là môn đệ duy
nhất đứng gần thập giá Đức Giêsu,
và được Ngài trao Thân
Mẫu của mình để làm Mẹ của anh (19:25-27).
Trong lần Đức Giêsu tỏ
mình bên bờ hồ Galilê, sau mẻ cá lạ (21,4-7),
anh là người đầu tiên
nhận ra Thầy, và nói với Phêrô: “Chúa đó!”
Có vẻ hình ảnh người môn
đệ được Chúa thương nổi trội hơn Phêrô.
Dù sao Simon Phêrô đã ba
lần tuyên xưng tình yêu trước Thầy,
và ba lần Thầy giao cho
anh chăm sóc đoàn chiên như người mục tử.
Thầy còn tiên báo cái
chết tử đạo của anh,
và mời anh một lần nữa:
“Hãy theo Thầy” (21,19; x. 13,36-37).
Đó là đường đời của
Phêrô, một môn đệ và một mục tử.
Nhưng đâu là con đường
tương lai của người môn đệ kia?
Phêrô đi theo Đức Giêsu,
quay lại, thấy anh này cũng đang đi theo.
“Thưa Thầy, còn anh này
thì sao?” (c. 21).
Đức Giêsu đã không bảo là
anh này sẽ không chết,
hay anh còn sống mãi cho
đến ngày Ngài quang lâm (c. 23).
Khi cuốn Tin Mừng Thứ Tư
được viết xong vào cuối thế kỷ thứ nhất,
thì người môn đệ kia đã
qua đời, nhưng không được phúc tử đạo.
Như thế tiếng đồn về câu
nói của Đức Giêsu là sai sự thật (c. 22).
Những gì anh để lại cho
thế giới là cuốn Tin Mừng Thứ Tư.
“Chính môn đệ này làm
chứng về những điều đó và đã viết ra.
Chúng tôi biết rằng lời
chứng của người ấy là xác thực” (c. 24).
Người môn đệ này cho
chúng ta một lời chứng đáng tin,
vì anh là người đã sống
bên Thầy Giêsu, thật gần gũi.
Anh đã mắt thấy tai nghe,
và có kinh nghiệm thân thiết với Thầy.
Không hẳn anh đích thân
cầm bút viết cuốn Tin Mừng này,
nhưng anh lại chính là
tác giả của mọi điều được viết trong đó.
Tất cả là kinh nghiệm
riêng tư anh đã trải qua với Thầy Giêsu,
và những suy niệm lâu dài
dưới ánh sáng Phục sinh và Thánh Thần.
Người môn đệ này còn là
người sáng lập một cộng đoàn tín hữu.
Cộng đoàn ấy được ám chỉ
qua đại từ “chúng tôi” (c. 24; x. 1,14.16).
Một người trong cộng đoàn
đã viết chương cuối này (c. 25: “tôi”).
Ai là người môn đệ được
Đức Giêsu thương mến?
Nhiều người nghĩ anh là
Gioan, nhiều người lại nghĩ khác.
Dù sao anh thật là một
môn đệ lý tưởng cho chúng ta.
Điều anh để lại cho đời
trong cuốn Tin Mừng là điều anh xác tín.
Anh là nhân chứng đáng
tin cậy của Đức Kitô, Con Thiên Chúa.
Đúng anh là người được
Thầy yêu và là người đã hết lòng yêu Thầy.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa của đời
con,
chỉ trong tình yêu con
mới tìm thấy Chúa.
Trong tình yêu, các cánh
cửa hồn con mở tung,
để con được thở không khí
tự do tươi mới
và quên đi cái tôi nhỏ
mọn của mình.
Trong tình yêu, toàn bộ
con người con vươn ra khỏi
những ranh giới cứng nhắc
của óc hẹp hòi
và của thái độ tự khẳng
định đầy bất an
khiến con bị giam mình
trong sự nghèo nàn và trống rỗng.
Trong tình yêu, mọi sức
mạnh của hồn con tuôn chảy về Chúa,
chẳng bao giờ còn muốn quay
trở lại,
nhưng chỉ muốn mất mình
trọn vẹn trong Chúa,
vì qua tình yêu, Chúa là
trung tâm sâu nhất của lòng con,
Chúa gần con hơn cả chính
con gần con.
Nhưng khi con yêu Chúa,
khi con tìm cách phá vỡ
vòng vây chật hẹp của cái tôi, và vứt bỏ sau lưng
nỗi khắc khoải không
nguôi về những câu hỏi còn bỏ ngỏ,
khi đôi mắt mù lòa của
con không còn chỉ nhìn từ xa và từ bên ngoài
ánh rạng ngời không thể
lại gần được của Chúa,
và hơn nữa, lạy Chúa là
Đấng vô phương thấu hiểu,
khi qua tình yêu, Chúa
trở nên trung tâm sâu nhất của đời con,
khi ấy con mới có thể
chôn mình hoàn toàn trong Chúa,
lạy Thiên Chúa nhiệm màu,
và chôn mọi câu hỏi của
con cùng với con.
Karl Rahner, S.J.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
3 THÁNG SÁU
Bản Tính Lưỡng Diện
Của Chúng Ta
Người ta thường nhấn mạnh
rằng truyền thống Thánh Kinh nêu bật tính duy nhất của ngã vị con người khi sử
dụng những từ ngữ như “xác phàm” hay “nhục thể” để chỉ con người xét như một
toàn thể (Tv 145,21; Ge 3,1; Is 66,23; Ga 1,14). Cái nhìn ấy thật chính xác.
Song điều đó không phủ nhận rằng trong truyền thống Thánh Kinh, tính lưỡng diện
của con người cũng được trình bày – đôi khi một cách rõ rệt. Truyền thống này
được phản ảnh nơi lời Đức Kitô: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không
giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn và xác
trong hỏa ngục” (Mt 10,28).
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 03-6
Thánh Carôlô Lwanga
và các bạn tử đạo
Cv 28, 16-20.30-31;
Ga 21, 20-25.
Lời suy niệm: “Phần anh hãy
theo Thầy.”
Sau khi Chúa Giêsu
trao ban sứ vụ cho Phêrô: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy” (c.15). “Hãy chăn dắt
chiên của Thầy” (c.16). “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (c.17). Phêrô đã lãnh nhận,
nhưng khi nhìn đến người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến đi theo sau; Pherô đã
thắc mắc về sứ vụ của người môn đệ này, thì được Chúa Giêsu đã cho Pherô biết:
điều này không liên quan đến ông, và Chúa bảo cho Phêrô biết, điều quan trọng cần
quan tâm là: “Phần anh hãy theo Thầy.”
Lạy Chúa Giêsu. Trong
đời sống của mỗi người, Chúa đều trao ban cho một sứ vụ mở mang Nước Chúa, Chúa
chỉ đòi hỏi nơi mỗi người hãy bước theo Người, và chu toàn sứ vụ của mình; chứ
đừng nhìn vào công tác của người khác. Xin cho chúng con luôn bước theo Chúa và
chu toàn bổn phận làm người, làm con cái của Chúa, của Giáo Hội.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 03-06: Thánh
CAROLÔ và PHÊRÔ LWANGA
và các bạn tử đạo
(1885 - 1887)
Dân da đen sống ở miền
Ouganda, Trung Phi thuở ấy chưa hề nghe đến tên Chúa. Ma quỉ còn thống trị họ với
mọi thứ phù phép. Họ chém giết lẫn nhau và ăn thịt nhau nữa. Trẻ em bị bỏ rơi.
Đàn bà bị coi như thú vật phải làm việc mệt nhọc và bị sát hại theo sở thích của
đàn ông.
Ngày kia hai cha thừa
sai Lourdel và Livinhac đến với họ sau một cuộc hành trình đầy cực khổ. Các
Ngài đến gặp nhà vua trong chòi của ông và buổi đầu mọi sự tốt đẹp. Các Ngài tận
tụy phục vụ.
Dân da đen đã không
bao giờ tưởng tượng được điều các vị thừa sai nói cho lại là điều tốt đẹp như vậy:
Họ có một người cha trên trời đã yêu thương họ đến nỗi đã ban con mình là Chúa
Giêsu đến cứu chuộc họ, và Chúa Giêsu lại chết trên thánh giá đã họ được về trời
với Người, như thế họ lại không yêu mến vâng phục Người để được gặp lại Người
trong hạnh phúc bất tận sao ? Để được như vậy, họ quyết yêu thương nhau theo luật
Chúa để nên tốt hơn. Khi đã cố gắng lãnh phép Rửa tội. Chúa Giêsu đổ tràn ơn
thánh vào trong lòng họ và kết hợp với họ trong Bàn tiệc Thánh Thể.
Nhà Vua cũng rất thích
điều các Cha nói. Những điều các Ngài rao giảng làm cho các phù thủy và bọn người
Ả rập buôn người giận dữ. Một thị động bị vu oan và bị thiêu sống. Anh ta xin
được rửa tội và đã can đảm chịu cực hình, các nhà thừa sai cảm thấy cơn bách hại
đã đến nên vội rửa tội cho những người đã được chuẩn bị rồi rút lui với một số
trẻ em các Ngài đã chuộc lại được. Các Ngài rút lui về bờ hồ phía nam, là nơi bệnh
đậu mùa đang giết hại rất nhiều người. Số đông trẻ em sắp chết đều được rửa tội.
Các Ngài nói với một
em bé 9 tuổi: Hãy cầu nguyện xin Chúa Giêsu cứu chữa con. Nhưng em bé trả lời:
- Bây giờ được làm con Thiên Chúa, con không sợ chết nữa.
Được ba năm, nhà vua
qua đời, các vị thừa sai trở lại, dân chúng mừng rỡ. Dân được rửa tội trước đã
rửa tội cho nhiều người khác nữa. Việc tông đồ khởi sắc nhưng một viên chức của
Tân vương đã gieo nghi ngờ đối với các thành quả của các Kitô hữu, nhất là đối
với Giuse Mukasa, thủ lãnh các thị đồng, người đã chống lại sự vô luân của ông.
Ông ta tâu vua rằng: các Kitô hữu mưu chiếm ngôi vua. Các phủ thủy bảo rằng bọn
khởi xướng phải chết. Vua tin họ và Giuse bị thiêu sống. Lý hình muốn trói Ngài
lại nhưng Ngài nói:- Tôi chết vì đạo mà lại tìm cách thoát thân sao ? Một Kitô
hữu không có sợ chết đâu.
Nhà vua nghĩ rằng bản
án nầy sẽ làm cho các Kitô hữu khiếp sợ. Trái lại, ngày càng có nhiều người
theo đạo. Khi đi săn về, ông gọi tiểu đồng Mwafou 14 tuổi lại, và khi biết rằng
em đang học đạo với một thiếu niên tên là Denis, ông truyền dẫn Denis lại, la lớn:
- Tên nô lệ khốn khiếp, ngươi dạy đạo hả ?
Và ông dùng lưỡi dao tẩm
thuốc độc hạ sát Denis.
Giận dữ đi ra, ông gặp
Honôrat và hỏi: - Mày cũng là Kitô hữu hả ?
- Phải.
Và Hônôrat bị tra khảo,
bị xẻ thịt. Bấy giờ vua khám phá ra một tân tòng là Giacôbê và tra gông vào cổ.
Về nhà ông thúc trống tập họp các đao phủ lại. Bọn đao phủ và các phù thủy nhảy
múa như được thoát khỏi ngục. Ngược lại tại các nhà thị đồng quang cảnh như thần
tiên. Carôlô Lwanga, chiến sĩ anh dũng nhất của triều đình đã rửa tội cho em bé
Kizitô và ba trẻ em khác, dọn mình cho các em chịu chết cách thánh thiện.
Ngày 28 tháng 5, nhà
vua truyền thiêu sống các thị đồng dám cầu nguyện. Mwa-Ga là con một đao phủ.
Ba em khẩn khoản xin em trốn đi, nhưng em từ chối. Một chiến sĩ Kitô giáo nói với
vua: - Con lên trời và cầu nguyện cho Đức Vua.
Các phạm nhân mạnh dạn
tiến đi chịu khổ hình, gặp Pontianô tên đao phủ hỏi anh: - Mày biết cầu nguyện
không ?
Vừa trả lời "biết"
Pontianô bị chém đầu ngay. Những người khác nói: - Ở trên trời Pontianô sẽ cầu
nguyện cho chúng ta được can đảm chịu chết.
Các vị tử đạo bị kềm cứng
trong gông cùm trong khi người con của đao phủ bị ép đến với cha mẹ. Họ phải đợi
sáu ngày để chuẩn bị giàn thiêu, đã đến ngày xử, Mwaga nhảy xổ đến nhập bọn tại
pháp trường, các vị tử đạo nói với nhau: - Chính tại nơi đây chúng mình được thấy
Thiên Chúa.
Các Ngài bị đặt trên
các tấm phên như những cây đuốc sống. Người ta đốt chân các vị tử đạo để mong
các Ngài thôi cầu nguyện, nhưng các Ngài đã trả lời: - Còn sống, chúng tôi sẽ
không ngừng cầu nguyện.
Một phù thủy nói với
các Ngài: Thiên Chúa sẽ không giải thoát các Ngài đâu. Brunô trả lời: - Ông
không đốt cháy linh hồn chúng tôi được đâu, nhưng nó sẽ bay lên thiên đàng.
Giàn thiêu được đốt
lên. Lời kinh lạy cha của các thánh còn vượt trên những tiếng la hét man rợ và
những tiếng nổ lốp đốp của lò lửa. Người ta biết được là các Ngài đã chết khi hết
nghe tiếng các Ngài cầu nguyện.
Ông vua da đen tự
nhiên chắc rằng sau tội ác này, chẳng còn bóng dáng Kitô hữu nào trong xứ sở của
ông nữa. Nhưng ngày nay, Ouganda có hơn nửa triệu tín hữu.
(daminhvn.net)
03 Tháng Sáu
Chúa Là Nơi Con Nương Tựa
Dạo tháng 6 năm
1985, những người theo dõi truyền hình bên Tây phương vẫn còn nhớ mãi hình ảnh
chiếc máy bay đang đậu ở phi trường, với viên phi công trong buồng lái ngó ra
ngoài nói chuyện với một số phóng viên, trong khi có một người đứng bên cạnh, cầm
súng dí sát vào đầu viên phi công. Ðó là hình ảnh của viên phi công John
Testrake trên chiếc máy bay của hãng hàm không TA, bị không tặc uy hiếp trên đường
bay từ thủ đô Hên của Hy Lạp về La Mã. Trong suốt 17 ngày, không tặc đã dùng lựu
đạn và súng uy hiếp viên phi công, buộc ông phải bay từ Bút qua Alger rồi bay về
Bút cả thảy bốn lần. Họ cũng đã bắn chết một hành khách, đánh đập một số hành
khách khác. Cuối cùng họ đã để cho 39 con tin trên máy bay được đem đến một căn
nhà ở Bút rồi được chở về Ðoác trước khi được trả tự do. Mặc dù không phải là
con tin trên chiếc máy bay đó, nhiều người cũng thấy căng thẳng hồi hộp chỉ vì
theo dõi tin tức trên truyền hình hay truyền thanh...
Mới đây, viên phi
công John Testrake có thuật lại kinh nghiệm hi hữu của mình. Anh nói như sau:
"Lúc đó, tôi biết chắc chắn là có Chúa ở với tôi, nên tôi không những
không sợ hãi mà còn tràn ngập bình an tin tưởng là khác". Anh cũng nói
thêm rằng anh đã theo đạo năm lên 25 tuổi, nhưng lúc bấy giờ anh chưa thật sự
thức tỉnh, bắt đầu đọc Kinh Thánh và cầu nguyện một cách đều đặn. Nhờ có Kinh
Thánh mang trong mình, cho nên trong suốt 17 ngày bị uy hiếp, anh vẫn không tỏ
ra nao núng vì tin chắc có Chúa đang phù trợ anh...
Cách đây hai năm,
John Testrake đã xin thôi không làm việc cho háng hàng không TWA để tập trung
vào các công việc từ thiện và để lái máy bay đưa các nhà truyền giáo đến các
vùng xa xôi hẻo lánh. Ði đến đâu, anh cũng thuật lại việc Chúa đã giải cứu anh,
nhất là việc Ngài đã ban cho anh bình an tin tưởng khi phải chạm trán với tử thần.
Ai trong chúng ta có lẽ
cũng hơn một lần chạm trán với tử thần hay kinh qua những giờ phút đen tối
trong cuộc sống... Những người không có niềm tin thường sợ hãi bối rối vì không
biết những gì đang chờ đợi mình bên kia cuộc sống. Những người có niềm tin hẳn
không là những con người không biết sợ hãi, nhưng họ tin rằng bên cạnh họ luôn
có Ðấng che chở phù trợ họ.
Chúng ta có thái độ
nào khi đứng trước những giờ phút nguy ngập, những thử thách trong cuộc sống?
Chúng ta có tin tưởng rằng có Ðấng luôn ở bên cạnh chúng ta, để giữ gìn, phù hô
chúng ta không? Với niềm tin vững vào Tình Yêu của Ðấng luôn có mặt bên cạnh
chúng ta, chắc chắn chúng ta có thái độ lạc quan hơn trước cuộc sống, chúng ta
sẽ đối đầu với những khó khăn và thử thách với bình thản và vui tươi.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét