04/09/2017
Thứ hai tuần 22 thường niên.
Bài Ðọc I: (Năm I) 1
Tx 4, 13-17
"Nhờ Ðức
Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem những người đã chết đến làm một với Người".
Trích thư thứ nhất của
Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, chúng
tôi chẳng muốn để anh em không biết gì về số phận những người đã an nghỉ, để
anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những kẻ không có niềm hy vọng.
Vì nếu chúng ta tin Ðức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì cũng vậy, những người
đã chết nhờ Ðức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem họ đến làm một với Người.
Bởi vậy, chúng tôi dựa
vào lời Chúa để nói cùng anh em điều này: chúng ta, những kẻ đang sống, những kẻ
còn sót lại khi Chúa đến, thì chúng ta không đi trước những người đã an nghỉ.
Vì khi nghe lệnh và tiếng Tổng lãnh Thiên thần, và tiếng loa Thiên Chúa, thì
chính Chúa từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Ðức Kitô sẽ sống lại
trước hết, rồi đến chúng ta, những kẻ đang sống, những kẻ còn sống sót, chúng
ta sẽ được nhắc lên cùng với họ trên các tầng mây, đi đón Ðức Kitô trên không
trung, và như vậy, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa luôn mãi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 95, 1 và 3.
4-5. 11-12. 13
Ðáp: Chúa ngự tới cai quản địa cầu (c. 13ab).
Xướng: 1) Hãy ca mừng
Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy tường
thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. - Ðáp.
2) Vì Thiên Chúa, Người
hùng vĩ và rất đáng ngợi khen, Người khả úy hơn mọi bậc chúa tể. Vì mọi chúa tể
của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh. - Ðáp.
3) Trời xanh hãy vui mừng
và địa cầu hãy hân hoan, biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên, đồng nội
và muôn loài trong đó hãy mừng vui. Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở. - Ðáp.
4) Trước nhan Thiên
Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa
cầu cách công minh và chư dân cách chân thành. - Ðáp.
Alleluia: Tv 110, 8ab
Alleluia, alleluia! -
Lạy Chúa, mọi giới răn Chúa được lập ra cho tới muôn đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 4, 16-30
"Người sai tôi
đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó... Không một tiên tri nào được đón tiếp
tại quê hương mình".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở
về Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày Sabbat,
Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách
tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng: "Thánh Thần
Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho
người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát
cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp
bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".
Người gấp sách lại,
trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú
nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh
mà tai các ngươi vừa nghe". Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục
Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: "Người này không phải
là con ông Giuse sao?"
Và Người nói với họ:
"Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: "Hỡi thầy thuốc,
hãy chữa lấy chính mình"; "điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum,
ông hãy làm như vậy tại quê hương ông". Người nói tiếp: "Ta bảo thật
các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật
các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Êlia, khi trời bị đóng lại
trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Êlia
không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà
goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời
tiên tri Êlisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ
Naaman, người Syria".
Khi nghe đến đó, mọi
người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi
thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống
vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Bụt Nhà Không
Thiêng
Không thể làm tiên tri
mà không trải qua bách hại, khổ đau thử thách. Ðó là số phận chung của các tiên
tri từ Cựu Ước qua Tân Ước. Những kẻ không được sai đi, tự lấy danh mình mà
nói, đó là những tiên tri giả; còn các tiên tri thật ý thức mình được Chúa sai
đi và chỉ nói những gì Ngài muốn, một sứ mệnh như thế thường tạo ra nơi vị tiên
tri một cuộc chiến nội tâm mãnh liệt. Môsê và Êlia trải qua khủng hoảng và ngay
cả thất vọng khi phải trung thành với Lời Chúa; Yêrêmia đã nhiều lần ca thán và
có lúc chỉ muốn đào thoát. Ðau khổ nhất cho các tiên tri là thấy lời nói của
mình không được lắng nghe.
Chúa Giêsu không chỉ đến
để làm cho lời các tiên tri được ứng nghiệm, Ngài cũng là vị tiên tri đúng
nghĩa nhất. Nơi Ngài cũng có những đặc điểm của các tiên tri: đối đầu với những
giá trị sẵn có, Ngài tỏ thái độ như các tiên tri: Ngài nghiêm khắc với những kẻ
khóa Nước Trời không cho người khác vào. Ngài nổi giận trước sự giả hình của những
người Biệt phái. Ngài đặt lại vấn đề tư cách là con cháu Tổ phụ Abraham mà người
Do Thái vẫn tự hào. Nhất là Ngài rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng
cả cuộc sống của Ngài; do đó, bị chống đối, bị bách hại là số phận tất yếu của
Ngài.
Tin Mừng hôm nay là lời
tiên báo về sự chống đối và bách hại mà Chúa Giêsu sẽ trải qua. Sau một thời
gian rao giảng và làm nhiều phép lạ, danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến.
Thế nhưng, khi trở về quê hương, Ngài chỉ nhận được sự hững hờ và khinh rẻ của
người đồng hương mà thôi. Quả thật, như Ngài đã trích dẫn câu tục ngữ quen thuộc:
"Không tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương của mình", đó là định
luật tâm lý mà chính Ngài cũng không thoát khỏi. Nhưng quê hương đối với Chúa Giêsu
không chỉ là ngôi làng Nazaréth nhỏ bé, mà sẽ là toàn cõi Palestina. Ngài đã đến
nơi nhà Ngài mà người nhà của Ngài đã không đón tiếp Ngài. Cái chết trên Thập
giá là tuyệt đỉnh sứ mệnh tiên tri của Chúa Giêsu, là lời nói cuối cùng của
Ngài như một vị tiên tri.
Là thân thể, là sự nối
dài của Chúa Kitô, Giáo Hội cũng đang tiếp tục sứ mện tiên tri của Ngài trong
trần thế, do đó, Giáo Hội không thoát khỏi số phận bị chống đối và bách hại. Một
Giáo Hội không bị chống đối và bách hại là một Giáo Hội thỏa hiệp, nghĩa là
đánh mất vai trò tiên tri của mình.
Nhờ phép Rửa, người
Kitô hữu cũng được tham dự vào sứ mệnh tiên tri của Chúa Kitô: bằng lời nói, và
nhất là chứng tá cuộc sống, chúng ta thực thi vai trò tiên tri của mình trong
xã hội. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta được Thánh Thần xức dầu và sai vào trần
thế. Ước gì chúng ta luôn kiên trì rao giảng Tin Mừng của Chúa dù gặp thời thuận
tiện hay không thuận tiện, vì biết rằng mình đang sống ơn gọi tiên tri.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 22 TN1
Bài đọc: I
Thes 4:13-18; Lc 4:16-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hy vọng vào
cuộc sống trường sinh giúp con người diệt trừ bản ngã.
Một trong những lý do
ngăn cản con người tiến tới trên đường trọn lành là bản ngã: cái tôi ích kỷ
trong con người. Hầu như mọi tội lỗi đều có nguồn gốc từ bản ngã này. Trong khi
Đức Kitô cố gắng dạy dỗ các môn đệ vượt qua khuynh hướng xấu xa này, thì đa số
nhân loại ngày nay lại tôn thờ nó dưới mầu sắc khác nhau: khuynh hướng cá nhân
chỉ nhằm đạt lợi ích cho bản thân, khuynh hướng vật chất chỉ nhằm hưởng thụ vật
chất và gạt ra ngoài những giá trị luân lý, tinh thần. Làm sao con người có thể
diệt trừ bản ngã này?
Các Bài Đọc hôm nay
giúp chúng ta hiểu sự nguy hiểm của bản ngã này và cách để diệt trừ chúng.
Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô hướng lòng các tín hữu Thessalonica đến mục đích
tối hậu của cuộc đời là hy vọng được sống trường sinh bất tử với Thiên Chúa.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu muốn vạch ra tai hại của những người sống theo bản
ngã này: họ từ chối và muốn tiêu diệt ngay cả Đấng đem lại cho họ niềm hy vọng
được sống đời đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hy vọng của chúng ta là sẽ được cùng sống lại với Đức Kitô.
1.1/ Sự cần thiết của hy
vọng: Hy vọng như thế nào, sẽ sống như thế ấy.
Nếu không hy vọng vào cuộc sống mai sau, con người sẽ níu kéo những giá trị của
đời tạm này. Thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu hai điều chính về cuộc đời:
(1) Chết không hết,
nhưng bắt đầu cuộc sống đời đời với Thiên Chúa: Ngài nói: "Thưa anh em, về
những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì,
hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm
hy vọng."
(2) Đức Kitô là niềm
hy vọng của các tín hữu: "Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã
sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu, sẽ
được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu."
1.2/ Ngày Chúa Quang Lâm:
Truyền thống Do-thái, trước khi Chúa Giêsu đến,
hiểu rất mơ hồ về Ngày Chúa Đến và về cuộc sống đời đời. Đa số cho hạnh phúc của
những người được ơn nghĩa với Chúa chỉ giới hạn trong cuộc đời này: được khỏe mạnh,
sống lâu, con đàn cháu đống, được bình an hạnh phúc; nhưng khi chết là hết. Thư
thánh Phaolô gởi tín hữu Thessalonica I (được viết khoảng 50-60 AD) là tài liệu
đầu tiên cho chúng ta mặc khải của Đức Kitô về những gì xảy ra sau cái chết.
Thánh Phaolô nói về
Ngày Chúa Đến như sau: "Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên
thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống,
và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến chúng ta,
là những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám
mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được
ở cùng Chúa mãi mãi."
2/ Phúc Âm: Thiên Chúa cho mọi người có cơ hội đồng đều, nhưng không phải
ai cũng biết lợi dụng cơ hội.
2.1/ Chúa Giêsu giảng giải
cho người đồng hương: Trình thuật kể: Đức
Giêsu đến Nazareth, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn
quen làm trong ngày Sabbath, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn
sách ngôn sứ Isaiah. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: "Thần Khí Chúa ngự
trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ
nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho
người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một
năm hồng ân của Chúa." Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội
đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt
đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa
nghe." Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ
miệng Người.
2.2/ Chúa Giêsu hiểu rõ
thái độ của người đồng hương: Chúa Giêsu
không im lặng để nhận tiếng khen, Ngài muốn họ phải đối diện với thực tế và sửa
đổi hai điều.
(1) Họ muốn Ngài làm
nhiều phép lạ: "Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi,
hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Capernaum,
ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!" Làm phép lạ là để khơi dậy
niềm tin, chứ không phải để điều khiển người làm phép làm điều mình muốn. Khi
không thấy dấu hiệu của đức tin, Chúa Giêsu từ chối việc làm phép lạ.
(2) Họ sẽ khinh thường
Ngài, vì "bụt nhà không thiêng:" Chúa Giêsu biết rõ thái độ này của họ,
nên Ngài bảo: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận
tại quê hương mình."
Tại sao con người có
thái độ khinh thường những người trong gia đình hay trong cộng đoàn? Vì họ
không muốn ai hơn mình trong cộng đoàn. Người ngoài đến rồi đi, họ không ảnh hưởng
gì trong cộng đoàn. Người trong cộng đòan là người sống thường xuyên với mình:
đề cao họ là làm giảm giá trị của mình; vì thế, khi khinh thường người đồng
hương, là đồng thời họ đang đề cao cái tôi của mình. Đây là thái độ vẫn đang xảy
ra trong gia đình và cộng đoàn: khinh thường người trong nhà, người đồng hương,
người trong Dòng, người cùng một nước. Trái lại, đề cao và tôn trọng người
ngoài. Lẽ ra, chúng ta phải nâng đỡ và khuyến khích anh/chị/em cùng nhà và cùng
nguồn gốc, vì "khôn ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá
nhau." Đây là thái độ giết tài năng của người trong gia đình, và ngăn cản
việc cùng nhau cộng tác. Nếu vượt qua được thái độ này, gia đình và cộng đoàn sẽ
tiến rất mau và mạnh.
Chúa Giêsu muốn sửa chữa
thái độ của họ, nên Ngài đưa ra hai sự kiện lịch sử để chứng minh tai hại của
thái độ "bụt nhà không thiêng." Ngài nói: "Thật vậy, tôi nói cho
các ông hay: vào thời ông Elijah, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước
phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được
sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Zareptha
miền Sidon. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Elisah, thiếu gì người phong hủi ở trong
nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ
Syria thôi."
Lịch sử tái diễn khi
Chúa Giêsu vừa nói xong những lời này, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ
đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành - thành này được xây trên núi. Họ kéo Người
lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Lẽ ra họ phải biết sáng suốt chấp nhận
thực tế: khen và tôn trọng những gì đáng khen; phán xét theo như sự việc là, đừng
để bất cứ thành kiến nào ngăn chận để đưa đến phán đoán sai lầm; nhưng họ để
cho cái bản ngã ích kỷ và thành kiến che mắt để rồi lại muốn giết luôn Đấng
mong muốn mọi sự tốt lành cho họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Hy vọng vào cuộc sống
trường sinh phải là động lực chính giúp chúng ta vượt qua cái tôi ích kỷ của
mình để làm theo những gì Đức Kitô dạy dỗ.
- Khi chúng ta tháo bỏ
bản ngã của mình, Thiên Chúa sẽ làm đầy chúng ta bằng tình yêu và ơn thánh của
Ngài, để chúng ta ngày càng trở nên giống Ngài hơn. Ngược lại, nếu chúng ta để
cho bản ngã hoành hành, chúng ta sẽ đi dần đến chỗ từ chối luôn mục đích của cuộc
đời.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
04/09/2017 - THỨ HAI TUẦN 22 TN
Lc 4,16-30
THÀNH KIẾN
“Ông này không phải là
con ông Giu-se đó sao?” (Lc 4,22)
Suy niệm: Thành kiến được định
nghĩa là một suy nghĩ, một cái nhìn cố định khó thay đổi về việc gì đó. Khăng
khăng bảo vệ quan điểm của mình “như đúng rồi” lại còn úp lên đó cái khung cứng
nhắc của cảm tính, người thành kiến sẽ không thể nhìn người khác đúng như họ
là, mà trái lại sẽ đánh giá theo kiểu: “Thương nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau
quả bồ hòn cũng méo.” Chẳng những thế, người thành kiến lại thích đeo cặp kính
đen để chỉ nhìn thấy phương diện xấu xa, bi quan, tiêu cực của sự việc. Những
người đồng hương đương thời với Đức Giê-su đã nhìn Người với đôi mắt thành kiến
như thế. Đối với họ thì gà thì đẻ ra gà chứ không thể đẻ ra công được. Với cái
nhìn thành kiến, họ không thể nào nhận ra Đức Giê-su mà họ vẫn tưởng là con bác
thợ mộc Giu-se lại là Con Thiên Chúa được.
Mời Bạn: Thành kiến khiến người ta không thể đón
nhận được chân lý, và cũng không thể nhận ra hình ảnh của Chúa nơi người anh
em. Hơn nữa họ đánh mất khả năng hoán cải nơi chính mình và cũng không thể đón
nhận sự hoán cải nơi người khác. Để có thể phá đổ thành kiến, chúng ta cần nhớ
rằng mình có thể sai; đồng thời cũng ý thức rằng người khác dù xấu xa thế nào
đi nữa, cũng có những mặt tốt đẹp và nhất là, cũng có thể hoán cải.
Sống Lời Chúa: Tìm cách khám phá ra ít
là một ưu điểm của người bên cạnh, nhất là nơi người mà mình đang có thành
kiến.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là chân lý và
tình thương. Xin thông ban cho chúng con tình thương và chân lý của Chúa, để
chúng con biết nhìn người anh chị em với lòng thiện cảm và trân trọng.
(5 Phút Lời Chúa)
Trả lại tự do (4.9.2017 – Thứ hai Tuần 22 Thường niên)
Thế giới hôm nay giàu hơn, nhưng vẫn còn lắm người nghèo như xưa. Nghèo vì thiếu những điều kiện sống cơ bản... hay nghèo vì đã gạt Thiên Chúa
ra khỏi đời mình. Loan báo Tin Mừng là làm con người...
Suy niệm:
Trong bài Tin Mừng hôm
nay, thánh Luca kể chuyện Đức Giêsu
đến giảng tại hội đường
Nadarét, vào một ngày sabát (c. 16),
Dù trước đó Ngài đã giảng
tại Caphácnaum và nhiều nơi khác (cc. 15. 23),
nhưng thánh Luca đã cố ý
đặt ngay ở đầu sứ vụ công khai
cuộc gặp gỡ đặc biệt này
giữa Ngài với người đồng hương ở Nadarét.
Đây là nơi Đức Giêsu
tuyên bố chương trình sắp tới của Ngài.
Chương trình ấy được gói
trong những câu trích dẫn từ ngôn sứ Isaia.
Được thụ thai bởi quyền
năng Thánh Thần (Lc 1, 35),
và được lãnh nhận Thần
Khí khi chịu phép rửa (Lc 3, 22),
Đức Giêsu đã được xức dầu
để nhận lãnh sứ mạng làm ngôn sứ.
Sứ mạng này chủ yếu là
loan báo Tin Mừng cho người nghèo.
Loan báo Tin Mừng là động từ hay được
Luca sử dụng (4, 43; 7, 22; 8,1…)
Tin Mừng này trước hết
dành cho người nghèo theo nghĩa đen,
nghĩa là những người
không có thu nhập cao, không đủ ăn, đủ mặc.
Ai là người nghèo nữa
dưới mắt của Đức Giêsu?
Đó là những người nghèo
tự do, phải chịu cảnh giam cầm.
Họ có thể là những người
bị tù đày chỉ vì không có tiền trả nợ.
Đó là những người nghèo
sức khỏe,
họ bị coi là chịu sự trói
buộc của Xatan (Lc 13, 16),
Đó là những người nghèo
đời sống tâm linh,
họ phạm tội nên thấy mình
xa cách Thiên Chúa và cộng đoàn.
Đức Giêsu đến để giải
thoát những người nghèo này khỏi áp bức.
Ngài kéo họ ra khỏi cảnh
nô lệ và trả lại tự do cho họ.
Chính vì thế Tin Mừng của
Nước Thiên Chúa luôn đem lại niềm vui.
Đức Giêsu đã loan báo:
Phúc cho anh em là người nghèo (Lc 6, 20).
Ngài đã chữa bệnh cho
những kẻ ốm đau thân xác,
đã mở mắt người mù để họ
thấy ánh sáng của ơn cứu độ.
Ngài cũng đã giao du và
ăn uống với những tội nhân để đưa chiên lạc về.
Bởi đó thời của Đức Giêsu
là Năm hồng ân, Năm Thánh.
Lời giảng của Đức Giêsu
bước đầu đã được dân làng thán phục.
Họ có vẻ hãnh diện vì một
người trong làng được lừng lẫy tiếng tăm.
Nhưng Đức Giêsu không muốn
mình bị chi phối bởi dân làng.
Ngài không muốn bị buộc
phải dành chút ưu tiên nào cho Nadarét (c. 23).
Đức Giêsu còn nhìn xa hơn
đến sứ vụ nơi dân ngoại (cc. 25-27).
Ngài nhắc đến hai vị ngôn
sứ trong Cựu Ước là Êlia và Êlisa.
Hai vị này đã giúp bà góa
ở Xiđôn và tướng Naaman ở Xyri.
Dân Nadarét phẫn nộ và
định giết Đức Giêsu khi Ngài nói rằng
Thiên Chúa chỉ sai hai
ngôn sứ trên đến với dân ngoại mà thôi.
Thế giới hôm nay giàu
hơn, nhưng vẫn còn lắm người nghèo như xưa.
Nghèo vì thiếu những điều
kiện sống cơ bản, thiếu những quyền lợi căn bản.
Nghèo vì chưa được nghe
biết về Đức Giêsu,
hay nghèo vì đã gạt Thiên
Chúa ra khỏi đời mình.
Loan báo Tin Mừng là làm
con người thực sự thêm giàu có.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như
hôm qua
vẫn có những người bơ vơ
lạc hướng
vì không tìm được một
người để tin;
vẫn có những người đã
chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang
sống;
vẫn có những người bị ám
ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của
tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang
đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn,
lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị
sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con
nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương
như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân
chúng con.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4 THÁNG CHÍN
Cắm Rễ Thâm Sâu
Trong Thiên Chúa
Ý nghĩa của việc “củng
cố mạnh mẽ con người nội tâm” – là hoạt động của Chúa Thánh Thần trong lòng
chúng ta – được giải thích rõ trong thư gửi tín hữu Eâphêsô: “Xin cho anh em được
bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để có đủ sức thấu hiểu và nhận biết
tình yêu của Đức Kitô vốn vượt quá mọi sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy
tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa”. (Ep 3,17-19).
Điều đó chỉ có thể được
hoàn thành bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần hoạt động trong tinh thần con người.
Chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể khai phóng cho chúng ta sự viên mãn của con
người nội tâm như được tìm thấy nơi tấm lòng của Đức Kitô. Chỉ có Ngài mới có
thể làm cho tâm hồn chúng ta ngày càng hấp thu năng lực từ nguồn viên mãn này.
Tâm hồn chúng ta – tức con người nội tâm – không thể chỉ dừng lại nơi những ưu
tư về các thực tại chóng qua. Không, chúng ta phải “bén rễ sâu” trong tình yêu
không bao giờ hư mất.
Nguyện xin Nữ Tì khiêm
cung của Thiên Chúa cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, để trái tim nhân loại của
chúng ta có thể “bén rễ sâu” trong Thiên Chúa, vì chỉ có Ngài là tình yêu không
bao giờ hư mất. Và tình yêu này được mạc khải nơi trái tim nhân loại của Đấng
được sinh bởi cung lòng Đức Maria.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 04-9
1Tx 4, 13-18; Lc
4,16-30.
Lời suy niệm: “Đức Giêsu đến
Nadarét, là nơi Người sinh trưởng, Người vào hội đường như Người vẫn quen làm
trong ngày Sabát.”
Mỗi người trong chúng
ta hãy cùng nhau hình dung hình ảnh Chúa Giêsu tiến vào hội đường Nadarét, và
Người đọc Sách ngôn sứ Isaia: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn
phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công
bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả
lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.”
Lạy Chúa Giêsu, Lời
Chúa đang đến với mỗi người trong chúng con. Xin cho Lời Chúa dẫn chúng con vào
Nhà Thờ mọi ngày, đặc biệt là ngày Chúa Nhật hằng tuần để chúng con cùng hiệp
thông với nhau trong thú tội và sám hối, cầu nguyện cho nhau; lắng nghe Lời
Chúa dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần; cùng nhau dâng lễ Tạ Ơn; cùng nhau
nhận được bình an của Chúa và của nhau. Để rồi cùng nhau được chia sẻ cùng một
Tấm Bánh.
Mạnh Phương
04 Tháng Chín
Người Ta Sao, Tôi Vậy!
Theo khuynh hướng tự
nhiên, có lẽ ai trong chúng ta cũng thích dựa theo đám đông để hành động.
Chúng ta thử quan
sát trong sự đi lại trong các thành phố. Cũng như xe cộ, khách bộ hành cũng phải
tuân theo đèn xanh, đèn đỏ. Những buổi chiều khi tan sở, người ta thường thấy
các xe cộ nối đuôi nhau ở các ngã tư. Ðối lại với một chuỗi dài của những xe cộ,
người ta cũng thấy lố nhố cả một đoàn người đang chờ đèn xanh để qua đường.
Quan sát cho kỹ, thỉnh
thoảng người ta thấy một điều rất buồn cười, nhưng cũng rất bình thường: nếu có
một người trong đám bộ hành này, vội vàng vì công việc hoặc không đủ kiên nhẫn,
đã lợi dụng lúc vắng xe để băng qua đường bất chấp đèn đỏ, thì lúc đó, một số
người trong đám đứng đợi cũng sẽ làm theo, nghĩa là cũng sẽ băng qua đường ngay
giữa lúc đèn còn đỏ... Những người đi theo này có lẽ không nhìn thấy những dấu
hiệu của luật lệ đi đường, mà chỉ làm theo người khác. Ðối với những người này,
dấu hiệu để băng qua đường này không phải là đèn xanh, mà là gương của người
khác.
Trong cuộc sống hằng
ngày cũng thế, nhiều người trong chúng ta có lẽ không hành động, không cư xử
theo những dấu hiệu, theo những chỉ dẫn của chân lý, mà có lẽ theo gương kẻ
khác nhiều hơn. Người ta làm sao, tôi làm vậy! Ðó là lý luận thông thường của
chúng ta. Như thế người vượt đèn đỏ để băng qua đường chỉ làm một hành động cá
nhân cho riêng mình, mà còn trở thành dấu hiệu để cho không biết bao nhiêu người
làm theo.
Không ai có thể tự phụ
sống cho riêng mình mà hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến người khác. Bằng lời
nói hay hành động, tất cả mọi hành xử của chúng ta đều gây một chấn động nào đó
với người khác. Một cách nào đó, chúng ta không sống như một hòn đảo, mà là một
dấu hiệu đối với người khác.
Riêng với những môn đệ
của Ðức Kitô, thì vai trò dấu hiệu ấy càng hiển nhiên hơn. Thật thế, Chúa Giêsu
đã quả quyết: "Các con là muối đất, các con là ánh sáng thế gian".
Ước gì cuộc sống chứng
ta của bác ái, của nhẫn nhục, của tha thứ, của quảng đại, của phục vụ và của sự
cần kiệm liêm chính mà người Kitô luôn phải thể hiện, có sức trở thành dấu hiệu
của chân lý, của Sự Sống. Và để trở thành dấu hiệu cho người khác, người Kitô cần
phải luôn hướng nhìn về Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống. Sống theo Ngài,
cư xử như Ngài, người Kitô cũng sẽ lôi cuốn nhiều người đến với Ngài.
Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét