19/10/2017
Thứ Năm tuần 28 thường niên
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm
3, 21-30a
"Con người nhờ
đức tin mà được công chính hoá, chứ không phải bởi việc làm theo lề luật".
Trích thư Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, hiện
giờ sự công chính của Thiên Chúa đã tỏ hiện không tuỳ vào lề luật, nhưng có lề
luật và các tiên tri làm chứng. Sự công chính của Thiên Chúa nhờ tin vào Ðức
Giêsu Kitô sẽ ban cho mọi kẻ tin vào Người, không có gì phân biệt: vì mọi người
đều phạm tội và đã thiếu mất vinh quang của Thiên Chúa, họ được công chính hoá
cách nhưng không, do ơn nghĩa của Người và nhờ sự cứu chuộc nơi Ðức Giêsu Kitô,
Ðấng Thiên Chúa đã đặt làm của lễ đền tội, nhờ tin vào máu của Người, để tỏ cho
thấy đức công chính của Người, bởi Người tha thứ những tội đã phạm khi trước,
trong thời kỳ nhịn nhục của Thiên Chúa, ngõ hầu tỏ ra đức công chính của Người
trong lúc này, để tỏ ra chính Người là Ðấng công chính và công chính hoá người
tin vào Ðức Giêsu Kitô.
Vậy đâu là việc tự hào
của ngươi? Nó đã bị loại đi rồi. Bởi lề luật nào? Có phải lề luật chỉ việc làm
không? Không phải, song là bởi lề luật đức tin. Quả thế, chúng tôi thâm tín rằng:
con người nhờ đức tin mà được công chính hoá, chứ không phải bởi việc làm theo
lề luật. Hay là Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa của người Do-thái thôi sao? Người
không phải là Thiên Chúa các dân ngoại nữa sao? Ắt hẳn Người là Thiên Chúa các
dân ngoại nữa: vì chỉ có một Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 129, 1-2.
3-4ab. 4c-5
Ðáp: Bởi vì Chúa rộng lượng từ bi, và Chúa rất giầu ơn cứu
độ (c. 7).
Xướng: 1) Từ vực sâu,
lạy Chúa, con kêu lên Chúa. Lạy Chúa, xin nghe tiếng con cầu! Dám xin Chúa hãy
lắng tai, hầu nghe thấu tiếng van nài của con. - Ðáp.
2) Nếu Chúa nhớ hoài sự
lỗi, lạy Chúa, nào ai chịu nổi được ư? Nhưng Chúa thường rộng lượng thứ tha, để
cho thiên hạ tôn thờ kính yêu. - Ðáp.
3) Con hy vọng rất nhiều
vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Ngài. Linh hồn con mong đợi Chúa, hơn
người lính gác mong trời rạng đông. Hơn lính gác mong hừng đông dậy, Israel
đang mong đợi Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! -
Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với
Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 11, 47-54
"Sẽ bị đòi nợ
máu của các tiên tri đã đổ ra, kể từ máu của Abel cho đến máu của
Giacaria".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa phán:
"Khốn cho các ngươi! Hỡi những người xây cất mồ mả các tiên tri, mà tổ phụ
các ngươi đã giết chết. Thật, các ngươi làm chứng và tán thành những hành động
của tổ phụ các ngươi: vì thực ra họ đã giết các vị tiên tri, còn các ngươi thì
xây mồ mả cho họ. Bởi đó mà sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã nói: Ta sẽ sai đến
với chúng các tiên tri và các tông đồ, trong số các vị đó, người thì chúng giết
đi, người thì chúng bách hại, khiến cho dòng giống này sẽ bị đòi nợ máu của tất
cả các tiên tri đã đổ ra từ lúc tạo thành vũ trụ, kể từ máu của Abel cho đến
máu của Giacaria, người đã bị sát hại giữa bàn thờ và thánh điện. Phải, Ta bảo
các ngươi, dòng giống này sẽ bị đòi nợ máu. Khốn cho các ngươi! Hỡi những tiến
sĩ luật, vì các ngươi cất giữ chìa khoá sự hiểu biết. Chính các ngươi đã không
được vào, mà những người muốn vào, các ngươi đã ngăn cản họ lại".
Khi người phán bảo
cùng các biệt phái và tiến sĩ luật những lời đó, thì họ bắt đầu oán ghét Người
một cách ghê gớm, và chất vấn Người về nhiều vấn đề, cố gài bẫy Người để may ra
bắt bẻ được lời gì do miệng Người thốt ra chăng.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Dòng Máu Cứu
Ðộ
Với lý thuyết:
"Người chết không nói", các đối thủ của những người thường dùng bạo lực
để thủ tiêu những người can đảm đóng vai trò tiên tri để nói lên sự thật chống
lại kỳ thị bất công, bênh vực quyền lợi của những người nghèo khổ. Từ máu Abel,
người vô tội đầu tiên đổ ra vẫn luôn nhuộm hồng với máu các tiên tri thuộc mọi
màu da, tiếng nói: một Martin Luther King, mục sư chủ trương bất bạo động để
tranh đấu cho sự phân biệt và kỳ thị mầu da ở xã hội Mỹ và bị bắn ngã ngày
4/4/1968; hay một Oscar Roméro, vị giám mục thật sự yêu mến người nghèo đã bị
ám sát khi đang dâng Thánh Lễ tại một bệnh viện vào chiều ngày 23/4/1980.
Trong Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giêsu đề cập đến việc lấy máu đào làm chứng cho sự thật nơi các tiên
tri, Ngài cũng nói đến việc phải trả nợ máu. Ðoạn Tin Mừng còn cho thấy lòng
oán ghét của các Luật sĩ và Biệt phái đối với Chúa Giêsu ngày càng gia tăng, và
chính lòng oán ghét này đã dẫn Chúa Giêsu đến cái chết đẫm máu trên Thập Giá, để
Ngài thực sự chia sẻ số phận của các tiên tri. Những dòng máu chảy từ thân xác
Chúa Giêsu đã không đòi nợ máu, trái lại còn giải nợ máu, bởi vì những dòng máu
chảy ra vì tình yêu và vâng phục đối với Chúa Cha, đã phá tan vòng luẩn quẩn của
hận thù và oán ghét, qua lời Chúa Giêsu xin Cha tha thứ cho những kẻ hành khổ
và xử tử Ngài.
Cái chết vì tình yêu và
vì vâng phục của Chúa Giêsu cũng đã phá tan lý thuyết "người chết không
nói", bởi lẽ từ dạo ngài gục đầu tắt thở trên Thập Giá, cái chết của Ngài
đã nói và vẫn tiếp tục nói trải qua gần 2,000 năm nay, nói với những người tin
lẫn người không tin vào Ngài về độ sâu của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại
và về độ dầy của tình yêu Ngài đối với mọi người. Qua đó, cái chết của Chúa
Giêsu đã trở thành nguồn sống và trao ban cho cái chết của những người can đảm
đóng vai trò tiên tri một ý nghĩa, một sức mạnh, để cái chết của họ cũng tiếp tục
nói và gây ảnh hưởng cũng như thu lượm kết quả mỹ mãn hơn lúc họ còn sống. Cái
chết của Mục sư Martin Luther King đã đẩy mạnh và đóng góp phần không nhỏ vào
phong trào chống phân biệt, kỳ thị cho những người da mầu tại xã hội Mỹ và nhiều
nơi khác trên thế giới. Cái gục đầu tắt thở trên bàn thờ đang lúc dâng Thánh Lễ
của Ðức Cha Oscar Roméro đã gây niềm hy vọng và sức mạnh khôn lường cho bao
nhiêu người dấn thân tranh đấu cho công bằng xã hội tại các quốc gia Mỹ Châu La
Tinh.
Nợ máu vẫn đòi phải trả
bằng máu. Nhưng từ dạo máu Chúa Giêsu chảy trên đồi Calvê và vẫn tiếp tục chảy
trên bàn thờ mỗi ngày khắp nơi trên thế giới, những dòng máu hy sinh cho chính
nghĩa, những dòng máu chảy ra vì tình yêu, đã trở thành khí giới sắc bén phá
tan hận thù, bất công, để góp phần xây dựng một thế giới thấm nhuộm tình người,
dẫn đến một nhân loại biết liên đới chia sẻ, yêu thương.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 28 TN1
Bài đọc: Rom
3:21-30; Lk 11:47-54.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lề Luật không
đủ sức mạnh giúp chúng ta nên công chính.
Một trong những chủ đề
chính mà Chúa Giêsu cũng như thánh Phaolô tranh cãi nhiều với người Do-thái, là
vai trò của Lề Luật trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Người Do-thái tin họ
có thể trở nên công chính bằng việc giữ cẩn thận tất cả các Lề Luật của Thiên
Chúa. Chúa Giêsu cũng như thánh Phaolô tuyên bố Lề Luật không thể giúp cho con
người nên công chính; vì không ai có thể giữ trọn vẹn mọi Luật. Để nên công
chính, mọi người, Do-thái cũng như Hy-lạp, cần tin vào Đức Kitô. Nếu Lề Luật có
đủ sức mang ơn cứu độ, Thiên Chúa không cần phải sai Con của Ngài xuống thế
gian để chuộc tội cho con người.
Các Bài Đọc hôm nay muốn
chúng ta nhận ra sự bất toàn của con người trong việc thi hành Lề Luật của
Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô nhận xét: có Luật hay không, cả
Do-thái lẫn Dân Ngoại đều phạm tội; vì thế, để được hưởng ơn cứu độ, mọi người
phải tin vào Đức Kitô: ''Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm cho nên công
chính nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất
luận là ai.'' Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tố cáo các kinh-sư đã lạm dụng Lề Luật
để bắt bớ và giết các ngôn sứ Thiên Chúa đã liên tục gởi tới cho con người; họ
còn dùng Lề Luật để bẻ cong sự thật và ngăn cản con người không cho tới với
Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Con người được công chính hóa nhờ niềm tin vào Đức Kitô.
1.1/ Cả Do-thái và Dân
Ngoại đều cần tin vào Đức Kitô: Sau khi đã
trình bày về tội của Dân Ngoại (Rom 1:18-32) và tội của người Do-thái
(2:1-3:8), thánh Phaolô kết luận cả hai cùng bị tội lỗi thống trị và đều cần
tin vào Đức Kitô để được trở nên công chính. Ngài nói: ''Nhưng ngày nay, sự
công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Moses. Điều
này, sách Luật và các ngôn sứ làm chứng. Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm
cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả những ai tin đều được
như thế, bất luận là ai. Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh
quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban
không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Giêsu Kitô.''
Để dẫn chứng Sách Luật,
Phaolô dùng Gen 15:6, "Ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người
công chính" (Rom 4:3). Phaolô cũng suy diễn về lời hứa của Thiên Chúa với
tổ phụ Abraham là sẽ ban cho ông một giòng dõi đông như sao trên trời và cát
ngoài bãi biển. Điều này chỉ có thể thực hiện nhờ niềm tin vào Đức Kitô: tất cả
những ai tin vào Đức Kitô đều là con cháu của tổ phụ Abraham vì Đức Kitô thuộc
giòng dõi của tổ phụ Abraham (Rom 4:18-25). Tiên-tri Habbakuk cũng đã nói trước:
''Người công chính sống bởi đức tin'' (Hab 2:4).
Để bảo vệ sự công
chính của Thiên Chúa, Ngài phải sửa phạt kẻ có tội; và để cứu độ con người, Đức
Kitô phải xuống trần để chết thay cho con người và giao hòa con người với Thiên
Chúa. Thánh Phaolô diễn đạt như sau: ''Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội
nhờ máu của Người cho những ai có lòng tin. Như vậy, Thiên Chúa cho thấy Người
là Đấng Công Chính. Trước kia, trong thời Thiên Chúa nhẫn nại, Người đã bỏ qua
các tội lỗi người ta phạm. Nhưng bây giờ, Người muốn cho thấy rằng Người vừa là
Đấng Công Chính, vừa làm cho kẻ tin vào Đức Giêsu được nên công chính.''
1.2/ Đối thoại giữa thánh
Phaolô với người Do-thái về hai điều:
(1) Vai trò của Lề Luật:
Người Do-thái rất hãnh diện về Lề Luật Thiên Chúa đã ban cho họ qua ông Moses;
nhưng Lề Luật chỉ có ích khi họ tuân hành. Nếu không tuân hành, Lề Luật sẽ trở
thành chứng cớ tố cáo tội của họ. Thánh Phaolô hỏi: ''Vậy thì hãnh diện ở chỗ
nào? Chẳng còn gì để hãnh diện! Dựa vào luật nào mà hãnh diện? Vào việc làm
chăng? Không, nhưng dựa vào lòng tin. Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta
được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy.''
(2) Kế hoạch cứu độ của
Thiên Chúa: Người Do-thái được Thiên Chúa trọn trước Dân Ngoại để chuẩn bị cho
Đấng Cứu Thế đến; nhưng khi Đấng Cứu Thế đến, ơn cứu độ được mở rộng cho tất cả
mọi người, vì mọi người đều là con của Ngài. Thánh Phaolô chất vấn: ''Hay Thiên
Chúa chỉ là Thiên Chúa của người Do-thái thôi? Thiên Chúa không là Thiên Chúa của
các dân ngoại nữa sao? Có chứ! Người cũng là Thiên Chúa của các dân ngoại nữa,
vì chỉ có một Thiên Chúa, Đấng làm cho người được cắt bì nên công chính vì họ
tin, và làm cho người không được cắt bì nên công chính cũng bởi họ tin.''
2/ Phúc Âm: Con người dùng Lề Luật để tiêu diệt sự thật.
2.1/ Các kinh-sư dùng Luật
để giết các ngôn-sứ và tông-đồ: Chúa Giêsu
trách mắng các kinh-sư: "Khốn cho các người! Các người xây lăng cho các
ngôn sứ, nhưng cha ông các người đã giết chết các vị ấy! Như vậy, các người vừa
chứng thực vừa tán thành việc làm của cha ông các người, vì họ đã giết các vị ấy,
còn các người thì xây lăng.''
Các kinh-sư chỉ tôn
kính các ngôn sứ khi họ đã chết; nhưng bắt bớ các ngôn sứ khi họ còn sống.
Thiên Chúa luôn gởi các ngôn sứ đến để kêu gọi mọi người ăn năn, hối cải, và
quay trở về với Ngài; nhưng các kinh-sư là những người luôn chống đối, bắt bớ,
và tìm cách giết chết họ. Vì thế mà Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã phán:
"Ta sẽ sai Ngôn Sứ và Tông Đồ đến với chúng: chúng sẽ giết người này, lùng
bắt người kia. Như vậy, thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu tất cả các ngôn sứ đã đổ ra
từ tạo thiên lập địa, từ máu ông Abel đến máu ông Zachariah, người đã bị giết
giữa bàn thờ và Thánh Điện. Phải, tôi nói cho các người biết: thế hệ này sẽ bị
đòi nợ máu.''
Một ví dụ điển hình
cho những điều Chúa nói là họ đang tìm bắt bớ chính Chúa Giêsu, vị Ngôn Sứ trên
tất cả các ngôn sứ, như trình thuật kể: "Khi Đức Giêsu ra khỏi đó, các
kinh sư và các người Pharisees bắt đầu căm giận Người ra mặt, và vặn hỏi Người
về nhiều chuyện, gài bẫy để xem có bắt được Người nói điều gì sai chăng."
2.2/ Các kinh-sư dùng Luật
để bẻ cong sự thật: "Khốn cho các người,
hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết: các
người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản."
- Luật làm ra để bảo vệ
công bằng cho mọi người; họ dùng Luật để sáng chế ra những luật trừ để đối xử bất
công và tước đoạt tài sản của người khác.
- Luật làm ra để đưa
con người đến gần Chúa; cách họ áp dụng Luật làm mọi người tránh Thiên Chúa,
làm dân chúng nhìn Chúa như một hung thần, sẵn sàng sửa phạt mọi người vi phạm.
- Luật giúp cho con
người biết cách sống thế nào để được hạnh phúc; cách họ cắt nghĩa và áp dụng Luật
làm mọi người cảm thấy ngột ngạt, gánh nặng, và bất an.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Lề Luật của Thiên
Chúa tốt lành, và có thể giúp cho con người đạt tới hạnh phúc nếu con người sống
theo những điều Thiên Chúa dạy. Nhưng con người chúng ta yếu đuối không thể sống
theo hoàn toàn những điều Luật dạy. Đó là lý do chúng ta cần Đức Kitô và ơn
thánh của Ngài.
- Chúng ta hãy biết
tôn trọng, sống theo, và làm chứng cho sự thật. Đừng bao giờ coi thường, bẻ
cong, và truy tố những người dám sống và làm chứng cho sự thật.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
19/10/2017 - THỨ NĂM TUẦN 28 TN
Th. Gio-an Brê-bớp, I-sa-ác Giô-gơ, tử đạo
Lc 11,47-54
LỜI RĂN ĐE NGHIÊM KHẮC
“Khốn cho các người!...” (Lc 11,47)
Suy niệm: Chúa Giê-su là mục
tử nhân lành và mạc khải cho chúng ta về Thiên Chúa là Cha luôn thương yêu và
chúc lành cho con cái mình, vậy mà sao Ngài lại dùng những lời chúc dữ thật nặng
nề: “Khốn cho các người”? Mà đây đâu có phải là lần duy nhất Ngài thốt lên những
lời như vậy! Nào cha ông ta đã chẳng nói: “Yêu cho roi cho vọt” sao? Nói như vậy
không có ý cho rằng Thiên Chúa giống như một người cha thích hành hạ, làm khổ
nhục con cái để thoả mãn cơn nóng giận của mình. Trước sứ điệp Tin Mừng, các
kinh sư và biệt phái vẫn giả hình và cứng lòng tới mức khó lòng hoán cải. Đau
lòng, nhưng Chúa muốn chỉ ra cho họ biết, tự thâm tâm, họ đồng lõa với sự ác,
đi theo vết xe đổ của cha ông, chứ không chỉ là lỗi lầm nhất thời. Những lời
chúc dữ có nặng nề thật đấy, nhưng Ngài chỉ ra cho họ một viễn tượng, và mời gọi
tự nguyện hoán cải. Và nhất là Ngài đã chấp nhận trở thành “đồ bị chúc dữ” khi
chịu chết trên thập giá để hoá giải chính lời chúc dữ. Qua con đường đó, phải
chăng đã chẳng có những biệt phái và kinh sư hoán cải trở thành môn đệ Ngài như
Ni-cô-đê-mô, Giu-se A-ri-ma-thi-a, Phao-lô… sao?
Mời Bạn: Khi một biến cố đau thương
xảy đến trong đời bạn, bạn có coi đó như một lời răn đe nghiêm khắc của Chúa
trước sự cứng lòng của bạn, của người thân, của nhân loại không?
Chia sẻ: Bạn noi gương Chúa thế nào trong việc răn dạy những người
mà bạn có trách nhiệm khi họ sai lỗi?
Sống Lời Chúa: Chiêm ngắm Chúa chịu chết
trên thánh giá và xin ơn đừng cứng lòng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con muốn
chiêm ngắm Chúa chịu đóng đinh để con hoán cải và giúp tha nhân hoán cải.
(5 Phút Lời Chúa)
Ngôn sứ và tông đồ (19.10.2017 – Thứ năm Tuần 28 Thường niên)
Kitô hữu tự bản chất là ngôn sứ cho thế giới mình đang sống. Chỉ mong chúng ta cũng can đảm sống như Giêsu và chết như Giêsu.
Suy niệm:
Ơn gọi ngôn sứ chưa bao
giờ là một ơn gọi dễ dàng.
Ngôn sứ là người bất ngờ
được Thiên Chúa kêu gọi,
để trở nên phát ngôn viên
chính thức cho Ngài trước toàn dân.
Thiên Chúa nói qua trung
gian con người,
nói bằng thứ ngôn ngữ con
người để họ hiểu được.
Ngôn sứ đã là người nghe
trước khi là người nói,
là cầu nối chuyển đạt cho
dân sứ điệp mình đã lãnh nhận.
Sứ điệp của Thiên Chúa
lắm khi là những lời cảnh báo, răn đe,
nên công việc của ngôn sứ
không dễ được mọi người đón nhận.
Ngôn sứ có thể tố cáo
tính vụ hình thức nơi phụng vụ trong Đền thờ,
những người dâng lễ vật
cho Chúa, nhưng lại bóc lột anh em (Is 1, 11).
Ngôn sứ cũng dám nói lên
những điều chưa tốt nơi hàng tư tế,
những hư hỏng, bất công
của vua quan (2 Sm 12, 7),
và những bất trung của
dân chạy theo ngẫu tượng dân ngoại.
Phải có đảm lược mới dám
nói điều Chúa bắt mình nói.
Số phận của một ngôn sứ thường
gắn liền với đau khổ và bách hại.
Môsê và Êlia đều đã có
lúc xin được chết cho xong (Ds 11, 15; 1 V 19, 4).
Giêrêmia cũng chỉ muốn từ
nhiệm, nhưng không được (Gr 20, 7-18).
Giacaria bị ném đá và
giết trong sân Đền thờ (2 Sb 24, 20-22).
Vào thời Tân Ước các ngôn
sứ cũng chịu chung số phận.
Gioan Tẩy giả, Đức Giêsu
và các tông đồ đều nếm khổ đau và cái chết.
Bài Tin Mừng hôm nay nói
đến máu mà bao ngôn sứ đã đổ ra.
Từ thời Hêrôđê đại đế,
người ta bắt đầu xây lăng mộ cho các ngôn sứ,
nhưng chuyện bắt bớ và
sát hại các ngôn sứ thì vẫn kéo dài.
“Thế hệ này sẽ phải trả
lời về máu của mọi ngôn sứ đã đổ ra…” (c.50).
Như vậy thế hệ hiện tại
cũng phải chịu trách nhiệm về tội ác quá khứ,
vì chính họ đang nhúng
tay
vào việc bách hại các
người được Thiên Chúa sai (c. 49).
Các nhà thông luật hay
các kinh sư mà Đức Giêsu đang gặp gỡ
sẽ có mặt trong Thượng
Hội Đồng để luận tội Đức Giêsu (Lc 22, 66).
Máu vô tội của Đức Giêsu
sẽ đổ ra trên đồi Sọ (Lc 22, 20; Ga 19, 34).
Máu châu báu ấy thực ra
không đòi nợ máu, không đòi trả thù.
Máu ấy đổ ra để xóa tội
cho muôn người (Mt 26, 28),
để giao hòa con người với
Thiên Chúa.
Một số người sẽ phải chịu
trách nhiệm về việc đổ máu Đức Giêsu,
nhưng ngay cả những người
ấy cũng có thể thoát khỏi án phạt
nhờ chính dòng máu từ
trái tim yêu thương của Đấng bị đóng đinh.
Đức Giêsu trên thập giá
đã tha thứ cho những kẻ giết mình.
“Lạy Cha, xin tha cho họ,
vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).
Đức Giêsu phục sinh đã
sống sự tha thứ ấy
khi Ngài chẳng hề báo thù
những kẻ can dự vào cái chết của Ngài.
Các tông đồ cũng lần lượt
chia sẻ chén đắng của Thầy mình.
Kitô hữu tự bản chất là
ngôn sứ cho thế giới mình đang sống.
Chỉ mong chúng ta cũng
can đảm sống như Giêsu và chết như Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên
Chúa,
Chúa đã làm người như
chúng con,
nên Chúa hiểu gánh nặng
của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời
mọc
mà con người lại yếu đuối
mong manh.
Hạnh phúc thường được
trộn bằng nước mắt,
và giữa ánh sáng, cũng có
những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
nếu có lúc con mệt mỏi và
xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng
trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết
được.
Nếu có lúc con thấy bóng
tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng
trên thập giá
Chúa đã thốt lên: Sao Cha
bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con
đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để
con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
đối diện với những thách đố
vì biết rằng cuối cùng
chiến thắng thuộc về người
có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
19 THÁNG MƯỜI
Chứng Từ Của Tình
Yêu Huynh Đệ
Sau khi ghi nhận những
công việc xuất phát từ tình yêu lớn lao dành cho Chúa Kitô trong trái tim của
người phụ nữ này – một tôi tớ nhỏ bé của Thiên Chúa – tôi liên tưởng đến giáo
huấn mà Tông Đồ Phao-lô đã viết cho các tín hữu Philipphê: “Nếu quả thật sự
liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái
khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống
thân tình và biết cảm thương nhau, thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi
được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn,
cùng một ý hướng như nhau” (Pl 2,1-2).
Phải chăng những lời
này của vị Tông Đồ Dân Ngoại chỉ dành cho giáo đoàn ở Philipphê? Hay chỉ gởi
cho giáo hội ở Calcutta? Không! Đó là những lời được gởi cho toàn thể Giáo Hội ở
mọi nơi trên thế giới, gởi cho mọi người Kitô hữu! Có thể nói, đó là những lời
được gởi cho mọi tín đồ thuộc mọi niềm tin tôn giáo, cho tất cả những con người
thiện chí. Đó là một chứng từ của tình yêu huynh đệ: “Xin anh em hãy làm cho niềm
vui của tôi được nên trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến,
cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm gì vì ganh tị hay vì hư
danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” (Pl 2,2-3).
Đừng! Chúng ta đừng
bao giờ hành động theo hướng nuôi dưỡng hận thù, bất công, hoặc gây ra đau khổ!
Đừng bao giờ hành động để chạy đua vũ trang! Đừng bao giờ hành động theo hướng
áp bức các dân tộc yếu kém! Đừng bao giờ hành động theo những dạng trá hình của
chủ nghĩa đế quốc và những ý thức hệ bất nhân chà đạp tinh thần người ta.
Cuối cùng, hãy cho
phép những người thấp cổ bé miệng được lên tiếng nói! Hãy cho phép những người
nghèo của Mẹ Têrêsa – cũng như mọi người nghèo trên thế giới – được lên tiếng
nói! Bởi tiếng nói của họ chính là tiếng nói của Đức Kitô! Amen.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 19-10
Thánh Gioan
Brêbeuf, linh mục
Thánh Isaác Jogues,
linh mục và các bạn tử đạo
Thánh Phaolô, Thánh
giá linh mục
Rm 3, 21-30; Lc 11,
47-54.
Lời suy niệm: “Khốn cho cả các
ngươi nữa, hỡi những nhà thông luật! Các ngươi chất trên vai kẻ khác những gánh
nặng, không thể gánh nổi, còn chính các ngươi, thì dù một ngón tay cũng không đụng
vào.”
Đây là những lời Chúa
Giêsu đã nói sau khi Người chứng kiến những người Pharisêu sống chuộng hình thức
bên ngoài (sống giả hình). Từ việc rảy nước trên các thực phẩm mua từ chợ về, rửa
chén bát và tay cho sạch trước khi ăn, trong khi đó trong lòng đầy những việc xấu
xa, cướp bốc, gian tà; không chịu làm cho thanh sạch; lại tính toán hơn thiệt
trong việc nộp thuế cho Đền Thờ theo nghĩa vụ cũng như trong việc hiếu nghĩa với
cha mẹ. trong lúc đó, lại luôn muốn nâng mình lên, trỗi vượt hơn người khác, bằng
cách chiếm chỗ nhất trong các hội đường và các bàn tiệc.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa
đã chứng kiến những điều trái ý của Chúa. Giờ đây, xin Chúa đừng để chúng con
sa vào những hình thức mà đã bị Chúa kết án: “Khốn cho các ngươi!”
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 19-10
Thánh PHAOLÔ THÁNH
GIÁ
(1694 - 1775)
Ít có biến cố đẹp mắt
để ghi lại cuộc đời của Paul Prannes Daniel. Thường trọn đời Ngài dành cho cầu
nguyện, sám hối và tôn sùng cụôc tử nạn của Chúa. Ngài là dụng cụ phổ biến lòng
tôn sùng này với dòng tu Ngài thiết lập, dòng Thương khó. Ngài sinh tại miền Bắc
Ý năm 1694 từ một gia đình trung lưu đạo đức. Dầu cuộc sống Ngài cho tới tuổi15
đã diễn ra như cuộc sống bình thường của người Kitô hữu, nhưng vào thời này,
người đã trải qua một loạt trở lại khiến Ngài dâng trọn đời cho việc cầu nguyện
hãm mình: Ngài quỳ gối lâu giờ, thực hành những việc phạt xác như ngủ trên đất
và ăn chay liên tục, nhờ đó ảnh hưởng đối với những người đương thời, khiến nhiều
người đi tu dòng hay là một linh mục triều.
Vào tuổi 20, việc gia
nhập đạo quân Venise để bảo vệ Kitô giáo chống lại người Hồi cho thấy sau một
thời lý tưởng Ngài đã khác. Nhưng Ngài đã trở lại đời sống cầu nguyện hãm mình.
Sáu năm qua đi và chỉ
đến lúc 26 tuổi, Ngài mới thấy rõ hơn chuỗi ngày tương lai của mình trong một
loạt các thị kiến. Ngài hiểu rằng: mình phải lập một dòng tu đặc biệt tôn sùng
cuộc khổ nạn. Trước hết Ngài bắt đầu nếp sống mà tu sĩ dòng Thương khó sẽ phải
sống, trong khi phát ra một qui luật gửi về Roma xin phê chuẩn. Sau một ít khó
khăn, luật này đã được chuẩn nhận. Ngài và em mình là Gioan Tẩy giả đã lập dòng
ở Mote Argentaro và nhận những tập sinh đầu tiên. Đức Bênêdictô XIV đã buộc giảm
nhẹ đôi chút sự khắc khổ trong đời sống tu trì và đi rao giảng trong các miền
lân cận.
Phaolô là một nhà truyền
giáo nhiệt thành rao giảng cuộc Thương Khó khắp nơi và gây được nhiều cuộc trở
lại. Những năm cuối đời, Ngài đã lập dòng các nữ tu thương khó. Bây giờ Ngài được
dân chúng coi như một vị thánh và mỗi khi đi qua đâu, Ngài phải chịu đựng đám
đông những người lo kiếm miếng vải áo Ngài làm thánh tích, họ chạm tới Ngài hay
xin Ngài chữa bệnh hoặc một ân huệ nào khác. Ngài qua đời ngày 18 tháng 10 năm
1775 vào tuổi 80 và được tuyên thánh khoảng gần thế kỷ sau năm 1865.
Điều lạ lùng là vị
thánh người Ý không hề rời xa quê hương mình sinh trưởng lại rất quan tâm tới
việc trở lại của nước Anh mà Ngài biết đến rất ít. Ngài nói: "Nước Anh
luôn ở trứơc mặt tôi và nếu nước Anh trở lại công giáo thì ích lợi cho Giáo hội
vô kể". Dầu bản thân Ngài đã không thể đi bước tích cực nào để cải tiến vấn
đề, cũng cần ghi lại rằng 65 năm sau khi Ngài qua đời,một tu sĩ, dòng Thương
Khó, anh Dominicô Barbeni đã tới nước Anh và trở thành dụng cụ đưa về hiệp
thông với Giáo hội Jolm Hery Newman và nhiều người khác nữa, như thế là góp phần
vào việc phục hồi đạo công giáo tại xứ sở này.
************************
Ngày 19-10
Ngày 19-10
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO MIỀN
BẮC MỸ
(Thế kỷ XVII)
Rênê (+1642) Jean
Lalande Và Isaac Jogues (+1644) Antoine Daniel (+1648) Jean De Brébeuf Và
Gabriel Lalemant (+1649) Charles Garnier Và Noel Chabanel (+1649)
Ngay từ năm 1608, hai
tu sĩ dòng Tên đã được gởi tới miền Nova Scotia, nhưng công cuộc sớm bị ảnh hưởng
những cuộc chiến tranh với nước Anh và mãi tới năm 1632 khi Canada đi về với
Pháp, trung tâm truyền giáo mới được các tu sĩ dòn Tên thiết lập thường xuyên ở
Rucbee.
Năm 1633, bề trên Paul
le Jeune kết hợp với Jean de Brébeuf, một nhà quí phái sinh tại Normandie, và
Antoine Daniel với Ennemond Massé. Những khó khăn của các nhà thám hiểm này được
biểu trưng bằng những kinh nghiệm của Le Jeune khi Ngài theo nhóm Algonquin đi
săn bắn: những cố gắng rao giảng của Ngài bị phá hoại bởi những tiếng reo hò,
chế giễu, bởi vì người da đỏ dạy người nói thổ ngữ để châm chọc đã dùng những
chữ độc ác nhất đặt ngang với từ ngữ chỉ đức tin Kitô giáo. Le Jeune cũng bắt dầu
cảm thấy bốn khía cạnh tệ hại nhất trong đời sống dân da đỏ là: lạnh, nóng,
khói và chó. Trong căn lều chất đầy đàn ông, đàn bà và chó ngủ chung quanh đống
lửa đến khi thường bị mù lòa. Một sự kiện khiến Le Jeune nhận định: "Những
lương dân bất hạnh này trải qua cuộc sống đời tạm trong khói mờ và chôn vùi cuộc
sống đời đời trong lửa cháy".
Le Jeune quyết định rằng
không có cuộc truyền giáo nào hy vọng thành công được nếu không hướng về những
bộ lạc đã định cư. Dân Huron sống ở miền phía đông bờ biển Huron đã được chọn
làm trung tâm truyền giáo. Năm 1634, Brébeuf Daniel và Davort đã thành công
trong việc hoà đồng với dân tộc gồm hai chục ngàn dân sống trong ba mươi làng,
mỗi làng có khoảng bảy trăm dân này.
Các nhà truyền giáo gặp
được những người da đỏ lịch sự nhưng xa cách trẻ em và những người hấp hối hầu
như không thể trở lại đạo được, vì họ chỉ coi đó là tôn giáo của người da trắng.
Họ hỏi: "Các ông có săn bắn trên thiên đàng, đánh nhau hay mừng lễ không ?".
Được trả lời là không. Họ liền đáp lời: "Vậy chúng tôi không tới đó đâu.
Nhàn cư vi bất thiện. Các nhà truyền giáo nhận thấy điều chống lại mình chính
là cả nếp sống với những cưới hỏi phải tranh hùng, những hành hạ và những cuộc
ăn thịt người. Các Ngài quyết định chính mình tập trung dân lại, không coi họ
là đồng minh. Nhưng khích lệ và còn hy vọng những cuộc hôn nhân với dân cư gốc
Pháp nưã.
Sự sáng suốt của quyết
định này đã được củng cố với những kinh nghiệm thu lượm được trong cuộc thí
nghiệm năm 1638, trùng hợp với việc đến góp mặt của năm nhà truyền giáo khác nữa
trong đó có: Isaac-Joques, một học giả và nhà lực sĩ có thể qua mặt cả người da
đỏ và Charles Garnier. Dân da đỏ bắt đầu thù nghịch với các tu sĩ dòng Tên như
là những phù thủy nguyền rủa dân tộc họ, khi ấy bóng áo dài của các Ngài in
trên nền tuyết trắng trên đường đi tới làng nào, trẻ con khóc thét tìm mẹ như
là cơn đói và dịch tễ đã đến. Đó là lúc Jean de Brebeuf thấy thánh giá vĩ đại của
mình tiến đến từ vùng đất dân Iroquois cư ngụ, kẻ thù của dân Huron. Khi được hỏi
thánh giá ấy giống cái gì, Ngài trả lời: "Nó lớn đủ để đóng đinh tất cả
chúng ta".
Dân Iroquois nuôi dưỡng
sự tức giận từ khi bị người Pháp đánh bại 30 năm về trước và mức độ tấn công của
họ ngày càng lớn thêm. Vào tháng tám năm 1624 Jognes, Goupil (một giáo dân cộng
tác vào việc truyền giáo) và một nhóm người da đỏ từ Quebu trở về với thực phẩm
cần thiết cho nhóm truyền giáo và những người dân da đỏ đói khổ. Họ bị dân
Iroquois tấn công và bắt giữ. Dân này gặm tay họ như chó dại, rút móng tay và bắt
họ chạy giữa hai hàng người cho người ta đánh đập mỗi khi qua làng nào. Sự tinh
chế hay là "Mơn trớn" (như người da đỏ nói) của cực hình họ chịu còn
nhiều hơn nữa: than nóng, dao mác, cắt xẻo để diễu cợt và vui chơi. Cái chết
trong bầu khí quỉ quái hơn là chỉ để vui chơi, thường bằng cách thiêu sống và rồi
sau đó thân thể được phân phát làm của ăn.
Goupil tồi tệ nhất.
Ngài bị giết ngày 29 tháng 9 năm 1642 bằng một nhát búa vì dám rửa tội một em
bé nhưng Jognes bị giam giữ nhiều tuần với bản án tử hình vĩnh viễn. Cuối năm
1643, với sự trợ giúp của vài nhà buôn Hòa Lan, Ngài đã trốn thoát được về Pháp
bằng tàu, nhưng lại trở lại truyền giáo năm 1644 và được chính quyền miền tân
Pháp gửi tới dân Iroquois như một sứ giả trong một thời gian hưu chiến ngắn.
Được khích lệ bởi những
kết quả của cuộc viếng thăm này, Jognes đã trở lại với một giáo hữu trợ tá khác
là Jean Lalande. Nhưng thành công của họ không sống lâu: một vụ mất mùa, một
cái hộp khả nghi của Jognes mà người da đỏ tin là có chứa một tai họa và cả hai
bị bắt, bị hành hạ, bị giết ngày 18 tháng 10 năm 1644.
Hầu hết dân Huron đã bắt
đầu đón nhận đức tin Kitô giáo, tinh thần của họ như một dân bị khổ cực với những
cuộc tấn công liên lỉ của dân Iroquois. Cuộc tử đạo kế tiếp xảy ra vào ngày 4
tháng 7 năm 1648 khi pháo đài chính xứ thánh Giuse, một làng 26 ngàn người bị
dân Iroquois phá hủy. Antoin Daniel thành công trong 4 năm liên tiếp vừa mới cử
hành thánh lễ xong, khi thấy nhóm người bảo vệ bị vây khốn, Ngài giục họ trốn
đi và nói: "Tôi sẽ ở lại đây, chúng ta sẽ gặp lại nhau trên thiên
đàng". Mặc nguyên áo, Ngài tiến ra gặp người Iroquois. Họ ngỡ ngàng nhìn lại
một chút, rồi bắn một loạt tên. Sau đó bắt nạn nhân của mình, tắm mặt họ vào
máu Ngài và ném xác Ngài vào ngôi nhà thờ đang bốc cháy.
Mùa Xuân tiếp sau, người
Iroquois tăng gấp đôi nỗ lực nhằm hại người Huron và trong một cuộc tấn công của
1000 người vào làng thánh Lu-y, họ bắt thánh Jean de Brébeuf và Gabriel Lement,
thánh Jean de Brebeuf bị hành hạ nghiêm khắc đến nỗi đã chết sau 4 tiếng đồng hồ.
Một chiếc vòng bằng vàng những cái rìu nóng đỏ quấn quanh cổ Ngài và Ngài đã được
một người Huron phản đạo rửa tội trong nước sôi. Nằm chết, đám đông uống máu
Ngài và thủ lãnh họ được đặc ân ăn trái tim Ngài.
Lelemant ốm yếu đã sống
sót được 17 giờ bị hành hạ trước khi tắt hơi ngày 17 tháng 3 năm 1649.
Hai vị tử đạo khác bị
những người Thổ của Giáo hội người da đỏ kêu gào đòi mạng khi sự khủng khiếp trải
rộng tới dân tộc Tobacco sống ở những thung lũng núi Blue. Trong cuộc tấn công
vào xứ thánh Gioan tháng 12 năm 1644, Charles Garnier đã bị giết khi Ngài cố gắng
giải tội cho một người da đỏ, đang hấp hối. Là con của một người dân thành
Paris, Ngài đã sống bằng rễ cây và trái sồi và đi bộ 30 hay 40 dặm dứơi sức
nóng của mùa hạ qua miền đất thủ hần để rửa tội một người da dỏ đang hấp hối. Bạn
Ngài, Noel Chabanel ngán các điều kiện của việc truyền giáo đến nỗi tự buộc
mình bằng lời khấn sẽ ở lại đó cho tới chết, đã bị giết chết bởi một người
Huron phản đạo vì tin rằng: tôn giáo mới chịu trách nhiệm về số phận đau khổ của
quê hương anh ta.
Cuộc truyền giáo cho
người Huron như thế thật gian khổ chỉ thấy chán nản thất vọng và phân tán. Tuy
vậy ảnh hưởng của cuộc truyền giáo đã thay đổi nếp sống những người da đỏ, dầu
họ còn hoang dại nhưng hết độc ác.
(daminhvn.net)
19 Tháng Mười
Ôi Giêsu, Ôi Giêsu!
Jeanne D'Arc, một
cô gái quê, đã nghe theo tiếng gọi từ trời cao để cầm quân đánh đuổi người Anh
ra khỏi đất Pháp. Nhờ chiến thắng này, hoàng tử Charles đã được đăng quang làm
vua nước Pháp.
Nhưng sau đó trong
một trận chiến khác, Jeanne D'Arc bị bại trận, cô bị người Anh bắt giữ và kết
án hỏa thiêu. Trong những giờ phút cuối cùng cô chỉ còn trơ trọi một mình: người
mẹ thân yêu ở cách xa ngàn dặm, vua Charles không muốn bỏ tiền ra để chuộc cô,
các tướng lãnh và binh lính đã từng sát cánh bên cô cũng đã bỏ chạy trốn hết.
Chỉ còn lại âm thanh lúc nào cũng trung thành với cô: đó chính là tiếng kêu của
cô.
Trong cơn đau đớn
cùng cực, người thiếu nữ đã kêu lớn: "Ôi Giêsu, ôi Giêsu!". Quả thật,
dù lòng người có bội bạc phôi pha, Chúa Giêsu vẫn luôn ở với cô và luôn an ủi đỡ
nâng cô.
Tin tưởng là tiếp tục
yêu mến cho dù trong từng phút giây ta có bị người đời bỏ rơi, phản bội. Yêu là
tin rằng ta có thể trung thành trước những bất trung của người khác và những
thăng trầm của cuộc sống. Chúng ta đứng vững trong niềm tin vì cho dù xung
quanh ta không còn một bóng người, Thiên Chúa vẫn luôn ở đó.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét