Trang

Chủ Nhật, 19 tháng 11, 2017

20-11-2017 : THỨ HAI - TUẦN XXXIII THƯỜNG NIÊN

20/11/2017
Thứ hai tuần 33 thường niên


Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Mcb 1, 11-16. 43-45. 57-60. 65-67
"Dân Israel phải chịu một cơn thịnh nộ khủng khiếp".
Trích sách Macabê quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, bởi dòng các vua Hy-lạp sinh ra một mầm mống tội lỗi, là Antiôcô Êpiphan, con vua Antiôcô, trước kia bị bắt làm con tin tại Rôma; năm vương quốc Hy-lạp một trăm ba mươi bảy, ông lên ngôi vua.
Thời đó từ Israel cũng xuất hiện một số người bất lương mê hoặc được nhiều người, chúng nói rằng: "Này, ta hãy giao ước với các dân ở chung quanh chúng ta, vì từ ngày chúng ta đoạn giao với các dân ấy, chúng ta đã gặp nhiều tai hoạ". Họ cho lời nói ấy là đúng. Một số trong dân chúng hối hả đi yết kiến nhà vua và được nhà vua cho phép tuân giữ các luật lệ của dân ngoại. Họ liền xây cất một thao trường ở Giêrusalem theo tập quán của dân ngoại; họ tìm cách huỷ bỏ vết tích của phép cắt bì, chối bỏ Giao Ước thánh để rồi giao ước với kẻ ngoại. Họ tự bán mình để làm sự dữ.
Vua Antiôcô ra chiếu chỉ khắp nước truyền cho mọi dân hợp thành một dân và mỗi dân phải bỏ tục lệ riêng mình; tất cả các dân ngoại đều tuân lệnh nhà vua. Nhiều người Israel cũng sẵn sàng theo việc phượng tự của nhà vua, họ liền hiến tế cho ngẫu tượng và phế bỏ ngày sabbat.
Ngày rằm tháng Kislêu, năm một trăm bốn mươi lăm, vua Antiôcô đặt một ngẫu tượng ghê tởm ngay trên bàn thờ dâng của lễ toàn thiêu. Người ta cũng lập nhiều bàn thờ khác trong các thành lân cận của Giuđa: người ta đốt hương cúng tế trước cửa nhà và ở các công trường. Hễ gặp thấy sách luật nào, họ xé nát và đem đốt đi. Nếu người ta bắt gặp sách giao ước trong nhà người nào hoặc bắt gặp kẻ nào giữ Luật Chúa, thì kẻ ấy sẽ bị xử tử theo đúng chiếu chỉ của nhà vua. Nhưng cũng có nhiều người Israel tỏ ra kiên quyết, và nhất định không ăn của gì dơ nhớp; họ thà chết chẳng thà làm cho mình ra ô uế bởi của ăn dơ và phạm đến Giao Ước thánh, và quả thực họ đã chết. Dân Israel phải chịu một cơn thịnh nộ khủng khiếp.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 118, 53. 61. 134. 150. 155. 158
Ðáp: Lạy Chúa, xin bảo toàn cho con sống, và con sẽ tuân giữ lời nghiêm huấn của Ngài (x. c. 88).
Xướng: 1) Con nổi cơn uất hận vì những người tội lỗi, bọn chúng bỏ rơi luật pháp của Ngài. - Ðáp.
2) Thừng chão bọn ác nhân đã trói buộc con, nhưng con chẳng lãng quên luật pháp của Ngài. - Ðáp.
3) Xin Chúa cứu con khỏi người ta áp bức, để con tuân giữ các huấn lệnh của Ngài. - Ðáp.
4) Những kẻ bách hại con cách độc ác đang tiến lại gần, bọn chúng sống xa pháp luật của Chúa. - Ðáp.
5) Ơn cứu độ của Chúa xa bọn ác nhân, vì chúng chẳng lo giữ những thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.
6) Nhìn thấy những kẻ phản bội mà con chán nản, vì chúng không tuân giữ lời sấm của Ngài. - Ðáp.

Alleluia: Lc 16, 31
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 18, 35-43
"Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi? - Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi Chúa đến gần thành Giêricô, thì có một người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Khi nghe tiếng đám đông đi qua, anh liền hỏi có chuyện gì đó. Người ta nói cho anh biết có Ðức Giêsu Nazareth đang đi qua. Bấy giờ anh liền kêu lên rằng: "Lạy ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Những người đi trước mắng bảo anh nín đi, nhưng anh lại càng kêu lớn tiếng hơn: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Vậy Chúa Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến cùng Người. Khi anh đến gần bên Người, Người hỏi anh: "Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?" Anh thưa: "Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy". Chúa Giêsu bảo anh: "Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi". Tức khắc anh thấy được và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Người mù thành Giêrikhô
Giáo Hội sắp kết thúc năm phụng vụ với lễ Chúa Giêsu Kitô Vua để nhắc nhở mỗi người chúng ta về sự thật căn bản là Thiên Chúa là khởi đầu và cùng đích của mọi sự, là Alpha và Ômêga. Con người và vũ trụ đã được Thiên Chúa sáng tạo, đặt vào trong hiện hữu và cuối cùng sẽ trở về cùng Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Trong thời gian chờ đợi ngày trở về cuối cùng này, mỗi người chúng ta phải sống như thế nào? Trong tuần lễ này, chúng ta hãy đối chiếu cuộc sống cụ thể của mình với lời dạy của Chúa trong Phúc Âm, và không phải chỉ đối chiếu suông mà thôi, mỗi người chúng ta cần sửa chữa, cần dứt bỏ đi những gì không phù hợp với lời dạy của Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại cuộc gặp gỡ hồng phúc giữa Chúa Giêsu và người mù thành Giêrikhô. Thái độ của anh mù này có thể nêu gương cho mỗi người chúng ta. Ðây không phải là dụ ngôn mà là một biến cố thật sự đã xảy ra, trong đó ta có thể quan sát hai thái độ thực hành.
Thái độ của những người cản trở không cho anh mù đến với Chúa Giêsu, dường như thể chỉ có họ mới có quyền hay đặc quyền theo bên Chúa. Còn người mù ăn xin kia không có phẩm giá, không được kính trọng và không có quyền làm phiền Chúa, không có quyền đi theo Chúa. Ðây là những người độc quyền và muốn giới hạn hành động của Thiên Chúa theo những tiêu chuẩn phàm trần do chính con người đặt ra. Trong mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa trên bình diện của sự thông ban ân sủng cứu rỗi, con người không thể cậy dựa vào quyền lợi của mình mà đòi buộc Thiên Chúa phải làm như thế này hay như thế nọ. Tất cả là ân sủng nhưng không của Thiên Chúa, không ai có quyền giới hạn ân sủng đó cho riêng mình hay trong phạm vi mà mình muốn mà thôi.
Và thái độ thứ hai là thái độ chúng ta quan sát thấy nơi anh mù ngồi ăn xin bên vệ đường gần thành Giêrikhô. Ý thức thân phận của mình, không có gì để khoe khoang hay đòi hỏi, nhất là đòi hỏi Thiên Chúa, anh mù chỉ khiêm tốn kêu xin: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi". Người ta càng ngăn cản thì anh càng la to hơn: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi". Sự mù lòa thể xác và nghèo hèn vật chất không phải là một ngăn trở không cho con người gặp gỡ Thiên Chúa và lãnh nhận ơn lành của Ngài, và từ ơn lành cho thể xác mù lòa: "Lạy Ngài, xin cho con được nhìn thấy". Anh mù đã tiến thêm một bước quan trọng thứ hai là theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa, đến độ những kẻ chung quanh cũng được khuyến khích làm theo như vậy. Tác giả Phúc Âm theo thánh Luca đã chú ý ghi lại chi tiết: "Tức khắc anh thấy được và anh đi theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa". Ðược Thiên Chúa chữa lành, anh mù được sáng mắt kia đi theo Chúa.
Trong Phúc Âm cũng có trường hợp con người được Thiên Chúa làm phép lạ, ban cho ơn lành nhưng rất ít người có phản ứng như anh mù này: "Anh đi theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa". Anh làm cho nhiều người bị lôi cuốn ca tụng Thiên Chúa như anh vậy. Anh đã sống trọn vẹn điều mà chúng ta có thể diễn tả qua từ ngữ "Sống trọn vẹn ơn gọi Kitô". Theo Chúa, ca tụng Chúa và làm cho anh chị em chung quanh ca tụng Thiên Chúa. Chúng ta nhớ lại lời căn dặn của Chúa Giêsu với các đồ đệ của Ngài như được ghi lại nơi Phúc Âm thánh Mátthêu chương 5,16 như sau: "Ánh sáng của anh em phải chiếu dọi cho mọi người để họ xem thấy việc lành của anh em mà ngợi khen Cha của anh em ở trên trời".
Lạy Chúa,
Người mù thành Giêrikhô thức tỉnh chúng con, những kẻ đã lãnh nhận nhiều ơn lành của Chúa mà lại không biết theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa, đó là sự mù lòa thiêng liêng có thể làm cho con người càng ngày càng sống bội bạc với Chúa.
Lạy Chúa, xin thương giải thoát chúng con khỏi sự mù lòa nguy hiểm này.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)


LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Hai Tuần 33 TN1, Năm lẻ
Bài đọcI Mac 1:10-15, 41-43, 54-57, 62-63; Lk 18:35-43.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lòng trung hiếu với Thiên Chúa.
Trong cuộc đời chúng ta thường gặp thấy hai mẫu người trái ngược nhau. Một mẫu người dễ dàng ''hễ thay ngôi là đổi chủ," vì mục đích của họ là làm sao cho có lợi nhuận nhiều và không phải hy sinh chịu đau khổ. Đây cũng là loại người thích "bắt cá hai tay," trên có bàn thờ Chúa Mẹ, dưới thì quàng thêm ông thần tài cho chắc ăn. Họ nghĩ lỡ không có Chúa Mẹ, hay các Ngài không ban, họ vẫn còn thần tài phù hộ. Ngược lại, một mẫu người có hướng đi rõ rệt, khi đã tin ai và đã hứa điều gì, họ nhất quyết sống theo niềm tin và giữ lời hứa; cho dù có phải chịu đau khổ và chấp nhận cái chết.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy hai mẫu người tương phản trong cuộc đời. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Maccabees I trình bày hai mẫu người Do-thái: (1) Những người dựa vào lợi nhuận để thay đổi niềm tin; vì họ không thấy Thiên Chúa ban thưởng gì cho việc giữ Lề Luật cả, nên họ chạy theo lối sống của vua Hy-lạp và quay lưng lại với Thiên Chúa. (2) Những người nhất quyết thờ phượng Thiên Chúa và tuân giữ Lề Luật, họ sẵn sàng hy sinh chịu đau khổ và chịu chết, chứ không bao giờ phản bội Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, người mù thành Jericho nhất định xin Chúa Giêsu chữa lành; cho dù phải gặp bao ngăn cản của đám đông đang đi theo Chúa. Sau cùng, nhờ niềm tin vững mạnh, anh đã được như sở nguyện.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Họ thà chết chẳng thà để cho mình ra ô uế vì thức ăn và vi phạm Giao Ước thánh.
1.1/ Những người nông nổi, "gió chiều nào che chiều ấy:" Đây là thời kỳ đế quốc Hy-lạp cai trị người Do-thái, và những cám dỗ của nền văn minh Hy-lạp làm cho nhiều người Do-thái bỏ đạo và Lề Luật. Tác giả Sách Maccabees tường thuật: Lúc bấy giờ, từ trong Israel đã nảy sinh những đứa vô lại, chúng đã dụ dỗ nhiều người như sau: "Nào chúng ta đi ký kết giao ước với các dân tộc láng giềng, vì từ khi sống cách biệt họ, chúng ta gặp phải nhiều tai hoạ." Nhiều người bị cám dỗ thấy lời này thật vừa lòng nên đã nghe theo.
Rồi vua Antiochus ra chiếu chỉ trong toàn vương quốc truyền cho mọi người phải nhập thành một dân duy nhất, và ai nấy phải bỏ tục lệ của mình. Mọi dân tộc đều chấp hành lệnh vua.
Trong dân Israel, có nhiều người hưởng ứng việc thờ phượng vua đã truyền; họ dâng lễ tế cho các ngẫu tượng, vi phạm luật Sabbath. Ngày mười lăm tháng Chislev, năm một trăm bốn mươi lăm, vua cho dựng đồ ghê tởm phạm thánh trên bàn thờ dâng lễ toàn thiêu và cho lập các bàn thờ trong các thành miền Judah chung quanh Jerusalem. Trước cửa nhà và ngoài quảng trường, người ta dâng hương. Gặp sách Luật ở đâu, thì đem xé và quăng vào lửa. Bắt gặp sách Giao Ước ở nhà ai và biết ai còn tuân giữ Lề Luật, thì đem ra xử tử theo phán quyết của vua.
Một số những lý do làm con người dễ thay ngôi đổi chủ: Thứ nhất, họ không tin những lời Thiên Chúa dạy dỗ và hứa ban. Thứ hai, vì họ không tin có cuộc sống đời sau, nên họ đặt tất cả niềm trông cậy vào cuộc sống đời này. Thứ ba, họ không có tình yêu đối với Thiên Chúa; một khi không có hay đã hết tình yêu, con người sẽ không còn sức mạnh để làm chứng cho Thiên Chúa. Nói tóm, khi con người không có ba nhân đức đối thần tin, cậy, mến; con người dễ chạy theo những cám dỗ của ba thù và không thể trung thành với Thiên Chúa.
1.2/ Những người nhất quyết trung thành giữ Luật Chúa: Lửa thử vàng, gian nan thử nhân đức. Nếu đã có những người khi gặp đau khổ đã phản bội Thiên Chúa; nhưng vẫn còn "nhiều người trong dân Israel vẫn kiên tâm vững chí, nhất định không ăn những thức ăn ô uế. Họ thà chết chẳng thà để cho mình ra ô uế vì thức ăn, vi phạm Giao Ước thánh. Cuối cùng họ đã chết."
Những lý do giúp con người trung hiếu trọn đời với Thiên Chúa: Thứ nhất, họ tin Thiên Chúa, những gì Ngài dạy dỗ và hứa ban cho những ai trung thành. Thứ hai, niềm hy vọng vững vàng của họ vào cuộc sống mai sau. Họ biết Thiên Chúa sẽ trả lại sự sống cho những ai sẵn sàng hy sinh mạng sống làm chứng cho Ngài. Sau cùng là tình yêu của họ dành cho Thiên Chúa. Tình yêu có sức mạnh làm con người vượt qua mọi trở ngại để trung thành với Thiên Chúa. Khi con người đã có tình yêu Thiên Chúa, không gì có thể lay chuyển con người để họ phản bội Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu chữa người mù thành Jericho.
2.1/ Lời cầu xin khẩn thiết của người mù: Việt-Nam có câu tục ngữ: “Có đau mắt thì mới biết thương người mù.” Vì không thấy đường nên tất cả thế giới đẹp đẽ đối với anh là một bóng đen, và công việc duy nhất anh có thể làm được là ngồi ăn xin lòng thương xót của người qua đường. Anh mù chứ không điếc nên khi nghe thấy đám đông đi qua, anh ta hỏi xem có chuyện gì. Họ báo cho anh biết là Đức Giêsu Nazareth đang đi qua đó. Chắc chắn anh đã nghe về Đức Kitô chuyên chữa lành bệnh nhân, nên anh không bỏ lỡ cơ hội, anh liền kêu lên (boa,w) rằng: "Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót tôi!"
Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi. Không ai có thể hiểu nỗi đau khổ của anh; tất cả đều bận tâm với những toan tính riêng tư của họ. Những người quát nạt này có lẽ bực mình vì tiếng kêu cứu của anh làm họ không nghe rõ những gì Chúa Giêsu đang giảng giải. Nhưng anh mù không sờn lòng và càng kêu lớn tiếng hơn (kra,zw): "Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót tôi!"
Việc anh kêu lớn tiếng hơn có thể anh sợ Chúa Giêsu chưa nghe thấy tiếng kêu nài của anh; nhưng cũng để biểu tỏ tấm lòng kiên trì kêu cầu của anh, không một sức mạnh nào có thể ngăn ngừa anh đừng trông cậy vào Thiên Chúa. Với bệnh tật của anh, anh nghĩ có lẽ đây là cơ hội ngàn năm một thuở anh có cơ hội được Chúa Giêsu chữa lành.
2.2/ Phản ứng của Chúa Giêsu, người mù, và đám đông: Làm sao Thiên Chúa của lòng thương xót không động lòng trước tiếng kêu bi thương của con cái mình? Ngài dừng lại, truyền dẫn anh ta đến. Khi anh đã đến gần, Người hỏi: "Anh muốn tôi làm gì cho anh?" Anh ta đáp: "Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được." Người mù không xin tiền, không xin bất cứ sự gì khác, nhưng xin cho được thấy, vì anh biết sự sáng quan trọng thế nào đối với anh. Đức Giêsu nói: "Anh nhìn thấy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh." Lập tức, anh ta nhìn thấy và theo Người, vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa. Anh biết Chúa Giêsu có lòng thương xót, anh biết Chúa Giêsu là người duy nhất có thể chữa anh, và chính anh đã được Chúa Giêsu thương xót chữa lành; nên chuyện anh đi theo Ngài để ngợi khen Thiên Chúa là chuyện tự nhiên phải làm. Thấy vậy, toàn dân cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Cuộc sống với quá nhiều quyến dũ vật chất và hưởng thụ dễ làm cho trái tim con người ra chai đá, khiến chúng ta không còn nhạy cảm với tình thương Thiên Chúa. Chúng ta hãy làm sống lại tình yêu ban đầu của chúng ta dành cho Thiên Chúa, bằng cách năng nhớ lại những gì Ngài đã làm cho chúng ta, để biết ơn, để ca tụng, và biết sống xứng đáng với tình yêu của Ngài.
- Chúng ta hãy làm sống lại tình yêu ban đầu của chúng ta dành cho nhau; để luôn biết quí trọng và dễ tha thứ cho nhau. Những người dễ dàng phản bội tha nhân và thay người yêu như thay áo, chắc chắn sẽ phải chuốc lấy hậu quả của những sự phản bội này một khi đã hết thời hay khi lâm cảnh khốn khó.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.

20/11/17 THỨ HAI TUẦN 33 TN
Lc 18,35-43

SỨC MẠNH CỦA LÒNG TIN

“Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” (Lc 18,42)
Suy niệm: Những lần bị “đột xuất cúp điện”, chúng ta cảm thấy khó chịu, bực bội, công việc như chậm lại và đôi khi có tâm trạng sợ hãi, hụt hẫng vì bóng đêm… Nhân cảm giác này lên gấp bội để cảm nghiệm tâm trạng người mù hành khất trong Tin Mừng. Nếu ánh sáng ngọn nến là điều cần thiết để đẩy lùi bóng đêm thì việc Chúa Giê-su đi qua thành Giê-ri-khô hôm nay là cả một bầu trời ánh sáng. Vì thế vừa nghe tin Chúa Giê-su đi ngang qua, anh mù đã vội kêu lên “Lạy ông Giê-su, xin dủ lòng thương tôi!”
Mời Bạn: Đến với người mù, Chúa Giê-su không dùng quyền năng để phán:“ Ta sẽ cho anh sáng mắt” hay “Ta sẽ chữa lành cho anh” nhưng là “Lòng Tin của anh đã cứu chữa anh” và lập tức anh đã được nhìn thấy. Bạn thân mến! Bóng đêm của thế gian này không thiếu nơi những bất công, tội lỗi, đau khổ, hiểu lầm, chống đối, bệnh tật… Chúng ta có tuyệt đối tin tưởng vào Chúa qua đời sống cầu nguyện không? Có cầu nguyện dù trong bất cứ hoàn cảnh nào không? Hay chúng ta chỉ đến với Chúa một cách vụ lợi để tìm kiếm sự bình an tạm thời và sau đó là những suy tính, hoạch định của riêng mình?
Chia sẻ: Bạn thường làm gì khi gặp những đau khổ trong cuộc sống? Hãy chia sẻ những kinh nghiệm về đời sống cầu nguyện của bạn.
Sống Lời Chúa: Năng tâm niệm “Tin là chấp nhận Chúa Giê-su vô điều kiên và quyết tâm sống chết với Ngài” (Đường Hy Vọng).
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, như các Tông đồ ngày xưa, con muốn thưa lên cùng Chúa với tất cả lòng yêu mến và khát khao: “Lạy Thầy, xin ban thêm lòng tin cho con.” Amen.
(5 phút Lời Chúa)

Xin cho tôi nhìn thy (20.11.2017 – Th hai Tun 33 Thường niên)
Ơn biết mình mù và mun thy rõ chính mình, là mt ơn ln. Có người mù, không biết mình mù, nên vn thn nhiên li trong cnh mù. Li có người c ý không mun thy, c ý mù đ khi phi thay đi.


Suy nim:
Trong những năm hành đạo, Đức Giêsu đã chữa một số người mù.
Vào những ngày cuối đời, khi trên đường lên Giêrusalem lần cuối,
Ngài đã chữa cho anh mù ở Giêricô.
Giêricô được coi là thành phố cổ xưa nhất, không xa Giêrusalem,
nằm ở hạ lưu sông Giođan, thấp hơn mực nước biển 300 mét.
Anh mù ở Giêricô kiếm sống bằng cách ngồi bên vệ đường ăn xin.
Anh vừa bị tách biệt với người khác, vừa bị lệ thuộc vào người khác.
Mất khả năng nhìn, nhưng anh vẫn còn khả năng nghe và nói.
Để gặp được Đức Giêsu, anh đã tận dụng mọi khả năng còn lại.
Anh nghe tiếng đám đông đi qua, tiếng chân người rộn ràng (c. 36).
Anh tò mò hỏi xem chuyện gì vậy.
Khi biết là Đức Giêsu Nadarét đang đi ngang qua,
anh thấy ngay điều mình chờ đợi từ lâu, nay đã đến.
Vị ngôn sứ nổi tiếng này anh nghe đồn đã làm bao phép lạ lẫy lừng.
Ngay cả người mù bẩm sinh cũng được Ngài làm cho sáng mắt.
Cơ hội ngàn năm một thuở đã đến rồi.
Anh tự nhủ mình không thể nào để vuột mất.
Nhưng làm thế nào để Đức Giêsu lưu tâm đến anh?
Làm thế nào để cho Ngài dừng lại?
Vũ khí mạnh nhất và gần như duy nhất của anh, là tiếng kêu.
Chỉ tiếng kêu của anh mới lôi kéo được sự chú ý của Ngài,
và báo hiệu cho Ngài về sự hiện diện của anh.
Anh kêu thật to tên Ngài dù không biết Ngài ở đâu.
“Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi” (c. 38).
Hãy nghe tiếng kêu của anh giữa tiếng đám đông ồn ào cười nói.
Anh kêu tiếng kêu của trái tim, đầy tin tưởng, hy vọng, tha thiết.
Nhưng tiếng kêu ấy lại bị bắt phải im đi, có thể vì sợ gây phiền hà.
Anh mù chẳng những đã không vâng lời, lại còn kêu to hơn nữa.
Rồi tiếng kêu của anh cũng đến tai Đức Giêsu, khiến Ngài dừng chân.
Đức Giêsu muốn gặp người đã gọi tên mình để xin thương xót (c. 40).
Cuộc hạnh ngộ bắt đầu bằng câu hỏi anh mong từ lâu:
“Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (c. 41).
Câu trả lời quá hiển nhiên: “Lạy Ngài, xin cho tôi được thấy.”
Khi được sáng mắt, anh không phải ngồi bên vệ đường như trước đây.
Anh đã nhập vào đám đông những người theo Chúa và đi trên đường.
Nếu hôm nay Chúa hỏi tôi: “Anh chị muốn tôi làm gì cho anh chị?”,
tôi sẽ trả lời Ngài ra sao? tôi sẽ xin Ngài điều gì?
Ơn biết mình mù và muốn thấy rõ chính mình, là một ơn lớn.
Có người mù, không biết mình mù, nên vẫn thản nhiên ở lại trong cảnh mù.
Người ấy có thể vô tội, nhưng có nguy cơ gây hại cho tha nhân (Mt 15, 14).
Lại có người cố ý không muốn thấy, cố ý mù để khỏi phải thay đổi.
Họ không thấy được cái xà trong mắt mình (Mt 7, 3).
Xin Chúa giúp chúng ta xóa những nguyên nhân gây mù,
đó là dục vọng của đôi mắt (1 Ga 2, 16), là thành kiến về người khác.
Xin Chúa giúp chúng ta nhờ đối thoại mà ra khỏi tình trạng mù xem voi,
và được Thánh Thần đưa vào sự thật trọn vẹn (Ga  16, 13).
Ước gì chúng ta khiêm tốn đến với Chúa Giêsu
mà “mua thuốc xức mắt để thấy được” (Kh 3, 18).
Cầu nguyn:
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu giãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
20 THÁNG MƯỜI MỘT
Một Nhãn Giới Mới Về Đời Sống Gia Đình
“Tình yêu vợ chồng đích thực được đưa vào trong tình yêu thần linh, được hướng dẫn và làm cho phong phú bởi quyền năng cứu chuộc của Đức Kitô và bởi đời sống của Giáo Hội, nhờ đó đôi vợ chồng có thể được dẫn dắt đến với Thiên Chúa, được giúp đỡ và được củng cố để thi hành sứ mạng cao cả của mình trong tư cách là cha là mẹ” (MV 48).
Cần phải xem xét gia đình trong một bối cảnh rộng lớn hơn, trong bối cảnh văn hóa và lịch sử trong đó gia đình sống và làm việc. Như tôi đã đề cập trong Tông Huấn Familiaris consortio, “chúng ta đang sống trong một giai đoạn lịch sử trong đó gia đình là đối tượng của vô số áp lực có chiều hướng hủy hoại gia đình hay làm méo mó nó” (FC 3).
Gia đình đã bị tấn công bởi hàng lố những thay đổi về kinh tế và xã hội – những thay đổi ảnh hưởng đến chính cấu trúc của đời sống gia đình. Giáo Hội không thể dừng lại chỉ ở việc báo động về những thay đổi này. Không, Giáo Hội phải thâm nhập, giúp chuyển hóa và củng cố gia đình. Các Kitôhữu phải trở thành sự hướng dẫn lương tâm rất quan trọng trong tình hình mới này. Họ phải là những kiến trúc sư phác họa một viễn tượng mới cho đời sống gia đình. Điều này bao hàm sự biện biệt theo tinh thần Phúc Aâm. Nghĩa là, chúng ta phải đọc và hiểu thực tại đời sống gia đình trong ánh sáng của Đức Kitô, “vị Hôn Phu yêu thương và hiến mình làm Đấng Cứu Độ cho loài người, kết hiệp loài người với chính Ngài như là Thân Thể của Ngài” (FC 13).
Chỉ trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô chúng ta mới có thể biết cách đúng đắn nhằm điều chỉnh cách nghĩ và cách sống sao cho nêu bật được kế hoạch của Thiên Chúa về người nam và người nữ. Tính gay go của vấn đề nằm ở chỗ sự khủng hoảng gia đình phát xuất từ sự tách ly giữa Tin Mừng và văn hóa. Chúng ta phải xây dựng lại một nền văn hóa Kitô giáo đích thực có sức phản ảnh các giá trị của Tin Mừng.



20 Tháng Mười Một
Con Lừa Của Chúa

Thánh Gioan Maria Vianney, lúc còn là một chủng sinh, học hành rất chậm chạp, tưởng chừng như ngài không còn đủ khả năng để tiến tới chức linh mục. Ngày kia, thừa lệnh giám mục giáo phận, một vị giáo sư thần học đã đến khảo sát Vianney. Vianney đã không trả lời được câu hỏi nào... Không giữ được bình tĩnh, vị gióa sư đã đập bàn quát lớn: "Vianney, anh dốt như lừa! Với một con lừa như anh, Giáo Hội sẽ làm được gì?".
Vianney khiêm tốn, bình tĩnh trả lời: "Thưa thầy, ngày xưa, Samson chỉ dùng một cái xương hàm của một con lừa để đánh bại được 3 ngàn quân Philitinh. Vậy, với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm gì được sao?".
Thiên Chúa tự do chọn lựa mỗi người vào chương tình của Người. Người chọn chúng ta không vì tài năng, đức độ của chúng ta. Người quyền năng đến độ có thể biến sự dốt nát, tầm thường của chúng ta thành những giá trị siêu phàm.
Ðiều quan trọng chính là sự đáp trả quảng đại của chúng ta đối với chương trình của Người. Thiên Chúa luôn làm được phép lạ, nếu con người biết cộng tác với Người, ngay cả bằng chính sự dốt nát, vô dụng của mình.
Lẽ Sống


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét